Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học TUYÊN NGÔN độc lập cơ sở hiến pháp đầu tiên của

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.09 KB, 15 trang )

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Cơ sở Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam
BÙI NGỌC SƠN
Khoa Luật ĐHQG Hà Nội
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày
3 tháng 9 năm 1945, liền một ngày sau khi đọc Tuyên
ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời, Hồ Chí Minh đề nghị một trong những
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước là “trước chúng ta
đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế
độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta
không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng
quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến
pháp dân chủ”.
Có thể nói rằng Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp có
quan hệ mật thiết với nhau. Bộ trưởng Bộ Tư pháp


đầu tiên của Việt Nam, ông Vũ Đình Hòe khẳng
định: “Hiến pháp 1946 gắn hữu cơ với Tuyên ngôn
độc lập”. Trong mối quan hệ này, Tuyên ngôn độc
lập là cơ sở của Hiến pháp.
1. “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần
100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc
lập”
Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lập quốc kiệt
xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước thế
giới rằng nước Việt Nam đã trở thành một quốc gia
độc lập, tự chủ. Tạo tiền đề lý luận cho việc khẳng


định quyền độc lập, tự chủ dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh trước tiên xuất phát từ “đạo lý và chính nghĩa”
được thừa nhận như một giá trị tiến bộ của nền văn
minh nhân loại: “Tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có
quyền sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu


hạnh phúc”. Sau khi nhắc lại những lời đó trong
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Hồ Chí Minh đưa ra suy
luận khoa học vĩ đại: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa
là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xuất phát từ đạo lý tiến bộ của nhân loại để suy luận
ra quyền độc lập của dân tộc. Quyền con người được
đề cập trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ chỉ được
hiểu là quyền của cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh suy
rộng ra quyền độc lập, tự quyết của dân tộc là một
nội dung tất yếu của quyền con người. Như vậy đối
với Người, quyền con người không chỉ được hiểu là
quyền cá nhân mà còn là quyền của tập thể, của cả
một dân tộc, quyền tự quyết dân tộc là một nội dung
của quyền con người.
Mọi dân tộc sinh ra đều có quyền bình đẳng, tự quyết
định vận mệnh của mình. Đó là “lẽ phải không ai có


thể chối cãi được”. Đó chính là chân lý của nhân loại,

đạo lý của con người: “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do”. Đạo lý ấy có “gốc của Thiện. Làm trái lại là
Ác. Phải lấy Thiện chống Ác. Trên thế giới, trong xã
hội ta và trong bản thân mỗi người”4. Quyền tự quyết
dân tộc, như vậy, xuất phát từ tính nhân bản của loài
người, đó chính là quyền con người. Do đó, với việc
khẳng định quyền độc lập dân tộc, Tuyên ngôn độc
lập thể hiện tính nhân bản rất cao.
Ý tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn
độc lập về quyền độc lập dân tộc đã được chuyển tải
thành nội dung của một quy phạm pháp luật quốc tế
tại Hội nghị thế giới về nhân quyền họp ngày 25-61993. Tuyên ngôn Vienna và chương trình hành động
của Hội nghị đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc đều
có quyền tự quyết. Với quyền đó, các dân tộc tự
quyết định thể chế chính trị của mình và tự do theo
đuổi con đường kinh tế, xã hội và văn hóa của


mình”5. Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết bằng xương máu của nhân dân Việt Nam
trong cách mạng giải phóng dân tộc đã đóng góp cho
nhân loại tiến bộ một quy phạm giá trị về quyền tự
quyết dân tộc với tư cách là một nội dung của quyền
con người.
Không những xuất phát từ đạo lý và chính nghĩa của
nhân loại, Hồ Chí Minh còn xuất phát từ cơ sở thực
tiễn của 50 năm cách mạng giành độc lập dân tộc của
nhân dân Việt Nam thà hy sinh tất cả chứ quyết
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Tổng kết
thành quả của cách mạng Việt Nam giành độc lập

dân tộc, trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khái quát lại tội ác của thực dân Pháp mà
ngay từ những năm tháng đầu hoạt động cách mạng
Người đã lên án. Tuyên ngôn đã đưa ra một con số
ghê rợn về tội ác dã man của bọn thực dân: trong
vòng mấy tháng, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai


triệu đồng bào ta bị chết đói. Càng trái đạo lý nhân
loại hơn, một tội ác tày đình: bọn thực dân Pháp đã
“quỳ gối đầu hàng Nhật” đã hai lần bán xứ Đông
Dương cho Nhật…
Dân tộc ta với đạo lý và chính nghĩa đã: “đánh đổ các
xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng
nên nước Việt Nam độc lập”6.
Xuất phát từ những đạo lý và chính nghĩa của nhân
loại, thực tiễn đã giành được độc lập của dân tộc ta,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên trách nhiệm của các
nước Đồng minh: Họ đã công nhận những nguyên tắc
bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn,
quyết không thể không công nhận quyền độc lập của
dân tộc Việt Nam.
Dân tộc ta đã gan góc chống lại ách nô lệ của Pháp
hơn 80 năm và đứng về phe đồng minh chống phát
xít. Dân tộc ta phải được tự do. Dân tộc ta phải được
độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố


trước thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và

độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững tự do, độc lập ấy”7.
Khẳng định độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tạo cơ sở cho việc ra đời Hiến pháp 1946 sau này.
Sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Người đã lập tức
đặt vấn đề soạn thảo Hiến pháp. Vì người nhận thức
rằng Hiến pháp chỉ tồn tại trong một dân tộc độc lập,
và một khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã
giành được độc lập cho dân tộc thì phải có Hiến
pháp.
Hiến pháp là những quy định có tầm cao nhất nhằm
điều chỉnh việc tổ chức nhà nước, các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của nhà nước, hình thức, cơ cấu và
mối quan hệ của nhà nước với công dân. Hiến pháp là
tất cả các quy tắc pháp lý quan trọng nhất của quốc


gia, ấn định hình thể quốc gia, ấn định các cơ quan
điều khiển quốc gia cùng những thẩm quyền của các
cơ quan ấy. Hiến pháp là văn bản phản ánh tổ chức
chính trị của quốc gia. Chính vì tính đặc thù của Hiến
pháp là văn bản quy định về tổ chức quyền lực nhà
nước, tổ chức chính trị của quốc gia, cho nên việc
thiết lập Hiến pháp là thể hiện chủ quyền của quốc
gia. Do đó, một quốc gia có độc lập, có chủ quyền thì
mới có Hiến pháp. Vì vậy có thể khẳng định rằng
Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 là tiền đề, là cơ
sở của Hiến pháp 1946 – Hiến pháp đầu tiên của Việt
Nam. Tuyên ngôn độc lập khẳng định Việt Nam là

một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Một dân tộc có
độc lập, chủ quyền có thể tự ấn định cho mình các thể
chế chính trị. Một khi đã có độc lập chủ quyền, Việt
Nam có thể thiết lập nên những nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước của mình trong một văn bản có
hiệu lực pháp lý tối cao, làm nền tảng pháp lý cho
Nhà nước – Hiến pháp.


Tuyên ngôn độc lập đã tạo điều kiện cho sự ra đời
của Hiến pháp, đó là chủ quyền, độc lập của quốc
gia. Và đến lượt mình, Hiến pháp lại khẳng định
những giá trị độc lập dân tộc mà Tuyên ngôn đã ghi
nhận. Ngay những lời đầu tiên trong Lời nói đầu của
Hiến pháp 1946 đã khẳng định lại nền độc lập, chủ
quyền của dân tộc: “Cuộc cách mạng tháng Tám đã
giành lại chủ quyền cho đất nước… Sau tám mươi
năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng
áp bức của chính sách thực dân…”. Độc lập hoàn
toàn cho dân tộc là mục tiêu của Hiến pháp 1946.
2. “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế
kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”
Độc lập dân tộc là tiền đề, cơ sở đầu tiên cho việc
thiết lập Hiến pháp. Tuy nhiên, không phải mọi dân
tộc có chủ quyền đều có thể có Hiến pháp. Trong lịch
sử dân tộc Việt Nam đã từng có hai áng văn chương
được coi như những tuyên ngôn độc lập. Đó là Nam


quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại

cáo của Nguyễn Trãi. Những áng văn chương này
đều khẳng định chủ quyền của quốc gia, nền độc lập
của dân tộc. Tuy nhiên, sau hai áng văn chương này
đều chưa thể có Hiến pháp vì trong lịch sử nhân loại,
Hiến pháp chỉ ra đời khi lịch sử xã hội phát triển đến
một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong chế độ chiếm
hữu nô lệ và chế độ phong kiến, quyền lực nhà nước
được tổ chức phổ biến theo hình thức chính thể quân
chủ tuyệt đối. Khi đó, tất cả quyền lực nhà nước đều
tập trung trong tay nhà vua. Không có một văn bản
nào giới hạn quyền lực của nhà vua và ấn định về
những nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, mà
chỉ có các tập quán bất thành văn do giới cầm quyền
tự thừa nhận với nhau điều chỉnh về tổ chức và hoạt
động của triều đình nhà vua. Hệ thống pháp luật của
các nhà nước tiền tư bản chủ yếu chỉ ràng buộc các
quan hệ giữa các thần dân. Chính những điều này tạo
cơ sở cho sự chuyên chế của giới cầm quyền. Khi


giai cấp tư sản ra đời, nhằm chống lại sự chuyên chế
của nhà nước phong kiến, họ đã đề ra hàng loạt các
khẩu hiệu tiến bộ, trong đó có khẩu hiệu lập hiến.
Chủ nghĩa lập hiến gắn liền với lý thuyết chủ quyền
nhân dân. Các nhà lý luận của chủ nghĩa tư bản đặt
vấn đề quyền lực phải do nhân dân định đoạt chứ
không phải do thiên đình và phải có một văn bản quy
định về việc tổ chức quyền lực nhà nước. Hiến pháp
chính là văn bản quy định về tổ chức quyền lực nhà
nước và khẳng định quyền lực thuộc về nhân dân.

Nói một cách khác Hiến pháp gắn liền với dân chủ.
Chỉ có dân chủ mới có Hiến pháp. Vì vậy, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận định chính xác rằng trong chế
độ quân chủ chuyên chế cũng như trong chế độ thực
dân không kém phần chuyên chế, dân ta không được
hưởng quyền tự do dân chủ, nên chúng ta không có
Hiến pháp. Như vậy, ngoài điều kiện là độc lập chủ
quyền dân tộc, thì điều kiện thiết yếu tiếp theo của
Hiến pháp là dân chủ – quyền lực thuộc về nhân dân.


Dân chủ ở đây được hiểu theo nghĩa như Lênin nói
đó là một chế độ – chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ
theo cách hiểu của Lênin là “một hình thức nhà
nước”8. Dân chủ là một hình thức tổ chức quyền lực
nhà nước thừa nhận quyền lực thuộc về nhân dân, sự
tham gia của nhân dân vào việc thành lập nên các cơ
quan nhà nước. Khi có một chế độ dân chủ thì mới có
Hiến pháp.
Chính Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định chế độ dân
chủ là cơ sở cho việc ra đời Hiến pháp. Trong Tuyên
ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Vua Bảo Đại thoái vị… Dân ta lại đánh đổ chế độ
quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân
chủ Cộng hòa”9. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc,
Tuyên ngôn độc lập đã chính thức tuyên bố với thế
giới Việt Nam đã trở thành một nhà nước dân chủ
cộng hòa. Đó là cơ sở cho Hiến pháp sau này thiết lập
chính thể cộng hòa dân chủ cho Nhà nước Việt Nam.



Lời nói đầu Hiến pháp 1946 đã khẳng định việc “gạt
bỏ chế độ vua quan”. Chương I – Chính thể: đã ghi
nhận chính thể cộng hòa dân chủ: “Nước Việt Nam là
một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền lực trong
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân
biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo”. Hiến pháp ghi nhận một hình thức đại diện để
thực hiện quyền lực nhân dân là thông qua Quốc hội.
Quốc hội là cơ quan có quyền cao nhất của nhà nước
do nhân dân bầu ra để đại diện nhân dân hành xử chủ
quyền nhân dân.
Như vậy, Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định nền độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và chế độ dân chủ
cộng hòa. Chính những yếu tố này là cơ sở cho việc
ra đời Hiến pháp đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Giá
trị của Tuyên ngôn độc lập chính là ở chỗ mở ra một
kỷ nguyên độc lập dân tộc và dân chủ cộng hòa, và


do đó đã mở ra một kỷ nguyên Hiến pháp cho Việt
Nam.

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị
quốc gia, H., 2000, tr. 8.
Vũ Đình Hòe, Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam:
một mô hình mới – Hiến pháp dân tộc và dân chủ
trong cuốn Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát
triển trong các Hiến pháp Việt Nam, NXB Chính trị
quốc gia, H., 1998, tr. 66.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc
gia, H., 2000, tr. 1.
4 Vũ Đình Hòe, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí
Minh, NXB Văn hóa Thông tin – Trung tâm văn hóa
ngôn ngữ Đông – Tây, H., 2001, tr. 303.
5 Phạm Khiêm Ích, Hoàng Văn Hảo (chủ biên),
Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện Thông
tin khoa học xã hội xuất bản, H., tr. 656.


6 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc
gia, H., 2000, tr. 3.
7 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc
gia, H., 2000, tr. 4.
8 V. I. Lênin, Toàn tập, tập 33, NXB Tiến bộ,
Mátxcơva, 1976, tr. 123.
9 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc
gia, H., 2000, tr. 3.



×