Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nghiên cứu khoa học mối QUAN hệ GIỮA NGUỒN nước và các KIỂU RỪNG NHIỆT đới GIÓ mùa TRONG KHU vực VEN BIỂN ĐÔNG NAM bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.08 KB, 20 trang )

MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN NƯỚC VÀ CÁC KIỂU RỪNG NHIỆT ĐỚI
GIĨ MÙA TRONG KHU VỰC VEN BIỂN ĐƠNG NAM BỘ (VIỆT NAM)

Trương Quang Tâm
Viện Sinh học Nhiệt đới, Việt Nam
Dương Tiến Dũng
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh
R. Mitloehner
Viện Nghiên Cứu Lâm nghiệp Nhiệt đới

Thềm lục địa vùng Đông Nam Á là khu vực phần lớn chịu ảnh hưởng của khí hậu
gió mùa: mùa mưa (kéo dài từ tháng năm đến tháng mười) và mùa khô (từ tháng
mười một đến tháng tư năm sau). Lượng mưa tương đối thấp, hàng năm khoảng
1000 - 1500mm/n và 5 đến 7 tháng khô (Stott 1991) là những nhân tố đem lại sự
hình thành các kiểu rừng mưa nhiệt đới gió mùa. Các kiểu rừng mưa thường xanh
và khơ này nằm tại các khu vực từ Liên bang Manipur, Myanmar, Thái Lan, Lào,
Campuchia đến Việt Nam đều có nhiều đặc điểm giống nhau. Chúng được tách
riêng ra khỏi khu vực rừng ẩm thường xanh, nơi mà lượng mưa hàng năm cao hơn
2000 mm/a và khơng có khơ hạn khắc nghiệt (Rundel và Boonpragob 1995).
Các kiểu rừng nhiệt đới gió mùa trong lục địa Đông Nam Á rất đa dạng. Có thể vì
vậy mà việc phân loại của chúng, qua các tài liệu cơng bố, chưa được thống nhất
thậm chí còn lộn xộn nữa. Hegner (1979) đã đối chiếu những kiểu rừng này và


những thuật ngữ đồng nghĩa của chúng với nhau. Stott (1991) đã rất tiếc rằng các
cơng trình nghiên cứu về những kiểu rừng này còn rất hiếm hoi. Trong khi đó các
kiểu rừng mưa nhiệt đới tại Thái Lan đã được Bunyavejchewin (1983), Rundel và
Boonpragob (1995) và Khamyong với cộng tác viên. (1983) và tại Việt Nam gần
đây có Linh (1996) nghiên cứu. Điểm đáng chú ý trong vùng chịu ảnh hưởng của
gió mùa là: hoặc chỉ một lồi cây hoặc/và một chi (Genus) trong cùng một họ sẽ
chiếm ưu thế. Điều này bộc lộ rõ nhất đối với họ Sao Dầu (Dipterocarpaceae)


(xem T. Smitinand và ctv. 1990).
Thêm một đặc điểm chung quan trọng khác nữa là sự hiện diện sát cánh nhau của
nhiều kiểu rừng nhiệt đới gió mùa trên một diện tích vơ cùng bé nhỏ
(Bunyavejchewin 1983; Whithmore 1984; Rudel và Boongrapob 1995). Hiện
tượng này đôi khi được giải thích như là hệ quả biến thể của lập địa trên một diện
tích vơ cùng bé nhỏ tùy theo lượng nước trong đất và tùy theo tính chất của đất
(Ogawa và ctv 1961).
Khu vực nghiên cứu của chúng tôi là khu Bảo tồn Bình Châu Phước Bửu, thuộc
huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Tại đây cịn sót lại một khoảnh rừng
được công nhận là Khu Bảo tồn Thiên nhiên vào năm 1993. Và tại đây chúng tôi
bắt gặp hiện tượng nhiều kiểu rừng nhiệt đới gió mùa nằm sát cạnh nhau trên một
địa bàn rất nhỏ như đã kể trên. Vị trí của khu Bảo tồn này nằm giữa 10027’57’’ và
10037’46’’ B cũng như 107024’31’’ và 107036’07’’ Đ. Diện tích khu bảo tồn bao
gồm 11.000ha. Lượng mưa bình quân năm là 1356 mm/a và nhiệt độ trung bình
năm khoảng 260C. Mùa khơ kéo dài suốt 7 tháng, từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau. Gió mùa Tây nam đem mưa lại cho khu vực từ tháng 4 đến tháng 10. Lượng
mưa trong những tháng này chiếm 93% tổng lượng mưa suốt cả năm. Về đất,
thành phần cấu tạo chính là cát, khoảng 90%.
5 kiểu rừng thuộc ba quần thể rừng đã được lựa chọn để nghiên cứu. Các ô rừng
nghiên cứu trải dài trên một đường cắt (Transekts) khoảng 6,5 km. Chúng có


chung điều kiện khí hậu và nền đất, song lại rất khác nhau về chu kỳ rụng lá, về
thành phần loài và về cấu trúc. Cùng với việc khảo sát thảm thực vật và lấy mẫu
đất, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đặc tính sinh lý của các lồi ưu thế thuộc mỗi
kiểu rừng. Chúng tôi đo trực tiếp lượng nước tiềm tàng cũng như hàm lượng muối
trong đất thông qua việc đo áp suất thẩm thấu của lá nơi các cây được lựa chọn.
Từ đó chúng tơi trực tiếp xác định được tác động của nước và muối của từng lập
địa (xem R. Mitloehner 1997b). Song song với việc phân tích những điều kiện lập
địa (khí hậu và đất), chúng tơi chun chú ý nghiên cứu sự thích ứng sinh lý của

cây với điều kiện lập địa. Các thông số có được là kết quả đo đạc vào lúc trưa (lúc
nóng nhất trong ngày) và vào ban đêm (lúc được xem là mát nhất trong ngày).
Chúng nằm trong mối quan hệ giữa lượng nước tiềm tàng trong cây (WP) và tiềm
năng thẩm thấu nội tại của cây (OP) (xem R. Mitloehner 1996,1997a). Tại vùng
khơ khan định kỳ thì sự cung ứng của nước và độ mặn là 2 yếu tố quyết định cho
sự phát triển của thực vật. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này các câu hỏi sau
đây được đặt ra :
· 5 kiểu rừng được chọn nghiên cứu khác biệt nhau ra sao đối với nhịp mùa rụng
lá, đối với thành phần loài và cấu trúc rừng?
· Các yếu tố lập địa nào có thể tạo ra sự khác biệt giữa các kiểu rừng ?
· Có thể thông qua việc đo các thông số sinh lý của cây để xác định hàm lượng
nước và khả năng thích ứng về mặt thẩm thấu của chúng cũng như để có thể giải
thích được những biến thể của các khoảnh rừng không?
Phương pháp luận:

Đặt ô mẫu để mô tả cấu trúc rừng


Trước hết chúng tôi chọn 5 kiểu rừng khác nhau, bố trí cho mỗi kiểu một ơ tiêu
chuẩn với kích thước 50 x 50 m. Sau đó, tiến hành đo, đếm tất cả các cây trong ơ
có đường kính ngang vai (dBH) trên 10 cm, xác định tên, vị trí, chiều cao toàn
thân, chiều cao dưới tán của từng cây...
Đường kính ngang vai được đo bằng thước đo đường kính (Umfangmessband),
chiều cao toàn thân được ước lượng theo các lần đo mẫu với dụng cụ Blume Leiss
và thước ngắm Teleskopestange với sai số 1m.
Nghiên cứu thổ nhưỡng

Để bảo đảm tính chính xác và tính đại diện, chúng tơi đã tiến hành ngay tại địa
điểm trung tâm của ô tiêu chuẩn các việc sau đây:
- Lấy mẫu đất tại hai độ sâu khác nhau: 10cm và 50cm. Áp dụng phương pháp

Scheffer và Schachtschnabel (1984) để xác định độ chặt và độ mùn trong đất,
- Tiến hành đo khả năng trao đổi cation (AKe ) và quá trình cố định cation với
dung dịch NH4CL kết hợp với việc đo độ hấp thụ quang phổ ánh sáng (AAS) theo
phương pháp của Ulrich (1966). Thành phần Nhôm (Al) được xác định bằng phép
đo trắc quang. Trên vùng đất ven biển ít nhiều bị nhiễm mặn, trị số AKe sẽ phản
ánh những cation mà cây có thể hấp thụ được. Cation này hoặc:
a/ Được cố định qua quá trình trao đổi (sét, mùn) hoặc
b/ Được giải phóng và/ hay buộc chặt trong dung dịch đất. Trong trường hợp đặc
biệt này trị số AKe có thể xem như là mức độ muối trong đất có thể cung cấp cho
cây trong hiện tại và tương lai.


Đo hàm lượng nước tiềm tàng trong cây (viết tắt: WP)

Lượng nước tiềm tàng trong cây (= nWP) tương ứng với sức hút của cây dùng để
lấy nước từ đất vào thân cần cho sự phát triển. Khi lá cây no nước, trị số của nWP
là 1 bar. Tại những vùng khơ hạn, trị số này có thể tăng đến 80 bar (hay = 800
hPa) (Mitloehner 1990). Giữa buổi trưa, trị số này sẽ tăng đến cực đại, ban đêm sẽ
hạ xuống cực tiểu vì lúc ấy khí khổng đã đóng kín và độ ẩm trong khơng khí tăng
lên rất cao. Trị số đo ban đêm có thể xem như là lực mà đất "kéo giữ” lại nước.
Trong trường hợp này, những cây đã được chọn ra để đo được xem như là "dụng
cụ sinh học" dùng để đo áp suất (biologischer Tensiometer) (theo Kreeb 1990).
Cho mỗi loài cây ưu thế trong mỗi kiểu rừng nghiên cứu, chúng tôi đã chọn ra 6 cá
thể làm đối tượng đo đạc vào buổi trưa và ban đêm với dụng cụ chuyên dụng
SCHOLANDER. Phương pháp này đã được Kreeb (1990) cũng như Lassoie
vàHinckley (1991) mơ tả rõ. Theo các tác giả trên thì sai số nằm ở khoảng 0,1 0,2 bar.
Đo khả năng thẩm thấu tiềm tàng trong cây (viết tắt: OP)

Tiềm năng tiêu cực OP trong cây (nOP) tương ứng với độ đậm đặc của muối,
đường, axid hữu cơ và các chất khác trong tế bào. Qua tiềm năng này cây chẳng

những có thể hấp thụ được muối trong dung dịch đất mà cịn có thể tổng hợp được
đường và các axid hữu cơ trong tế bào. Điều kiện cơ bản cần thiết cho việc vận
chuyển nước trong quá trình thẩm thấu là lực OP trong cây - hay còn gọi là độ
đậm đặc trong cây - ít nhất phải tương đương với độ đậm đặc của dung dịch đất.
Do đó trị số nPO trong cây có thể được đánh giá như là thước đo sự thích ứng của
cây đối với tình trạng bất thuận lợi nhất của hàm lượng muối tại lập địa. Như vậy
thực vật phản ánh được "độ mặn" của thực địa.


Vào buổi trưa, khi mà lượng nước trong lá giảm đi thì trị số nPO sẽ lên đến cực
đại, ngược lại vào ban đêm, khi lá no nước trở lại thì trị số hạ xuống cực tiểu.
Ngồi ra, để có thể có những trị số tương đồng với tình trạng thẩm thấu của từng
lồi cây tương ứng, ta có thể xác định được trị số nPO cực tiểu (nPOsat) qua thí
nghiệm làm no nước nhân tạo nơi các cây lấy mẫu.
Vào buổi trưa và ban đêm trước lúc mặt trời mọc, chúng tôi đã lấy mẫu lá của 6
cây cho mỗi loài thuộc mỗi kiểu rừng đã lựa chọn. Lá tươi được đo ngay tại hiện
trường nghiên cứu, rồi được sấy khơ và đóng gói bảo quản tức khắc hầu tránh sự
biến đổi của các enzym. Sau đó, tại phịng thí nghiệm, chúng tơi ứng dụng phương
pháp đơng lạnh để đo nồng độ như Kreeb (1990) đã mô tả. Theo tác giả này thì sai
số nằm khoảng 2 bar.
Kết quả

Cấu trúc rừng
Chúng tôi chọn 5 kiểu rừng thuộc 3 loại quần thể rừng khác nhau để nghiên cứu.
Việc đặt tên cho chúng được dựa theo Lamprecht(1986) cũng như theo tán lá và
chu kỳ rụng lá hàng năm. Tên gọi của mỗi kiểu rừng đều nói lên thành phần lồi
đặc trưng trong quần thể. Các quần thể rừng sau đây được tiến hành nghiên cứu :
a/ Rừng ẩm thường xanh, quanh năm khơng xảy ra q trình rụng lá.
b/ Rừng mưa ẩm xanh, vào cuối mùa khô một số cây thuộc tầng cao bắt đầu rụng


c/ Rừng khộp, toàn bộ lá cây rụng vào mùa khô.


Bảng 1 trình bày các quần thể rừng khác nhau tại khu vực nghiên cứu của khu Bảo
tồn tự nhiên Bình Châu Phước Bửu.
Tại kiểu rừng ẩm thường xanh I với tỷ lệ tổng diện tích ngang là 84 % (G%) thì
Tràm Melaleuca leucadendron L. (Myrtaceae) chiếm ưu thế. Kiểu rừng này phân
bố tập trung tại những vùng trũng khá rộng. Những vùng trũng này tỏ ra đã chịu
ảnh hưởng của nước ứ đọng vào mùa mưa. Tất cả các lồi trong kiểu rừng này
khơng rụng lá vào mùa khơ. So với các kiểu rừng được nghiên cứu khác, kiểu rừng
này có thành phần lồi thấp nhất.
Kiểu rừng ẩm thường xanh II thường phân bố trực tiếp ngay trên mép ngoài của
vùng trũng. Các loài ưu thế của kiểu rừng này là Sao Dầu (Dipterocarpaceae),
Dầu cát Dipterocarpus caudatus spp. caudatus - lồi đã được cơng nhận trong
Sách Đỏ của UICN 2000 - và Thị rừng Diospyros decandra Lour. (Ebenaceae).
Ngoài ra, một số loài khác cũng được xem là quan trọng như Sến Shorea
roxburghii G. Don (Dipterocarpaceae) với 8% và Cẩm liên Pentacme siamensis
(Miq.) (Dipterocarpaceae) với 4%. Kiểu rừng này đã chiếm gấp đơi tổng diện tích
ngang so với rừng nằm trong vùng trũng. Kiểu rừng này luôn luôn xanh lá vào
mùa khô.
Kiểu rừng ẩm thường xanh III nằm trên địa bàn có độ cao khoảng 31m so với mặt
biển vượt hẳn hai kiểu rừng nằm thấp hơn vừa nêu bên trên. Thành phần lồi ưu
thế gồm có Sến - Shorea roxburghii G. Don (Dipteocarpaceae) với G = 52% và
Thị rừng Diospyros candolleana Wight (Ebenaceae) với 10%. Ngồi ra cịn có
những loài mọc xen lẫn khác tương đối quan trọng như Dầu cát Dipterocarpus
caudatus spp. caudatus với 4%, Tai nghé Aporusa planchioniana Bail.
(Euphorbiaceae) với 3% và Trâm Sygyzium sp. (Myrtaceae) với 3%. Kiểu rừng
này có tầng tán ln ln xanh và một chiều cao vượt hẳn các kiểu rừng khác
(xem bảng 1). Số lượng loài cũng tương đối cao hơn.



Kiểu rừng khộp IV, với độ cao 39m so với mặt biển, là kiểu rừng nằm trên địa bàn
cao nhất so với các kiểu rừng nghiên cứu khác. Các loài ưu thế của rừng này bao
gồm Sến Shorea roxburghii G.Don (Dipteocarpaceae) chỉ còn với 19%, Shorea
sp. với 13% và Vên vên Anisoptera costata Korth. (Dipterocarpaceae) với 11%.
Một số loài khác tương đối quan trọng có thể kể đến là Tai nghé Aporusa
planchioniana Bail. (Euphorbiaceae) với 10% và Dành dành Gardenia philastri
(Rubiaceae) với 2%. Những loài ưu thế thuộc tầng cao nhất của kiểu rừng này hầu
hết đều rụng rá vào mùa khơ. Các thơng số của kiểu rừng này (ví dụ: tổng diện tích
ngang, chiều cao tồn thân, chiều dưới cành, đường kính trung bình) đều thấp hơn
kiểu rừng III, mặc dù số lượng thành phần loài tương đương nhau.
Kiểu rừng khộp V (vị trí khu tiêu chuẩn được chọn của kiểu rừng này nằm cách bờ
biển Đơng 200m) có tổng diện tích ngang lớn nhất là 30m2/ha và mật độ quần thể
cao nhất là 608cây/ha. Tại đây, các loài trong họ Sao dầu khơng cịn chiếm ưu thế
nữa mà được thay thế bằng Bình linh Vitex pubescens Vahl. (Verbenaceae) với
32% và Bằng lăng Lagerstroemia calyculata S. Kurz (Lythraceae) với 27% tỷ lệ
tổng diện tích ngang. Một số lồi khác khá phổ biến là Trường Xerospermum sp.
(Sapindaceae) với 7%, Trâm Syzygium sp. (Myrtaceae) với 5% và Thành ngạnh
Cratoxylon formosum (Korth. Benth. et Hook) (Guttiferae) chỉ với 3%.Vào mùa
khô hầu như tất cả các loài từ tầng cao đến tầng thấp đều rụng lá.
Trong điều kiện cùng một lượng mưa hàng năm tại Bình Châu thì các kiểu rừng
“khơ rụng lá” có khuynh hướng gia tăng về diện tích gốc cũng như mật độ cây.
Trong khi đó kiểu rừng ẩm thường xanh III đạt được chiều cao nhất và kiểu rừng
III (thường xanh) và kiểu rừng IV (bán thay lá) chiếm được thành phần loài phong
phú nhất.
Đất


Nghiên cứu đất giúp chúng ta phát hiện được các nguyên nhân dẫn đến sự biến thể
của cấu tạo rừng và các kiểu rừng trên một địa bàn vô cùng nhỏ bé. Luyen và

Fiedler (1995) đã đưa ra một số đất tiêu biểu cho Việt Nam trong chuỗi đất cát ven
biển. Chúng được phân loại theo các địa phận khác nhau như đất cát trên bãi biển,
trên đụn cát bay cao và thấp, trên đụn cát cố định kề sát mực nước ngầm và tại các
địa điểm ngập nước. Các dạng đất này cũng được tìm thấy trong khu vực nghiên
cứu tại Bình Châu Phước Bửu. Tác giả Moormann(1961) đã đưa loại đất cát thơ
này vào nhóm eutric regosols và phân cấp chúng thành hai nhóm "regosols trên cát
biển mới" và "regosols trên đất cát biển cổ".
Bảng 2 cho thấy, thành phần cát trong đất của 4 kiểu rừng (I, II, III và IV) chiếm
khoảng 90%, chủ yếu là cát hạt vừa và cát mịn. Đất của rừng khô rụng lá kiểu V
với gần 60 % cát hạt thô to trong tổng khối lượng thành phần cát khoảng 85 %, chỉ
là một ngoại lệ.
Bảng 1 Các thơng số chính của năm kiểu rừng (I-V) tại Bình Châu Phước
Bửu

Kiểu rừng

Rừng tràm

Rừng ẩm

Melaleuca I thường xanh
II

Rừng ẩm

Rừng

Rừng khô

thường


khộp IV

rụng lá

xanh III
V

Phân
vùng/Không Không phân
phân vùng

Khơng phân

Khơng

vùng

phân vùng

vùng

Phân
vùng
Khơng phân
vùng

Lồi ưu thế

Melaleuca Dipterocarpus


Shorea

Shorea

Vitex


(G%)

leucadendron

caudatus
(43%)

roxburghii roxburghii

pubescens

(52%)

(84%)

(19%)
Diospyros

Diospyros

decandra


candolleana

(11%)

(10%)

(32%)

Shorea sp. Lagerstroemia
(13%)

calyculata

Anisoptera

(27%)

costata
(11%)

Tổng diện

5,3

11,8

26,1

17,3


30,1

328

392

416

440

484

4

32

100

72

124

13,3

17.4

20,3

18,1


21,6

6,7

9,4

14,6

12,5

14,0

>30cm D1,3

8,3

11,9

19,4

16,6

16,6

Đường kính

5

14


38

39

25

tích gốc G
(m2/ha)
Mật độ cây
N/ha
10-30cm
D1,3 và

trung bình
Dg (cm)
Chiều cao
trung bình
dưới cành


Hg (m)
Chiều cao
toàn thân Ho
(m)
Số lượng
loài

* Các kiểu rừng II,III và IV bị tác động nhiều do cưa trộm
Vào mùa mưa, mặc dù nhận cùng một lượng mưa như nhau, tình trạng nước của
các kiểu rừng ẩm thường xanh I, II dường như có xu hướng được bổ xung cải

thiện; trong khi ấy tại các kiểu rừng thường xanh III đến rừng khộp IV và rừng
rụng lá V, lượng nước trong đất có vẻ mỗi lúc một khan hiếm hơn. Hiện tượng này
có thể lý giải rằng, chính cấu tạo cát thô trong kiểu rừng V với nhiều khe hở đã
làm giảm khả năng giữ nước lại trong đất.
Trữ lượng các nguyên tố phân tích trong đất, kể từ mặt xuống đến độ sâu 50cm tại
mỗi kiểu rừng nghiên cứu, dường như đầy đủ. Trong quá trình nước ngày càng
giảm thì trữ lượng Kali, Mangan, Nhơm và AKe cũng càng giảm theo. Đối với
Calci và Magnesium, thì trữ lượng của chúng có trị số cao nhất trong kiểu rừng ẩm
thường xanh III. Nhìn chung, những trữ lượng này càng nhiều khi sự khơ hạn của
rừng càng cao bởi vì sự rửa trơi diễn ra rất ít trong điều kiện khơ hạn.
Bảng 2 Mô tả các kiểu đất lấy ở độ sâu 50cm trong các kiểu rừng nghiên cứu
tại Bình Châu Phước Bửu


Kiểu rừng

Rừng Tràm Rừng ẩm
Melaleuca I

Rừng ẩm

thường

thường

xanh II

xanh III

Rừng


Rừng

khộp IV rụng lá
V

Độ cao so với mặt

14

16

31

39

12

2

1

1

1

59

61


60

48

53

16

35

36

41

34

10

2

2

3

4

7

0


1

8

8

8

Cation (kg/ha)

29

40

109

105

02

Kalium K

113

110

121

116


144

Natri Na

522

659

779

232

353

Calci Ca

69

182

345

115

212

biển (m)
Thành phần cấu tạo
đất (%)
hạt thô (2-0,63mm)

hạt vừa (0,63-0,2mm)
hạt mịn (0,20,063mm)
hạt mịn (0,0630,002mm)
sét (< 0,002mm)


Magne Mg

0

0

0

61

0

Sắt Fe

2

47

65

12

77


Mangan Mn

270

432

774

1422

1800

Nhôm Al

36

47

72

76

105

AKe[kmol IE/ha}*

5,5

4,9


5,1

4,2

4,9

pH (H2O)

* Khả năng trao đổi cation
Đo lượng nước trong cây
Việc đo nWP và nOP được tiến hành vào thời gian khô nhất từ 19-25 tháng ba
năm 1996. Vào thời điểm này, một vài loài như Bằng lăng đã hồn tồn rụng lá,
do đó khơng thể đưa chúng vào chương trình nghiên cứu sinh thái được. Song thời
điểm này lại rất thuận lợi cho sự xác định những trị số tối đa của cây, đặc biệt là
tại kiểu rừng khơ thay lá V.
Bảng 3 trình bày sự khác biệt giữa các trị số nWP và nOP đo được vào các buổi
trưa và ban đêm tại 5 kiểu rừng nghiên cứu. Vào buổi trưa, khi nhiệt độ ngoài trời
lên cao, các trị số đo được cũng cao hơn ban đêm, bởi vì hơi nước trong khơng khí
tăng lên vào ban đêm và các khí khổng cũng đóng kín. Trị số đo của nWP vào lúc
ban đêm biểu lộ được sự cân bằng giữa cây và môi trường đất và trị số ấy cũng là
trị số tương ứng với lượng nước trong cây lúc bấy giờ (KREEB 1990; WILLERT
et al. 1995).
Bảng 3 cũng cho thấy rằng kiểu rừng ẩm thường xanh I, trong tình hình thời tiết
khá khô, đã đạt trị số nWP rất thấp vào lúc ban đêm. Trị số này không chênh lệch


mấy so với trị số chuẩn. Tất cả 6 mẫu thí nghiệm với Tràm Melaleuca
leucadendron được đo cùng lúc ấy đều biểu hiện những điều kiện nước trong đất
rất thuận lợi, mặc dù đang vào mùa khô. Hiện tượng này cũng diễn ra tương tự
như vậy tại những kiểu rừng ẩm thường xanh II và III. Trong khi đó thì trị số nWP

của kiểu rừng khộp IV lại cao hơn gấp bội vào ban đêm. Hiện tượng này nói lên
tình trạng khá căng thẳng của nước trong đất. Thêm vào đó, sự chênh lệch lớn so
với trị số chuẩn cũng chứng minh được rằng, tại địa bàn nhỏ, tình trạng của nước
trong đất biến đổi mạnh hơn. Sự khác biệt rất lớn giữa những trị số bình qn của
các lồi (so sánh giữa Aporusa và Gardenia) trong cùng một kiểu rừng khộp IV,
sau khi đã tính các sai số, cho thấy rằng những loài ấy tuy thuộc cùng một khoảnh
rừng, song lại mọc trên các "ổ" đất (ô đất rất nhỏ) có lượng cung cấp nước khác
nhau. Tại kiểu rừng rụng lá V, các trị số đo được cao một cách đặc biệt. Tại đây trị
số của loài Trâm Syzygium sp. cao hơn cả những trị số hiếm thấy tại khu vực
Chaco của Paraguay hoặc của vùng khô hạn Kalahari thuộc Châu Phi (xem
Mitloehner 1995, 1997a), nơi mà lượng mưa trung bình hàng năm thấp hơn một
cách rõ rệt. Như vậy, các trị số nWP đo trong đêm phản ánh được lượng nước
cung ứng hiện thời của thực vật trên từng lập địa tương ứng. Điều này đưa đến
những giải thích về sự khác biệt của các kiểu rừng được nghiên cứu như sau:
· Kiểu rừng thường xanh I nhận được lượng nước bổ xung từ nguồn nước mặt vào
mùa mưa và chịu sự ảnh hưởng của nước ngập tạm thời,
· Kiểu rừng thường xanh II nhận được nước bổ xung từ tầng nước ngầm (so sánh
loài Dipterocarpus caudatus spp. caudatus tại kiểu rừng III, dù đo vào buổi trưa
hoặc ban đêm, lúc nào cũng có trị số = 1 bar), tuy nhiên vào những mùa khô khắc
nghiệt, sự tiếp xúc với nước ngầm có thể bị gián đoạn đơi lúc,
· Kiểu rừng thường xanh III nhờ tiếp xúc thường xuyên với nước thẩm thấu nên có
được lượng nước cung ứng rất tốt; một vài lồi có thể tiếp xúc phần nào với tầng
nước ngầm,


· Kiểu rừng mưa IV phải đối đầu với điều kiện khó khăn hơn về sự cung ứng nước
trong mùa khơ; những lồi ở tầng cao với nhu cầu lớn về nước phải rụng lá,
· Kiểu rừng rụng lá V phải chịu sự thiếu nước gay gắt trong mùa khô, điều này đã
khiến cho đa số loài phát triển khả năng tích luỹ nước trong một chừng mực nào
đó.

Ngược lại, kết quả của nOP cho thấy rằng các trị số của 4 kiểu rừng “ẩm” (I, II, III
và IV) khá tương đương nhau. Sự chênh lệch của chúng so với trị số chuẩn cũng
rất thấp (xem bảng 3). Phần khác, các lồi cây cũng biểu lộ sự tương thuộc của
mình với các "ổ" đất có độ muối tập trung, như trường hợp của Sến Shorea
roxburghii và Thị rừng Diospyros candolleana trong kiểu rừng thường xanh III.
Kiểu rừng rụng lá V là nơi có trị số nOP cao hơn gấp mấy lầnvà cũng là nơi mà
hàm lượng muối trong đất có nồng độ tập trung khá cao. Kết quả này cũng trùng
hợp với kết quả phân tích đất: kiểu rừng V có trị số AKe cao nhất và trữ lượng
Cation cũng cao nhất (xem bảng 2).
Các trị số nhất thời nOP và nWP có thể đo được bất cứ lúc nào. Nhưng để có thể
xác định được những trị số kĩ lưỡng và lâu dài cho mỗi lồi thì phải chuẩn hoá các
trị số nOP và nWP (Mitloehner 1997a). Một trị số“nOPsat” được chuẩn hóa sẽ
tương ứng với một mẫu cây thí nghiệm no muối. Nó phản ánh rất tốt độ mặn trong
đất của lập địa.
Đồ thị đối chiếu các trị số nOP và nWP được đo vào lúc trưa cũng như lúc đêm
của mỗi loài cây giúp chúng ta hiểu được: a/ trị số tuyệt đối nhất thời tương ứng
cho mỗi kiểu rừng và b/ vị trí của một lồi trên đồ thị (khi đo lúc trưa và đêm = 1).
Tùy theo lập địa, loài cây nào đạt được trị số giới hạn = 1, thì tại trị số nWP sẽ
diễn ra sự rụng lá hoặc tại trị số nOP, sự chết cây. Đồ thị cũng giúp chúng ta nhận
thức được trị số cực đại của cả nOP lẫn nWP và qua đó xác định được ngưỡng
stress cực đại mà mỗi lồi có thể đạt đến theo từng lập địa. Ngồi ra đồ thị cịn


giúp xác định được lồi cây nào thích hợp với kiểu rừng nào, trên loại đất nào, từ
đó có thể đem ra ứng dụng trong việc trồng rừng hợp theo những điều kiện lập địa.
Bảng 3 Tình hình lượng nước trong cây đo được tại Bình Châu Phước Bửu,
xếp theo thứ tự của thành phần ưu thế, trị số bình quân và chênh lệch so với
trị số chuẩn của 6 cá thể lấy mẫu từ mỗi loài

nWP


nWP

nOP

nOP

nOP

trưa

đêm

trưa

đêm

bão hoà

20 +-5

1+-1

6+-1

5+-1

4+-1

1+-0


8+-3

7+-2

6+-2

4+-4

7+-2

5+-1

5+-1

11+-3

12+-1

9+-1

Rừng tràm kiểu I
Melaleuca leucadendron
Rừng ẩm thường xanh kiểu
II
11+-5
Dipterocarpus caudatus
12+-2
Pentacme siamensis
9+-5


1+-0

6+-1

6+-3

3+-1

19+-7

3+-1

5+-3

4+-2

3+-1

1+-0

1+-0

5+-3

6+-3

3+-1

14+-6


1+-0

21+-5

9+-5

11+-1

7+-7

7+-3

Rừng ẩm thường xanh kiểu
III
Shorea roxburghii
Diospyros candolleana
Dipterocarpus caudatus


Hopea odorata

21+-5

6+-3

8+-3

7+-2


4+-1

Rừng khộpkiểu IV

32+-11

25+-10

8+-1

7+-2

5+-1

Aporusa planchoniana

23+-5

Diospyros decandra

75+-5

11+-11

7+-1

20+-7

7+-1


Gardenia philastri

52+-6

61+-6

21+-7

20+-5

16+-5

47+-7

18+-6

Rừng rụng lá kiểu V

8+-3

17+-4

Vitex pubescens
Syzygium sp.
Sindora cochinchinensis

nWP: Hàm lượng nước trong cây (đơn vị bar), đo lúc trưa và đêm
nOP: Khả năng thẩm thấu (đơn vị bar), đo lúc trưa và đêm
nOP: bão hòa (sat): dùng so sánh (đơn vị bar), đo lúc no nước
Kết luận

Phương pháp đo trực tiếp lượng nước trong cây và khả năng thích nghi về mặt
thẩm thấu nơi cây là phương pháp có thể giúp thu thập được những kiến thức sinh
thái cơ bản và quan trọng của lập địa trong một thời gian ngắn nhất. Phương pháp
này đã được chúng tôi áp dụng tại khu Bảo tồn tự nhiên Bình Châu Phước Bửu.
Các số liệu thu thập tại đây đã giúp chúng tôi phân loại được các kiểu rừng mưa
nhiệt đới gió mùa và có thể sắp xếp chúng theo từng ưu thế của lập địa. Các kiểu
rừng mưa này thay đổi trong một khoảng không gian vô cùng bé nhỏ. Nhu cầu cần


thiết về độ ẩm của mỗi lồi cũng như tình trạng sẵn sàng cung ứng nước của lập
địa có thể xác định được với độ chính xác rất cao. Chúng tơi mong được tiếp tục
có những cơng trình nghiên cứu tương tự tại một số địa điểm khác thuộc Đông
Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng để kiểm tra lại lợi thế của phương pháp
này.
Tài liệu tham khảo chính
Bunyavejchewin,S. 1983. Canopy Structure of the Dry Dipterocarp Forest of
Thailand . Thai For. Bull. 14,1-132.
Hegner,R. 1979 Nichtimmergruene Waldformationen der Tropen Koelner
Geographic Arbeiten 37, 1-410.
Khamyong,R.; Pramsarit,S.; Pithong ,J. 1996. The Relationship between Plant
Association and Soil Charactersitics in a dry Dipterocarp Forest in Thailand . In:
Appanah,S.;Khoo,K.C.(eds.) . Proceeding Fifth Round Table Conference on
Dipterocarps . 7.-10-11-1994.
Kreeb. K.H.1990. Methoden zur Pflanzenoekologie und Bioindikation.
Stuttgart,New York.
Lamprecht,H. 1986 Walbau in den Tropen . Hamburg Berlin.
Lassoie,J.P.; Hinckley ,T.M. (eds.) 1991.Techniques and Approaches in Forest
Tree Ecophysiology . Boston.
Lốn, V.B. 1996. Dry Open Dipterocarpus Forests in Vietnam.Vietnamese studies
52(122),67-86.

Luyen,N.;Fiedler,H.J. 1995 , Boden - und standortskundliche Gesichtspunkte fuer
die Wiederaufforstung von Kahlflaeschen in Vietnam.Forstw. Cbl. 114,14-15.


Mitloehner ,R. 1990.Die Konkurenz der Holzgewaechse in regengruenen
Trockenwald des Chaco Boreal , Praguay . Goettingen Beitr. Zur Land
u.Forstwirschaft in den Tropen u.Subtropen 54,1-177.
Mitloehner,R. 1995 .Standortcgarakterisierung durch pflanzliche Saugspannung
und potentiellen Osmotichen Druck im Chaco Central , Paraguay. Gutachten
erstellt im Auftrag der Bundesanstalt fuer Geowissenschaften und Rohstoffe
(BGR), Hannover , und der Deutschen Gesellschaft fuer Technische
Zusammenarbeit (GTZ) , Eschborn.63 Seiten.
Mitloehner,R. 1996 . Pflanzeinterner Wasserhaushalt und Bestandesstrukture in
regengrunen Colophospermum mopane - Trockenwaeldern Namibias .Forstarchiv
67, 71-75.
Mitloehner,R. 1997a . Using Trees a Indicators of Environement Conditions by
Measuring their Internal Water Status .Plant research snd Development 45, 33-50.
Mitloehner,R.1997b . Plant Water Relations as Incator of Forest Types and Sites
Conditions Tested in the Paraguayan Chaco.In:Proc. Internat.IUFRO Symp. On
Assessement and Monitoring of Forest in Tropical Dry Regions with Special
Refence to Gallery Forests . Brasilia 4.-7.11.1996, in press.
Summary
The monsoon forests of the mainland South East are characterized by the
dominance of Dipterocarpaceae. Frequently a very close coexistence of different
forest types can be observed. This kind of forest mosaic was investigated in South
East Vietnam. After analysis of stand structure and soil characteristics, the
dominant species of the respective forest types were investigated physiologically
by measuring their midday and pre-dawn plant water potentials and plant osmotic
potential under field conditions. The actual water availability of the trees in the



late dry season the variety of forest types in the dependence to their respective
sites.



×