Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.26 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................................................1

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Hồ Chí Minh sau gần 10 năm nghiên cứu, khảo sát các cuộc cách mạng thế
giới và thâm nhập vào cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở các nước
thuộc địa để từ đó vạch ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Theo Hồ Chí
Minh, cách mạng giải phóng dân tộc là sự kết hợp của tinh hoa dân tộc và sức
mạnh thời đại, vừa thể hiện tinh thần độc lập, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Từ đó, có thể khẳng định
rằng cách mạng giải phóng dân tộc là một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng cũng
như hoạt động thực tiễn của người. Qua bài viết này, em sẽ đi vào tìm hiểu trọng
tâm vấn đề “tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I.Khái niệm của tư tưởng hồ Chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là hệ thống các quan
điểm về con đường cứu nước, về tổ chức lực lượng, chiến lược, sách lược và
những nhân tố đảm bảo thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
và các dân tộc thuộc địa khỏi chủ nghĩa thực dân đế quốc, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh,… Đây là đóng góp xuất
sắc nhất của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Vì
vậy, người được suy tôn là anh hùng giải phóng dân tộc.
II. Vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
trong chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin có sứ mệnh lịch sử và vạch rõ con đường và phương
pháp đấu tranh để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ở


thời đại mình, Mác và Ăngghen không chỉ luận giải vấn đề giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc mà vấn đề giải phóng con người cũng được đề cập sâu sắc: : “sự
phát triển tự do của mõi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”. Mác và Ăngghen đã viết: “hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì
tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ bị xóa bỏ”. Mác và Ăngghen cho
rằng giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc.
Trong điều kiện của chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã chỉ rõ cách mạng giải phóng
dân tộc đã trở thành một bộ phận quan trọng của các mạng vô sản. Ông cho rằng,
2


cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành
được thắng lợi nếu không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bi áp
bức ở thuộc địa. Tuy nhiên, trong công cuộc giải phóng Lênin vẫn cho rằng trước
hết phải giải phóng giai cấp công nhân.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
1. Tình chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
Bản chất xã hội quy định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng. Tính chất xã
hội Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến. Vì thế, theo Hồ Chí Minh mâu
thuẫn chủ yếu trong các nước thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với
chủ nghĩa thực dân. Đối tượng cách mạng ở thuộc địa là chủ nghĩa thực dân và tay
sai phản động. Do đó, cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị
của chủ nghĩa đế quốc”. Hồ Chí Minh cho rằng, yêu cầu bức thiết của nhân dân
thuộc địa là độc lập dân tộc. Hay nói cách khác nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
thuộc địa là: “Đấu tranh chống lại thực dân xâm lược, giành lại độc lập dân tộc”.
Tính chất của cách mạng thuộc địa là thực hiện cách mạng tư sản kiểu mới tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa là giành quyền lợi
chung của toàn dân tộc. Đó là những mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc,
phù hợp với xu thế của thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân
tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi trong 30
năm chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 trước hết là thắng lợi của đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí
Minh.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ở nước
ta chính là do sự bế tắc đường lối; không nhận thức được xu thế của thời đại; chưa
xác định rõ nhiệm vụ của cuộc đấu tranh là giải quyết những mâu thuẫn cơ bản
nào; không có khả năng tập hợp được lực lượng toàn dân tộc. Trước yêu cầu bức
xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã
quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước,
qua nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789),
3


Nguyễn Ái Quốc đưa ra kết luận ngay cả các nước Pháp, Mỹ đã thiết lập nề cộng
hòa, dân chủ nhưng trong nước thì bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa. Người cho rằng đó là cách mạng chưa triệt để. Cách mạng Tháng Mười Nga
bùng nổ và thắng lợi làm chấn động thế giới. Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa
Lênin, ở cách mạng Tháng Mười Nga con đường cứu nước: giải phóng dân tộc
bằng con đường cách mạng vô sản. Người khẳng đinh: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ”; rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Kết luận trên đây
của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, mục tiêu và giải pháp
hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước
trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách
mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con
đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành

cách mạng XHCN.
Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi
bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc
phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở
chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở
thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp
nhàng với cách mạng vô sản.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, ở Việt Nam đã diễn ra hai xu hướng
cách mạng: xu hướng cách mạng tư sản và xu hướng cách mạng vô sản. Sự thất bại
của giai cấp tư sản đã chuyển quyền lãnh đạo cách mạng sang tay giai cấp vô sản.
Vô sản độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam thông qua đội tiền phong là Đảng
Cộng Sản. Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công “trước
hết phải có Đảng cách mệnh” Người phân tích: “Cách mệnh trước hết phải làm cho
dân giác ngộ”, “phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”. “Cách mệnh
4


phải hiểu phong triều cách mệnh thế giới, phải trình bày sách lược cho dân”. “Vậy
nên sức cách mệnh phải tập trung phải có đảng cách mệnh”.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Đảng cộng sản là nhân
tố quyết định trước tiên. Đảng cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp
công nhân. Mục đích và lợi ích của Đảng và của giai cấp công nhân là thống nhất.
Không có Đảng cộng sản - hạt nhân chính trị của phong trào công nhân, bản thân
giai cấp công nhân không thể trở thành lực lượng chính trị độc lập, cũng không thể
trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng. Hồ Chí Minh viết rằng Đảng cộng sản Việt
Nam là đảng của giai cấp công nhân và là đảng của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã bổ sung vào chủ nghĩa Mác – Lênin một luận điểm mới về Đảng: Đảng
của giai cấp và Đảng của dân tộc. Hồ Chí Minh đã định hướng cho Đảng gắn bó

với giai cấp công nhân, gắn bó với nhân dân lao động và cả dân tộc một trong
nhưng nhân tố tạo nên sức mạnh của Đảng, bảo đảm địa vị lãnh đạo của Đảng đối
với cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản quy tụ sức mạnh giai cấp và sức mạnh
dân tộc bảo đảm cho cách mạng thắng lợi.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên
cơ sở liên minh công – nông.
Cách mạng là việc của quần chúng nhân dân. Cách mạng phải tiến hành bằng
bạo lực cách mạng. Tiếp thu những nguyên lý đó của chủ nghĩa Mác – Lênin, từ
những năm 1924 Hồ Chí Minh đã nghĩ tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang để giải
phóng dân tộc. “Để có thắng lợi một cuộc khơi nghĩa vũ trang ở Đông Dương phải
có tích chất một cuộc cách mạng khởi nghĩa quần chúng chứ khôn phải một cuộc
nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng”. “Cách mạng là
việc làm chung chứ không phải việc của một hai người”.
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam - một dân tộc thuộc địa nửa phong
kiến với hơn 95% dân số là nông dân. Đời sống của nhân dân dưới chế độ cai trị hà
khắc của chủ nghĩa thực dân đã bần cùng hóa, ý thức phản kháng, sẵn sàng tham
gia đấu tranh cách mạng được nung nấu từ thực tiễn đó. Ở khía cạnh khác, dưới
công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, cơ cấu giai cấp Việt Nam có sự
thay đổi, xã hội Việt Nam phân hóa rõ rệt, giai cấp công nhân mới ra đời, vừa yếu
lại vừa thiếu, lực lượng cách mạng chủ yếu chỉ có thể là nông dân. Vì vậy, khi xác
5


định động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở của sự nghiên cứu lý
luận và thực tiễn để đi đến kết luận rằng: bộ phận trung tâm trong lực lượng cách
mạng giải phóng dân tộc là công nhân, nông dân và khối liên minh công nông do
giai cấp công nhân lãnh đạo.
Trong một xã hội thuộc địa bị ngoại bang thống trị, không chỉ công nhân,
nông dân mà cả tư sản dân tộc, tiểu tư sản, một bộ phận địa chủ nhỏ và vừa đều là
những người Việt Nam mất nước. Họ tham gia vào phong trào giải phóng dân tộc.

Hồ Chí Minh viết: “Dân tộc cách mạng thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông,
công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”.
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực
lượng cách mạng bao gồm toàn thể nhân dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận
giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tư sản, trí thức, trung
nông…đi vào phe vô sản giai cấp đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản
Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Hồ Chí
Minh xác định công nhân và nông dân có vai trò động lực cách mạng vì công nông
dân đông đảo nhất, trong xã hội thuộc địa họ bị bóc lột nặng nề nhất. Họ là gốc
cách mạng. Trong khi coi công – nông là chủ lực quân cách mạng, Hồ Chí Minh
vẫn kêu gọi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ yêu nước là
bạn đồng minh cỉa cách mạng. “Học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư
sản áp bức nhưng không khổ cực bằng công nông, ba hạng ấy chí là bầu bạn cách
mạng của công – nông thôi”.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sang tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Đây là một luận điểm mới mẻ và sáng tạo của Hồ Chí Minh có giá trị lý luận
và thực tiễn to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới và là sự bùng nổ sung kịp
thời vào lý luận Mác – Lênin.
Khi chủ nghĩa đế quốc xâm lược thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc có
xu hướng phát triển, nhưng lúc đó Quốc tế cộng sản lại đánh giá thấp cách mạng
giải phóng thuộc địa. Các nhà cách mạng giai đoạn này luôn luôn cho rằng thắng
6


lợi của cách mạng ở các nước thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách
mạng vô sản ở chính quốc. Không tán thành với chủ trương đó, tại Đại hội V Quốc
tế cộng sản (6/1924), Nguyễn Ái Quốc đã trình bày quan điểm của mình: “Tôi thấy

rằng hình như các đồng chí chưa thấm nhuần tư tưởng cho rằng vận mệnh của giai
cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm
lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa...nọc
độc và sức sống của bọn rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc
địa hơn là chính quốc”. Người chỉ trích, đã có nhiều người “...lại xem thường các
thuộc địa trong lúc chủ nghĩa tư bản lại dựa vào nó để tự bảo vệ và chống lại các
đồng chí”. Người đã phát hiện ra “thuộc địa là mắt xích yếu trong hệ thống của chủ
nghĩa đế quốc”; “tất cả sinh lực của chủ nghĩa đế quốc lấy ở xứ thuộc địa”. Trong
khi đó, nhân dân thuộc địa luôn chứa đựng tinh thần yêu nước, căm thù bọn xâm
lược và sẽ vùng dậy khi có thời cơ. Vì vậy, ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho
rằng: “Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản
ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước”, và “trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp
đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn”. Như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng vô sản ở chính quốc và cách
mạng thuộc địa có quan hệ khăng khít với nhau vì cả hai đều cùng một kể thù
chung là chủ nghĩa đế quốc. Mối quan hệ này không phải mối quan hệ phụ thuộc.
Hồ Chí Minh đánh giá cao sức mạnh của một dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân. Các dân tộc thuộc địa phải chủ động sáng tạo, tránh tư
tưởng bị động, ngồi chờ sự giúp đỡ bên ngoài. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 Hồ Chí Minh đã ra sức xây dựng lực lượng
chính trị và quân sự, khi thời cơ đến Người đã kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong kháng chiến chống Pháp xâm
lược, Hồ Chí Minh đã kêu gọi: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời tự lực
cánh sinh – dù sự giúp đỡ bên ngoài là quan trọng. Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác thì không xứng được độc lập dân tộc”. Thắng lợi
của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam là một minh chứng khẳng định luận
điểm của Hồ Chí Minh hoàn toàn đúng đắn. Và nó trở thành một lý luận cách
7



mạng, động lực quan trọng thúc đẩy các dân tộc thuộc địa trên thế giới chủ động
thực hiện cách cuộc cách mạng giải phóng bằng sự nổ lực của chính mình.
6. Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương pháp cách
mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Theo học thuyết Mác-Lênin, có nhiều phương thức giành chính quyền cách
mạng từ giai cấp thống trị, tuy nhiên kẻ thù của cách mạng không bao giờ trao
chính quyền cho nhân dân một cách tự nguyện, tự giác. Vì vậy, cách mạng muốn
thắng lợi phải sử dụng bạo lực của quần chúng nhân dân.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đã chứng minh sự
sai lầm của các hình thức đấu tranh cách mạng theo khuynh hướng phong kiến
hoặc dân chủ tư sản mặc dù những phong trào này đều là yêu nước. Có thể nói
rằng các phong trào này chỉ là những phương pháp, giải pháp đấu tranh giành độc
lập ảo tưởng vì bản chất của thực dân, đế quốc là xâm chiếm thuộc địa, là nô dịch
và lợi nhuận nên chúng không dễ dàng từ bỏ thị trường, thuộc địa của chúng. Khắc
phục những hạn chế mang tính lịch sử đó, Hồ Chí Minh cho rằng không thể giành
chính quyền theo khuynh hướng phong kiến hay dân chủ tư sản. Hồ Chí Minh
khẳng định: Ở các nước thuộc địa, chủ nghĩa thực dân dùng bảo lực phản cách
mạng đàm áp các phong trào yêu nước. Do đó, “Trong cuộc đấy tranh chống kẻ thù
của giai cấp và của dân tộc cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, dành chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Theo Hồ Chí Minh điều kiện để cuộc khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi
phải: Một là, cuộc khởi nghĩa vũ trang phải có tính chất của một cuộc khởi nghĩa
quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn... phải được chuẩn bị trong quần
chúng, nổ ra trong thành phố, theo kiểu các cuộc cách mạng ở châu Âu. Hai là, phải
được nước Nga ủng hộ. Ba là, phải trùng hợp với cách mạng vô sản Pháp. Bốn
là, phải gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản thế giới.
Vận dụng tư tưởng này, trong cách mạng Tháng Tám năm 1945 Hồ Chí Minh
xây dựng lực lượng cách mạng bạo lực gồm hai lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang. Trong kháng chiến quân sự là chủ chốt nhưng vẫn kết hợp với đấu tranh

chính trị. “thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị làm cho
8


thắng lợi quân sự to lớn hơn”. Mặt trận ngoại giao phối hợp với mặt trận quân sự
để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Hồ Chí Minh chủ trương vừa đánh vừa đàm, đánh
là chủ yếu, đàm là hỗ trợ. Để tạo sức mạnh tổng hợp Hồ Chí Minh không chỉ thực
hiện chiến tranh nhân dân mà còn thực hiện chiến tranh toàn diện, chiến tranh trên
lĩnh vực kinh tế, văn hóa. Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế nhưng đề cao tự lực cánh
sinh. Đó là quan điểm trước sau như một của Hồ Chí Minh.
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng bạo lực, kết hợp lực
lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang nhân dân là một quan điểm
sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
C. KẾT LUẬN

Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một đóng góp to lớn
vào kho tàng lý luận cách mạng của thời đại, soi đường thắng lợi cho cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đem lại những kết quả trước mắt là sự độc lập: cả
đời Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi áp bức, bóc
lột, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện với thực tiễn đang
biến đổi của đất nước. Tư tưởng ấy sẽ là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của
dân tộc ta để đi tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội đích thực.

9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG,
Hà Nội, 2003.
2. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà
Nội, 2005, 2009.
3. Nguyễn Khánh Bật (chủ biên), Những bài giảng về môn học tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998.
4. Nguyễn Mạnh Tường, Tư tưởng Hồ Chí Minh Một số nhận thức cơ bản, Nxb.
CTQG, Hà Nội, 2009.
5. Cao Văn Liên, Hỏi – đáp Môn tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. ĐHQGHN, Hà
Nội, 2011
6. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1,2,3,4,6, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995.
7. Nghiêm Đình Vỳ, “Quan điểm của Hồ Chí Minh về các giai cấp trong cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam”, Tạp chí lịch sử Đảng, số 4/1994, tr. 48 50.
8. />9. />%C3%B3ng-d%C3%A2n-t%E1%BB%99c#!p=1
10. />
10



×