Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học NHẬN DIỆN một số NGUYÊN NHÂN hạn CHẾ VIỆC TIẾP cận NGUỒN vốn tín DỤNG CHÍNH THỨC của các

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.18 KB, 10 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(35).2009

NHẬN DIỆN MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ VIỆC TIẾP CẬN
NGUỒN VỐN TÍN DỤNG CHÍNH THỨC CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI QUẢNG NGÃI
IDENTIFYING SOME CAUSES OF THE LIMITATION FOR OFFICIAL CREDIT
CAPITAL APPROACH OF PRIVATE BUSINESSES AT QUANG NGAI PROVINCE
Nguyễn Trường Sơn
Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Kinh tế tư nhân có vị trí rất quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội của Việt Nam. Trong những năm qua,
doanh nghiệp kinh tế tư nhân tạ i Quảng Ngãi tăng trưởng mạnh về số lượng, tuy nhiên chất
lượng của doanh nghiệp rất thấp. Một trong những nguyên nhân lớn làm hạn chế sự phát triển
của doanh nghiệp kinh tế tư nhân tại đây là việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức gặp
nhiều khó khăn. Sử dụng kết quả từ cuộc điều tra xác định chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
(Provincial Competitiveness Index - 2008) do nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Đà Nẵng thực
hiện, bài viết đi sâu nhận định các nguyên nhân hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng
chính thức của doanh nghiệp kinh tế tư nhân tại Quảng Ngãi và đề xuất một số giải pháp nhằm
khắc phục tình trạng này.
ABSTRACT
Private economy plays an important role in impulsing the growth and transfering
economic structure, which solves the employment and social issues in Vietnam. In the past
years, although the number of private businesses at Quang Ngai is on the increase, their quality
is still low. One of main reasons obstructing private businesses’s development is the difficulty in
approaching official credit capital. From the consequence of survey about Provincial
Competitiveness Index - 2008 conducted by a research group of the university of Danang, the
artical identifies the causes which makes private businesses at Quang Ngai difficult in
approaching official credit capital and proposes some solutions for this matter.

1. Đặt vấn đề


Trong khoảng 5 năm trở lại đây, kinh tế tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ và
đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi. Năm 2008, kinh
tế tư nhân đã đóng góp 38,5% GDP của cả tỉnh, cao gấp 2,5 lần so với khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài và đạt xấp xỉ với tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước (39,22%).
Kinh tế tư nhân đã giải quyết đến 88,8% số lao động có việc làm của tỉnh. Có thể nói,
kinh tế tư nhân là nơi tạo động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế, góp phần quan trọng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; có ý
nghĩa quyết định đến việc giải quyết thu nhập, việc làm và các vấn đề xã hội của tỉnh
Quảng Ngãi. Sau một quá trình phát triển dài, đến nay doanh nghiệp kinh tế tư nhân
(KTTN) đã có sự tăng trưởng mạnh về số lượng, tuy nhiên chất lượng doanh nghiệp còn
148


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(35).2009

nhiều hạn chế, năng lực cạnh tranh thấp, chưa có khả năng vươn ra tầm khu vực hoặc
quốc tế. Sự phát triển của khu vực kinh tế này vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, trong đó
thiếu vốn và thiếu khả năng tiếp cận vốn thấp là vấn đề nghiêm trọng nhất.
Với thực trạng hơn 97% các doanh nghiệp thuộc quy mô nhỏ và vừa, mức vốn
điều lệ bình quân mỗi doanh nghiệp thấp (khoảng 1,4 tỷ đồng), việc phải huy động thêm
vốn từ bên ngoài phục vụ hoạt động là điều tất nhiên. Kết quả điều tra cho thấy hơn
90% doanh nghiệp kinh tế tư nhân tại đây đang có nhu cầu bổ sung vốn lưu động để duy
trì hoạt động; hơn 75% các doanh nghiệp đang có nhu cầu vốn trung và dài hạn phục vụ
cho đầu tư mở rộng hoặc hiện đại hoá quá trình sản xuất. Về nguồn vốn: Khoảng 80%
vốn của khu vực kinh tế tư nhân được huy động từ các tổ chức phi tài chính (thân nhân,
bạn bè…), chỉ có khoảng 20% được huy động từ tín dụng ngân hàng và một tỷ lệ rất
nhỏ từ nguồn vốn nhà nước và các nguồn khác. Việc huy động vốn từ các nguồn phi tài
chính, bên cạnh chi phí cao, rất khó đáp ứng được nhu cầu vốn lớn. Việc tiếp cận nguồn
vốn tín dụng chính thức của các doanh nghiệp KTTN tại Quảng Ngãi gặp rất nhiều khó
khăn từ phía Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, từ phía doanh nghiệp và chính từ cơ

chế quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Trên cơ sở kết quả điều tra xác định chỉ số PCI (Provinciall Competitiveness
Index) của tỉnh Quảng Ngãi do nhóm nghiên cứu của Đại học Đà Nẵng thực hiện, một
số nguyên nhân hạn chế việc tiếp cận nguồn vốn chính thức của các doanh nghiệp kinh
tế tư nhân tại Quảng Ngãi được xác định như dưới đây.
2. Các nguyên nhân hạn chế quá trình tiếp cận tín dụng chính thức của doanh
nghiệp kinh tế tư nhân tại Quảng Ngãi
2.1. Những nguyên nhân từ phía các tổ chức tín dụng, ngân hàng
Tại Quảng Ngãi tính chung trong hệ thống ngân hàng thương mại, dư nợ cho
khu vực kinh tế nhà nước chiếm đến 65,6%, trong khi đó dư nợ trong khối các doanh
nghiệp kinh tế tư nhân chỉ chiếm chưa đến 20%. Kết quả tìm hiểu cơ cấu cho vay theo
loại hình doanh nghiệp của các ngân hàng thương mại (Bảng 01) cho thấy, phần đông
các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn dành ưu tiên lớn cho khối doan h nghiệp nhà
nước, tỷ trọng cho vay đối với các doanh nghiệp kinh tế tư nhân có tăng dần trong các
ngân hàng thương mại cổ phần, tuy nhiên các ngân hàng này có quy mô nhỏ, do vậy tỷ
trọng tăng nhưng dư nợ đối với kinh tế tư nhân vẫn rất thấp.
Bảng 1. Cơ cấu cho vay theo loại hình doanh nghiệp của các ngân hàng thương mại tại Quảng Ngãi

STT Chi nhánh Ngân hàng

Tỷ lệ
DN Nhà nước

DN kinh tế tư nhân

DN FDI

1.

Incom Bank


88%

12%

-

2.

Agri Bank

75%

25%

-

3.

Vietcom Bank

65%

15%

20%

149



TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(35).2009

4.

NH Đầu tư

60%

40%

-

5.

Exim Bank

30%

49%

21%

6.

Sacom Bank

30%

60%


10%

7.

ACB

30%

60%

10%

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo hoạt động của các Chi nhánh ngân hàng thương mại tại Quảng Ngãi – năm 2007, 2008.

Kết quả điều tra cho thấy chỉ khoảng 15% số doanh nghiệp KTTN tiếp cận được
nguồn vốn tín dụng ngân hàng, 50% số doanh nghiệp có tiếp cận được nhưng rất khó,
35% số doanh nghiệp không thể tiếp cận được. Các nguyên nhân lớn dẫn đến việc
doanh nghiệp khó tiếp cận vốn xuất phát từ ngân hàng có thể dẫn ra như sau:
- Lãi suất vay vốn cao làm hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn chính thức.
Năm 2008, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những biến động lớn, đầu năm là
lạm phát bùng nổ với tốc độ cao, cuối năm là suy thoái kinh tế do chịu tác động của suy
thoái toàn cầu. Cả hai đều có tác động rất tiêu cực đối với sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân.
Trong điều kiện lạm phát, Nhà nước bắt buộc thực hiện chính sách thắt chặt tiền
tệ. Lãi suất cho vay được Ngân hàng Nhà nước khống chế ở mức 21%/năm. Với mức lãi
suất trần này, các doanh nghiệp KTTN không thể tiếp cận nổi do vượt quá khả năng trả
nợ của họ.
Trong điều kiện giảm phát và suy thoái những tháng cuối năm 2008, chính sách
thắt chặt tiền tệ của Nhà nước được nới lỏng, gói kích cầu bằng việc bù 4% lãi suất cho
các khoản vay ngắn hạn (dưới một năm) được Nhà nước áp dụng. Điều này đã làm giảm

gánh nặng lãi suất, tạo điều kiện cho việc vay vốn dễ dàng hơn. Tuy nhiên, do tỷ suất
lợi nhuận bình quân trong hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân tại đây quá thấp (phổ
biến ở mức 2,5%) thì mặc dù được bù lãi suất nhưng dường như vẫn đang vượt ngưỡng
chịu đựng. Bên cạnh đó, gói kích cầu của Chính phủ chỉ áp dụng cho việc vay vốn ngắn
hạn, thời hạn vay ngắn, để vay được đòi hỏi doanh nghiệp phải có phương án kinh
doanh rõ ràng… điều này phần đông các d oanh nghiệp không đáp ứng được. Số lượng
doanh nghiệp KTTN tại Quảng Ngãi tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi này rất nhỏ. Một
số lượng khá lớn các doanh nghiệp vay được đều sử dụng cho mục đích đáo hạn các
khoản vay cũ, do vậy hiệu quả của việc kích cầu không đạt được như kỳ vọng.
Suy thoái kinh ết cũng đặt ra yêu cầu kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng.
Điều này hướng các ngân hàng thương mại tập trung nhiều hơn vào các khách hàng lâu
năm, đã thiết lập được quan hệ và uy tín tín dụng. Tại Quảng Ngãi, tính đ ến thời điểm
hiện tại, hơn 50% doanh nghiệp KTTN mới được thành lập sau thời điểm Luật Doanh
nghiệp năm 2005 có hiệu lực. Hầu hết các doanh nghiệp này chưa thiết lập quan hệ với
ngân hàng, do vậy việc tiếp cận vốn lại càng khó khăn. Tại các ngân hàng thương mại
cổ phần, nơi dành phần lớn dư nợ cho kinh tế tư nhân, hầu hết đã "chạm" hạn mức tăng
150


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(35).2009

trưởng tín dụng và buộc phải cơ cấu lại hoạt động tín dụng, mặc dù xem kinh tế tư nhân
là đối tượng khách hàng chính song với tình hình hiện tại, các ngân hàng thương mại cổ
phần vẫn rất khó mở rộng đối tượng vay.
- Chất lượng tín dụng thấp, việc tăng cường hạn chế rủi ro tín dụng của ngân
hàng làm cho các doanh nghiệp kinh tế tư nhân càng khó tiếp cận vốn.
Kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Quảng Ngãi thời gian qua
mặc dù có tăng trưởng song thiếu bền vững. Tỷ trọng nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng
khá cao. Tình trạng này đã buộc ngân hàng cẩn trọng hơn khi xem xét hồ sơ cho vay.
Trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp KTTN các báo cáo tài chính của họ thiếu tính

minh bạch, hoạt động kế toán không đạt chuẩn. Ngân hàng sẽ gặp rủi ro lớn nếu họ
cung ứng vốn cho các doanh nghiệp này. Sự hiểu biết giữa của doanh nghiệp đối với các
quy định của ngân hàng thường rất hạn chế, hồ sơ và dự án vay thường không đầy đủ,
các ngân hàng rất khó và rất tốn kém để nhận ra các rủi ro từ các dự án của các doanh
nghiệp kinh tế tư nhân. Để đảm bảo an toàn, tối thiểu hóa rủi ro, các ngân hàng thường
hướng hoạt động cho vay vào những khách hàng được bảo lãnh bởi Chính phủ và các
doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Điều đó đã tạo nên một rào cản lớn trong việc tiếp
cận nguồn vốn của các doanh nghiệp kinh tế tư nhân.
- Chiến lược và chính sách hoạt động của các tổ chức tín dụng chưa thực sự
hướng vào các doanh nghiệp kinh tế tư nhân.
Cho đến nay mặc dù tư duy hoạt động của các ngân hàng đã cởi mở hơn đối với
khu vực kinh tế tư nhân, tuy nhiên chính sách hoạt động cụ thể lại chưa có sự điều chỉnh
đáng kể. Phần đông các tổ chức tín dụng mới chỉ xem doanh nghiệp kinh tế tư nhân là
khách hàng tiềm năng chứ chưa phải là khách hàng mục tiêu, nhất là các ngân hàng
thương mại nhà nước có tiềm lực mạnh. Kết quả điều tra cho thấy chưa có một chi
nhánh ngân hàng thương mại nào của Quảng Ngãi tiến hành các hoạt động điều tra tìm
hiểu về các doanh nghiệp KTTN. Với đặc điểm là quy mô quá nhỏ, ngành nghề kinh
doanh phân tán, trình độ của doanh nhân còn hạn chế, tổ chức quản lý doanh nghiệp còn
mang nặng tính chất gia đình... hầu hết các doanh nghiệp KTTN tại Quảng Ngãi đều
nằm ngoài hệ thống xếp loại khách hàng của ngân hàng; các chính sách về lãi suất, thời
hạn vay, quy mô món vay… của ngân hàng chủ yếu vẫn đang dành cho doanh nghiệp có
quy mô vừa và lớn, chưa phù hợp với các doanh nghiệp siêu nhỏ như ở Quảng Ngãi.
Các chi nhánh ngân hàng nào tại Quả ng Ngãi hầu hết đều chưa có cơ sở dữ liệu về khu
vực KTTN, việc tiếp cận nắm bắt thông tin, phân tích hoạt động của các doanh nghiệp
chưa thể tiến hành được. Trong điều kiện đó, việc ra các quyết định cho vay sẽ gặp
nhiều khó khăn, hoặc mất nhiều thời gian. Chính sách sản phẩm, chính sách lãi suất của
ngân hàng chưa phù hợp với đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ . Bên cạnh
đó, với hệ thống công nghệ lạc hậu, phân tán, các ngân hàng chưa thể tạo ra sản phẩm
mới, hiện đại, phù hợp với tính đa dạng của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
151



TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(35).2009

- Sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp KTTN
của ngân hàng còn khá lớn.
Một hạn chế khá lớn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Quảng
Ngãi là: rất ít hiểu doanh nghiệp, niềm tin vào hoạt động của doanh nghiệp chưa được
thiết lập…Điều này dẫn tới các quyết định cho vay của ngân hàng chủ yếu phải dựa vào
tài sản đảm bảo và các quan hệ cá nhân giữa lãnh đạo doanh nghiệp và ngân hàng. Do
phần đông mới được lập, các doanh nghiệp KTTN chưa có điều kiện để “thân thiết” với
ngân hàng như các doanh nghiệp Nhà nước. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc đánh
giá giá trị của tài sản đảm bảo và mức cho vay theo giá trị tài sản đảm bảo giữa khu vực
kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân (Bảng 02).
Bảng 02. Hạn mức cho vay theo % giá trị tài sản đảm bảo của các
ngân hàng theo loại hình doanh nghiệp tại Quảng Ngãi

Loại hình DN

20 - 30%

31 - 40%

41 - 50%

51 - 75%

>75%

DN Nhà nước


0

0

0

40%

60%

Công ty TNHH

0

20%

30%

50%

0

40%

10%

20%

30%


0

Công ty cổ phần

0

20%

30%

50%

0

Doanh nghiệp FDI

0

0

0

40%

60%

Doanh nghiệp tư nhân

Nguồn: Kết quả điều tra, khảo sát các doanh nghiệp tại Quảng Ngãi năm 2008

Theo kết quả này, trong khi doanh nghiệp nhà nước được vay chủ yếu trên mức
75% giá trị tài sản đảm bảo t hì doanh nghiệp KTTN chỉ dừng lại ở mức khoảng 50%.
Như vậy, mặc dù các chính sách đều khẳng định sự không phân biệt, tuy nhiên trong
ứng xử thực tế, các ngân hàng đều chưa thoát ra khỏi định kiến về các doanh nghiệp
theo thành phần kinh tế. Bên cạnh nguyê n nhân nói trên, tình trạng ủy quyền quá lớn
cho cán bộ tín dụng trong việc đánh giá giá trị tài sản đảm bảo cũng là nguyên nhân dẫn
đến tình trạng tham nhũng, bắt buộc doanh nghiệp phải chi các khoản “lót tay” khi thẩm
định vay, điều này gây rất nhiều phiền phức và tốn kém cho doanh nghiệp KTTN trong
quá trình vay vốn.
2.2. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp
Việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức khó khăn còn xuất phát từ những
nguyên nhân bên trong của các doanh nghiệp KTTN. Các nguyên nhân chính được nhận
diện như sau:
- Giá thành sản phẩm cao và tỷ suất lợi nhuận thấp làm cho doanh nghiệp
KTTN khó vượt qua rào cản lãi suất.
Kết quả điều tra cho thấy, tỷ suất lợi nhuận của khối doanh nghiệp KTTN của
Quảng Ngãi rất thấp (Bảng 3).Trong năm 2008, tỷ suất lợi nhuận bình quân của các
doanh nghiệp KTTN phổ biến chỉ ở mức 2,5%, rất ít doanh nghiệp đạt mức trên 10%.
152


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(35).2009

Những tháng đầu năm 2008, chi phí vay vốn của các ngân hàng mặc dù bị khống chế ở
mức 21% nhưng chi phí huy động vốn thực tại Quảng Ngãi phải lên vượt quá con số
này. Việc phải chịu lãi suất cao đã góp phần làm tăng giá thành sản phẩm của doanh
nghiệp, giảm khả năng cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm gánh nặng tài
chính cho doanh nghiệp, khiến sản xuất kinh doanh cầm chừng, làm giả m đầu tư tư
nhân và giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cuối năm 2008, lãi suất vay vốn
giảm nhiều do chính sách kích cầu của Chính phủ, tuy nhiên do kinh tế trong nước suy

thoái, hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Lãi suất vay mặc dù đã giảm
song vẫn vượt quá khả năng của doanh nghiệp.
Bảng 03. Tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp KTTN tại Quảng Ngãi năm 2008

TT

Tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp

Tỷ lệ %

1

Thua lỗ lớn

0.4

2

Thua lỗ nhưng không đáng kể

1.1

3

Hòa vốn

9.7

4


Lợi nhuận 2,5%

39.4

5

Lợi nhuận 2,65 - 5%

28.3

6

Lợi nhuận 5,1% - 10%

18.2

7

Lợi nhuận từ 10 đến 20%

2.6

8

Lợi nhuận trên 20%

0.3

9


Tổng cộng

100

Nguồn: Kết quả điều tra, khảo sát các doanh nghiệp tại Quảng Ngãi năm 2008

- Nguyên nhân từ việc không có hoặc thiếu tài sả n thế chấ p k hi va y vố n từ
ngân hàng.
Đối với ngân hàng, trong hoạt động tài sản đảm bảo là một yếu tố quan trọng khi
quyết định cho vay đối với doanh nghiệp KTTN. Trong khi đó phần lớn các doanh
nghiệp tại Quảng Ngãi là doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ, không có tài sản thế chấp, do
vậy không có cách nào để tiếp cận khoản tín dụng trung và dài hạn. Bên cạnh đó, kết
quả điều tra cũng cho thấy, các ngân hàng thường không xem xét nghiêm túc báo cáo tài
chính và kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp nếu k hông có tài sản đảm bảo, sự tín
chấp rất hạn chế trong các quyết định cho vay. Bên cạnh hạn chế nêu trên, tại Quảng
Ngãi một thực trạng chung là các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp
tư nhân, tài sản pháp nhân và tài sản cá nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch nên các tổ chức
tín dụng rất khó thẩm tra, đánh giá đúng về năng lực của các doanh nghiệp.
153


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(35).2009

- Nguyên nhân xuất phát từ sự thiếu thông tin và không minh bạch của hệ
thống sổ sách kế toán
Hầu hết các doanh nghiệp KTTN tại Quảng Ngãi hiện nay đều chưa hoàn thiện
về hệ thống sổ sách kế toán, nội dung và phương pháp hạch toán thường không đầy đủ,
thiếu chính xác và thiếu minh bạch. Đa số các doanh nghiệp thường không đủ điều kiện
để vay vốn tín chấp của ngân hàng như: chưa có tín nhiệm với ngân hàng trong việc sử
dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, hiệu quả kinh doanh kém, không rõ ràng về mặt sổ

sách… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính
chất đối phó với các cơ quan thuế; báo cáo chính thức thường thấp hơn tình trạng thực
tế, nên không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân hàng. Môt nguyên nhân nữa, các
doanh nghiệp KTTN thường bán hàng không có hợp đồng kinh tế, không tuân thủ chế
độ phát hành hóa đơn bán hàng, nên ngân hàng khó có cơ sở để đánh giá và quyết định
việc cho vay.
- Trình độ và khả năng lập dự án đầu tư, phương án kinh doanh xin cấp vốn thấp
Theo đánh giá chung của ngân hàng, trình độ lập các dự án đầu tư, phương án
kinh doanh xin vay vốn của các doanh nghiệp KTTN tại Quảng Ngãi còn mang nặng
tính chủ quan, hoặc dựa trên kinh nghiệm thuần tuý, thiếu căn cứ khoa học. Nội dung
dự án được thiết lập sơ sài, khó thuyết phục ngân hàng khi xem xét thẩm định cho vay.
Năng lực nội tại của doanh nghiệp yếu, các hệ số tài chính không đảm bảo theo yêu cầu
của ngân hàng, không xác định được rõ ràng dòng tiền luân chuyển, bởi vậy không tính
toán được đúng khả năng trả nợ trong tương lai. Với yêu cầu nâng cao chất lượng tín
dụng, các ngân hàng buộc phải từ chối cho vay các dự án này.
- Khả năng thuyết phục tổ chức tín dụng của doanh nghiệp KTTN thấp
Kết quả điều tra cũng cho thấy chỉ khoảng 20% doanh nghiệp KTTN tại Quảng
Ngãi có sự hiểu biết về cơ chế tín dụng của ngân hàng thương mại. Số còn lại hoặc
không biết rõ hoặc ít hiểu biết. Các doanh nghiệp thường có định kiến về tính chất phức
tạp của thủ tục vay, ít chịu tìm hiểu và thường rất e ngại khi phải thực hiện các thủ tục
vay vốn. Trong khi đó, mặc dù có nhiều điểm cần trao đổi song trên thực tế, các thủ tục
vay vốn của ngân hàng đã được cải thiện rất nhiều. Các doanh nghiệp còn thiếu kinh
nghiệm trong việc quan hệ với ngân hàng, bố trí cán bộ quan hệ giao dịch không hợp lý,
ít am hiểu về dự án đầu tư, phần lớn thiếu tự tin, khả năng thuyết trình, đàm phán với
ngân hàng còn ếyu... Những điểm hạn chế này làm giảm khả năng thuyết phục của
doanh nghiệp trước Ngân hàng.
2.3. Nguyên nhân từ cơ chế, chính sách của tỉnh
Trong khi nhiều địa phương khác hoạt động trợ giúp các doanh nghiệp KTTN
diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, thì ở Quảng Ngãi các hoạt động hỗ trợ rất ít.
Ngoài các chính sách chung về phát triển doanh nghiệp của Chính phủ, chính quyền tỉnh

hầu như chưa có chương trình hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp . Các hiệp hội doanh
nghiệp tại Quảng Ngãi hoạt động còn mang tính hình thức, ít tham gia vào việc khai
154


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(35).2009

thác các nguồn vốn trong và ngoài nước theo cơ chế tín chấp hoặc ít tham gia vào các
dự án quốc tế hoặc chương trình hỗ trợ quốc gia có vốn tín chấp… tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp vay vốn khởi sự và phát triển.
Tại Quảng Ngãi đã xúc tiến một số chương trình cho vay ưu đãi đối với doanh
nghiệp, tuy nhiên các doanh nghiệp KTTN rất khó tiếp cận các chương trình này. Các
nguyên nhân chính có thể xác định như sau: Tiêu chuẩn ưu đãi chưa được công khai và
minh bạch, nhiều doanh nghiệp trong diện thụ hưởng không có thông tin về các chương
trình này; Tình trạng cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp đi vay trong khi nguồn
cung tín dụng hạn chế và lãi suất lại rất hấp dẫn đã đẩy chi phí môi giới tăng khá cao và
rất nhiều tiêu cực nảy sinh… Điều này đã làm cho các chương trình ưu đãi ngày càng xa
rời đối tượng thụ hưởng.
3. Một số giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng chính thức đối với các
doanh nghiệp kinh tế tư nhân tại Quảng Ngãi
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh tế tư nhân tại Quảng Ngãi tiếp cận
dễ dàng các nguồn tín dụng chính thức cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa cơ chế chính
sách của chính quyền, các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp. Từ những phân tích ở
trên, có thể đề xuất một số giải pháp chủ yếu sau:
3.1. Về phía các ngân hàng và tổ chức tín dụng tại Quảng Ngãi
Các ngân hàng ầcn đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị
trường, cải tiến thủ tục cho vay đối với các doanh nghiệp KTTN theo hướng đơn giản,
rõ ràng hơn; tiếp tục cải tiến quy trình cho vay nhằm rút ngắn thời gian xét duy ệt cho
vay của các ngân hàng thương mại hiện nay. Đồng thời cần đa dạng hóa hơn nữa các
hình thức bảo đảm tín dụng để thích ứng với đặc điểm của các doanh nghiệp KTTN.

Các ngân hàng cần xây dựng chính sách tín dụng tích cực, thiết kế các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng đồng bộ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh các doanh
nghiệp KTTN, xây dựng các sản phẩm dịch vụ đặc thù cho đối tượng này. Đặc biệt cần
đưa ra các sản phẩm tín dụng, dịch vụ dành riêng cho doanh nghiệp KTTN, chú trọng
tới cung ứng dịch vụ ngân hàng trọn gói, gắn việc cấp tín dụng với các dịch vụ tài chính
khác như: tiền gửi, dịch vụ tài khoản, dịch vụ trả lương… Tổ chức tính dụng cần chủ
động phối hợp với các công ty tư vấn và Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp KTTN của
Tỉnh để phục vụ doanh nghiệp tốt hơn. Đối với những doanh nghiệp có độ tín nhiệm
cao, khả năng thu hồi vốn của dự án tốt thì các ngân hàng cần xem xét cho vay không
cần bảo lãnh hoặc thế chấp.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cần có các chương trình đào tạo để đội ngũ cán bộ
tín dụng hiểu được tình hình, đặc điểm của các doanh nghiệp KTTN, biết làm marketing
trong lĩnh vực tín dụng, đồng thời cần có chính sách ưu tiên đối với các doanh nghiệp
KTTN trong vay vốn, coi đây là dịch vụ tài chính cần thiết. Giảm chi phí giao dịch
thông qua một số biện pháp như: Thông qua các công ty tư vấn để có được thông tin về
độ tín nhiệm hay uy tín khách hàng cũng như hoạt động kinh doanh của họ thay vì chỉ
155


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(35).2009

phân tích tín dụng tại bàn giấy và yêu cầu thế chấp; thực hiện liên kết hoạt động cho vay
và phân loại khách hàng trong cộng đồng; cần phải gắn thu nhập của nhân viên tín dụng
với doanh số cho vay. Như vậy, nhân viên ngân hàng sẽ phải chủ động phối hợp với các
doanh nghiệp để cùng tìm ra những cơ hội kinh doanh và giúp doanh nghiệp xây dựng
hồ sơ vay vốn có tính khả thi cao nhất.
3.2. Về phía các doanh nghiệp kinh tế tư nhân tại Quảng Ngãi
Các doanh nghiệp KTTN cần chuyên nghiệp hóa tổ chức bộ máy kế toán của
mình. Hiện nay các báo cáo tài chính, sổ sách kế toán của doanh nghiệp KTTN có độ tin
cậy chưa cao, không ít doanh nghiệp có lãi trên thực tế nhưng trên báo cáo tài chính thì

lại lỗ… điều này đã ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng. Khi các doanh
nghiệp KTTN thực hiện minh bạch hóa, bài bản hóa hệ thống sổ sách kế toán, các ngân
hàng sẽ rất thuận tiện trong việc theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn khi quyết định vay vốn. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp cần pháp lý hóa các tài sản của doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình vốn hóa
các tài sản như đất đai nhà xưởng. Các doanh nghiệp cũng cần nâng cao tính chủ động
trong việc tìm hiểu, nghiên cứu để hiểu rõ tính năng, tiện ích của các sản phẩm dịch vụ
cũng như cách thức tiếp cận và sử dụng dịch vụ mà các ngân hàng cung ứng. Từ đó đề
xuất phương án huy động vốn phù hợp.
4. Về cơ chế chính sách của chính quyền tỉnh
Khuyến khích việc hình thành và ra đời các công ty tư vấn đánh giá xếp hạng độ
tín dụng của doanh nghiệp và tính khả thi của dự án trên địa bàn tỉnh. Các công ty này
sẽ hoạt động độc lập với các tổ chức tính dụng. Khi một doanh nghiệp muốn được vay
vốn hoặc có bảo lãnh tín dụng, phải có báo cáo đánh giá xếp hạng và tính khả thi của dự
án do công ty tư vấn thực hiện. Từ đó, sẽ hình thành trung tâm tín dụng tư nhân nhằm
thu thập và lưu trữ thông tin của tất cả các cá nhân và doanh nghiệp KTTN có lịch sử
giao dịch tín dụng với bất cứ một ngân hàng nào. Đặc biệt thông tin được lưu trữ không
chỉ giới hạn ở nhưng khoản vay lớn, trung tâm còn cung cấp thông tin về lịch sử thanh
toán của người đi vay và nhiều dịch vụ khác như công cụ xử lý đơn xin cấp tín dụng, hệ
thống chấm điểm tín dụng…
Chính quyền tỉnh cần phải có những giải pháp mạnh thông qua thanh tra, kiểm
tra để bắt buộc các doanh nghiệp hoạt động đúng theo các chuẩn mực về tài chính kế
toán. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả của kiểm tra cần đẩy mạnh công tác đào tạo và
hỗ trợ cho các doanh nghiệp về nghiệp vụ tài chính – kế toán, xây dựng dự án và
phương án kinh doanh, xây ựdng hệ thống thống kê chính xác, đầy đủ trong phạm vi
doanh nghiệp.
Thúc đầy hoạt động của thị trường cho thuê tài chính, tổ chức tuyên truyền cho
các doanh nghiệp về lợi ích của loại hình tín dụng này . Hiện nay tại Quảng Ngãi, hoạt
động cho thuê tài chính mới chỉ phát triển ở mức rất thấp, các doanh nghiệp ít hiểu và
do vậy khó khai thác nguồn tín dụng chính thức này.

156


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(35).2009

Cần minh bạch hoá và công khai hoá các chương trình hỗ trợ tín dụng cho
doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó giải pháp thông báo công khai
đối tượng thụ hưởng, quy định rõ ràng trình tự, thủ tục thực h iện ưu đ ãi là hết sức
quan trọng.
5. Kết luận
Tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức là vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa lớn
đối với sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
Điều này đặc biệt quan trọng và bức thiết đối với các khu vực kinh tế tư nhân tại Quảng
Ngãi, do trình độ phát triển thấp của các doanh nghiệp tại đây. Để nâng cao khả năng
tiếp cận vốn, cần có hệ thống giải pháp đồng bộ của Chính quyền Tỉnh nhằm tạo môi
trường chung, của các Ngân hàng và tổ chức tín dụng nhằm đưa ra các chính sách tín
dụng phù hợp với đặc điểm đặc thù của các doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ tại địa
phương, của chính bản thân các doanh nghiệp trong việc phải vượt qua các rào cản bên
ngoài và đặc biệt là các rào cản từ bê n trong chính các doanh nghiệp. Các phân tích và
đề xuất trên đây đã tiếp cận khá sâu những vấn đề này. Chúng tôi hy vọng, đây sẽ là
những gợi ý tốt cho địa phương nhằm thúc đẩy nhanh hơn nữa sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân tại đây.
TÀI LIỆU THAM KHẨO
[1] Lê Thanh Sơn, Phát triển hệ thống đăng ký kinh doanh và cơ chế giám sát doah
nghiệp trong quản lý các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ - Đại học Đà Nẵng, Số 14, tháng 8 năm 2006.
[2] Trần Bình, Khu vực kinh tế tư nhân - nguồn huyết mạch chưa được khai thông />u%20nhan.doc
[3] Nguyễn Cao Khôi, Cần có giải pháp đồng bộ thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng
góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế hiện nay, Tạp chí Ngân Hàng - Số 5/2009.
[4] Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Bắc Nam, Kết quả điều tra 450 doanh nghiệp kinh tế

tư nhân - Đề tài Nghiên cứu khoa học công nghệ: Điều tra, đánh giá và đề xuất các
giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Quảng Ngãi.
[5] Nguyễn Trường Sơn, Phương hướng cải cách hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn mới, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ Đại học Đà Nẵng, Số 2/2007.
[6] Suiwah Leung, Banking and Finance Sector Reforms in Viet Nam,
/>
157



×