Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

PHÂN TÍCH NHÂN vật CHÍ PHÈO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.33 KB, 26 trang )

TẬP LÀM VĂN PHÂN TÍCH
PHÂN TÍCH TOÀN BỘ DIỄN BIẾN NHÂN VẬT CHÍ PHÈO CỦA NHÀ VĂN
NAM CAO
MỤC LỤC
1. Ý nghĩa bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo………………………..trang 2
2. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của
Nam Cao (đoạn từ khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời)………….trang 10
3. Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” trong tác phẩm cùng tên
của Nam Cao………………………………………………………………… .trang 16

4. Dàn ý phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo của Nam Cao…trang 20
5. Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái tỉnh rượu hay say? Ý nghĩa cái chết của hai
nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến?..................................................................trang 23


Ý NGHĨA BÁT CHÁO HÀNH TRONG TÁC PHẨM CHÍ PHÈO – NAM CAO
Bát cháo hành là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm Chí Phèo góp phần thể
hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm:
- Bát cháo ấy không những giúp Chí thoát khỏi trận ốm “thừa sống thiếu chết” mà hơn
hết, nó là liều thuốc khai sáng cho quãng đời tội lỗi của Chí Phèo.
- Chí sung sướng hạnh phúc khi cảm nhận được vị ngọt của tình yêu qua bát cháo hành
của Thị. Vì vậy, bát chào hành của Thị chất chứa tình yêu thương chân thành đã biến Chí
từ một thằng lưu manh chuyên rạch mặt ăn vạ thành một anh nông dân lương thiện với
biết bao cảm xúc, nghĩ suy của một con người khát khao được trở về với XH loài người.
Bát cháo đầy tình yêu thương của Thị đã giúp Chí rũ bỏ lốt quỷ để trở lại làm người.
- Tuy nhiên, hương vị của bát cháo hành cũng làm tăng thêm bi kịch mồ côi của Chí
Phèo. Hương vị bát cháo hành cũng là hương vị tình yêu của Thị Nở, làm xúc động
Chí,đây là lần đầu tiên Chí có tình cảm của một con người: bâng khuâng buồn,vui hồn
nhiên như đứa trẻ “muốn làm nũng với thị như với mẹ”.
Tham khảo:
Không hiểu sao khi đọc “Chí Phèo” của Nam Cao tôi luôn luôn hình dung ra một


con đường in bóng hình những bước chân loạng choạng, ngật ngưỡng đầy phẫn uất của
một Chí Phèo say – tỉnh. Và trên con đường – hành trình đời đầy nỗi đau và bi kịch ấy,
những giây phút hạnh phúc, những cử chỉ yêu thương mà Chí được hưởng thật hiếm
muộn như những giọt nước trên sa mạc mênh mông. Song dù chỉ là một giọt nước giữa sa
mạc đời bao la của Chí thì bát cháo hành của thị Nở vẫn làm tròn nhiệm vụ của một
nguồn nước mát lành góp phần thức tỉnh, hồi sinh tâm hồn Chí sau bao tháng năm đọa
đày trong kiếp sống của con quỷ dữ. Cùng với những ám ảnh về bi kịch nhân sinh của
con người, hương cháo hành thoang thoảng trong“Chí Phèo” mãi mãi còn vương vấn
trong hồn người đọc như một biểu tượng của tình cảm nhân đạo sâu sắc đậm đà trong
siêu phẩm này.
Hình ảnh “bát cháo hành” mà nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo trong truyện
gắn liền với mối tình “đôi lứa xứng đôi” Chí Phèo – thị Nở. Trước khi gặp thị, Chí đã
từng là một người nông dân lương thiện, hiền lành như cục đất. Con người ấy dù có tuổi


thơ bất hạnh, bị chuyên tay như một món hàng nhưng vẫn giữ trọn những vẻ đẹp tâm hồn
cao quý, thiêng liêng của một đời lương thiện, biết phải trái, đúng sai, biết tự trọng.
Nhưng bàn tay của bọn cường hào phong kiến (mà đại diện là Bá Kiến) và cái nhà tù thực
dân không cho con người hiền ấy sống đời lương thiện. Chúng hùa với nhau, tước đi của
Chí cả nhân hình, nhân tính của người nông dân lương thiện, để biến anh Chí thành thằng
Chí Phèo, biến anh canh điền hiền lành, chăm chỉ thành kẻ lưu manh có mỗi một nghề là
rạch mặt ăn vạ. Sau 7, 8 năm đi khỏi làng Vũ Đại, Chí Phèo hồi hương trong tình cảnh vô
sản “trần như nhộng”. Sự hiện hữu của Chí Phèo ở làng Vũ Đại là một con số “không”
tròn trĩnh, không nhà không cửa, không bạn bè người thân, không một tấc đất cắm dùi,
không được thừa nhận là một con người. Đó là cái bi kịch đau đớn của con người cô đơn
đi giữa đồng loại. Chí chửi mong nhận được sự hồi đáp – dù là sự hồi đáp thấp hèn nhất
nhưng cũng không có. Chẳng ai cho Chí chút quan tâm, không ai coi hắn là người. Hắn
chửi vào khoảng không bao la của sự vô tình, lạnh lẽo. Hắn chửi thì tai gần miệng đấy,
hắn lại nghe. Chỉ còn một thằng say rượu cùng ba con chó dữ. Còn gì thê thảm hơn thân
phận của con người ấy – thân phận của con người – vật.

Cái lần đầu tiên ra tù rồi đến nhà Bá Kiến chửi đổng hình như Chí Phèo đã lờ mờ
nhận ra kẻ thù đã dìm mình xuống vũng bùn tha hóa. Nhưng ở cái mảnh đất “quần ngư
tranh thực” này, trước một Bá Kiến gian hùng, “khôn róc đời”, Chí Phèo thật thảm hại
biết bao. Chí không những không trả thù được mà còn trở thành tay sai đắc lực cho Bá
Kiến – kẻ thù của mình, tiếp nối đời Năm Thọ, Binh Chức. Từ đó Chí Phèo trượt dài trên
con dốc tha hóa, xuống đáy vực của nó để thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Người ta
tránh hắn, sợ hắn vì hắn làm bao nhiều việc cướp bóc, đốt phá, làm chảy máu và nước
mắt của bao người lương thiện. Hắn làm tất cả những việc ấy trong cơn say triền miên, vô
tận, đến nỗi chính hắn không biết về chính bản thân mình. Gương mặt quỷ dữ, hành động
tác quái theo kiểu quỷ dữ của Chí đã khiến con đường trở về của Chí cụt lối. Cánh cửa
của xã hội lương thiện đã đóng sầm trước mặt hắn khi hắn hồi hương thì đến nay nó được
chèn cài kỹ lưỡng, im ỉm như một khối băng. Chí hiện diện như một bóng hình hắc ám đi
bên lề cuộc sống của làng Vũ Đại.


Thế nhưng, phía cuối đường hầm vẫn còn chút ánh sáng le lói để Chí hy vọng.
Trong cái làng Vũ Đại ấy vẫn còn một con người nhìn đến Chí, không sợ Chí Phèo và
luôn đi qua vườn nhà Chí để kín nước. Đó là một người đàn bà khốn nạn, khổ đau, chịu
nhiều thiệt thòi – thị Nở. Chao ôi! Sao Nam Cao lại dùng những lời văn lạnh lùng đến tàn
nhẫn, mỉa mai để tả người đàn bà khốn khổ ấy? Đã mang một dung nhan “xấu ma chê
quỷ hờn”, Thị lại còn dở hơi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích”, mà thị lại
còn nghèo nếu trái lại thì ít nhất có một người đàn ông khổ sở. Chưa hết, thị Nở còn có
dòng giống mả hủi nên người ta vẫn tránh thị như tránh một con vật rất tởm. Ngoài 30
tuổi thị vẫn chưa lấy chồng trong khi ở cái làng Vũ Đại người ta kết bạn từ lúc lên tám,
lên chín, có con từ lúc 15, không đợi đến năm hai mươi đẻ đứa con thứ nhất. Trong tình
hình đó ta có thể nói quách thị không có chồng.
Ông trời nhiều khi run rủi, thương người nhưng thực sự ở trường hợp Chí Phèo –
thị Nở này ta có thể nói ông thương hay ông ác, gây nghịch cảnh trớ trêu? Trách trời chi
cho xa, trách nhà văn Nam Cao sao không tác thành cho mối tình “đôi lứa xứng đôi” ấy?
Song làm sao mà tác thành được, ai cho phép họ đến với nhau. Cả một xã hội với bao

định kiến không cho họ đến với nhau, không cho họ hạnh phúc trọn vẹn. Xét đến cùng ta
mới thấy Nam Cao thương người, nếu không có ngòi bút của ông thì những kẻ tha hóa
như Chí Phèo, những người đàn bà cùng khốn như Thị Nở chẳng bao giờ được biết đến
chút ít hạnh phúc của tình ái. Họ đã gặp nhau trong một đêm gió mát, rười rượi ánh trăng
ở vườn chuối cạnh bờ sông mà những tàu chuối bị gió bay lại giẫy lên đành đạch như là
hứng tình. Khung cảnh lãng mạn đang tác thành cho họ. Chí Phèo uống rượu ở nhà Tự
Lãng đã say từ nửa đường; thị Nở đi kín nước cũng hớ hênh tựa vào gốc chuối ngủ trong
cái gió mát như quạt hầu. Hai con người dị dạng, hai số phận trớ trêu đã trải qua một đêm
tình lãng mạn đúng kiểu “Chí Phèo – thị Nở”. Nhưng Nam Cao dựng lên mối tình “người
– ngợm” này không phải để câu khách rẻ tiền mà làm tỏa sáng tình người, tình yêu
thương và sự săn sóc ấm áp của một người đàn bà xấu xí ngoại hình nhưng lại có một tấm
lòng vàng.
Đêm tình ấy khiến thị Nở xao xuyến, suy nghĩ nhiều, đặc biệt về Chí Phèo, về trận
ốm của Chí. Thị về nhà sau cuộc tình, sau khi dìu Chí vào nhà và trằn trọc không sao ngủ


được. Thị nghĩ “thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc nhừ”. Và thị thấy
phải cho hắn ăn một tí gì mới được, “Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi
thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà”. Thế là vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo để nấu cháo
cho Chí. Hành thì nhà thị may lại còn. Nam Cao đã miêu tả chiều sâu tâm lý nhân vật với
những rung cảm, nhưng suy tư tinh tế. Tâm lí của thị Nở vừa rất ngô nghê lại vừa sâu sắc.
Đó là rung cảm, những tình cảm tha thiết của một người đàn bà, nhất là một người đàn bà
đang yêu và muốn chăm sóc cho người yêu của mình. Thị không dở hơi mà ta thấy thị rất
lo cho Chí, lo với tình cảm của nhân tình, nhân ngãi, của người làm ơn và cũng là của
người chịu ơn. Thị nghĩ: “mình bỏ hắn lúc này cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với
nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng” thấy ngường ngượng mà thinh thích…”. Thiên
tính nữ, thiên chức của người đàn bà thức dậy trong thị. Thị khao khát hạnh phúc, tình
yêu như mọi người, dù chỉ là làm vợ của thằng… Chí Phèo. Cho nên bát cháo hành của
thị Nở đem cho Chí không chỉ là trách nhiệm mà còn là cả một tấm lòng. Hơn tất cả
những người đẹp đẽ ở làng Vũ Đại, thị có một tấm lòng vàng, tấm lòng chân thành và cao

cả. Trong thâm tâm của thị, thị lo cho Chí, một nỗi lo thực sự của những người thân yêu
dành cho nhau. Thị còn thấy thương Chí: “cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương,
còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình”. Đồng thời bát cháo ấy
còn có lòng yêu, tình yêu: “Thị thấy như yêu hắn: đó là cái lòng yêu của một người làm
ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn”.
Cho nên, thị đem cho Chí nồi cháo hành còn nóng nguyên để hắn ăn cho khỏi ốm.
Hơn một chi tiết nghệ thuật, bát cháo hành của thị Nở đã trở thành một biểu tượng nghệ
thuật, một siêu mẫu trong văn học hiện đại Việt Nam. Bát cháo ấy do thị Nở nấu có thể
chẳng mấy ngon nhưng quan trọng nó là tình thương, tình yêu, tình người ấm áp. Nó là
sự chăm sóc ân cần mang theo những nỗi lo âu thực sự của tấm lòng thị Nở dành cho Chí.
Đặt trong quãng đời dài dặc đầy bi kịch của Chí, trong hoàn cảnh dưới đáy hiện tại của
Chí, bát cháo ấy là tình người hiếm hoi mà Chí nhận được, là hạnh phúc tình yêu muộn
mằn, quý giá vô ngần mà lần đầu tiên trong đời hắn được hưởng. Hương vị cháo hành –
hương vị tình yêu tỏa sáng, vượt lên hoàn cảnh, lên trên mọi định kiến của xã hội. Nó mãi
mãi còn thoang thoảng, lan tỏa theo suốt cuộc đời của Chí. Một điều độc đáo ở đây là


Nam Cao đã miêu tả quá tình diễn biến tâm lý nhân vật Thị Nở rất tinh, rất sâu theo một
tiến trình, một quá trình. Cách miêu tả tâm lý ấy cộng hưởng cùng nghệ thuật đối lập
(giữa ngoại hình và tâm hồn nhân vật thị Nở) khiến mỗi người đọc cũng xúc động rưng
rưng cùng nhân vật. Hóa ra Nam Cao không thóa mạ, hay hạ thấp con người bằng những
nét vẽ ngoại hình trần trụi, mà ngược lại, ông đề cao, tôn vinh con người. Vẻ đẹp cao quý
nhất của con người là vẻ đẹp tâm hồn, là tình người, là tấm lòng cao cả. Đó là tiêu chuẩn,
là thước đo giá trị người của con người. Nhìn như thế, ta sẽ thấy Thị Nở là người phụ nữ
đẹp nhất làng Vũ Đại và đẹp nhất trong văn học Việt Nam.
Nói Thị Nở đẹp không hề quá đáng bởi bát cháo hành kia đâu chỉ là tình thương,
tình yêu, là sự chăm sóc ân cần mà nó có tác dụng diệu kỳ – cảm hóa con người, thức
tỉnh phần người, phần nhân tính bị vùi lấp bao lâu nay trong Chí Phèo. Nói đúng hơn là
Thị Nở đã thức tỉnh Chí, cứu vớt Chí, làm hồi sinh tâm hồn, nhân tính trong Chí. Điều đó
không phải ai cũng làm được. Và như thế, ta thấy chi tiết bát cháo hành không thể thiếu

trong tác phẩm. Nó thể hiện tình cảm, tư tưởng nhân văn sâu sắc của nàh văn Nam Cao.
Ông luôn luôn băn khoăn, trăn trở về vấn đề nhân tính của con người. Ông luôn mang
trong mình niềm tin mãnh liệt vào con người, vào phần lương thiện thiêng liêng, quý báu
trong mỗi con người. Thiên lương ấy không bao giờ bị mất đi, không một thế lực nào giết
được. Nó như một thứ lửa luôn âm ỉ cháy trong trái tim của con người, kể cả những con
người ở giữa vũng bùn lầy của sự tha hóa như Chí Phèo – không còn chút nhân hình,
nhân tính nào nữa – theo cái nhìn từ bên ngoài, từ người ngoài.
Những dòng Nam Cao miêu tả Chí Phèo ăn cháo hành có thể nói là những dòng
văn sâu sắc, xúc động nhất tác phẩm. Nhìn thấy bát cháo hành “Thằng này rất ngạc nhiên.
Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn
được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì…”. Chí đi từ
ngạc nhiên đến xúc động nghẹn ngào. Đây là lần thứ nhất trong đời hắn khóc sau những
năm tháng bị đọa đày và cũng là lần thứ nhất trong đời hắn nhận được một thứ người ta
cho, cho vô tư, không tính toán. Hắn không phải dọa nạt hay cướp giật mà vẫn có được.
Quan trọng, đây là lần đầu tiên trong đời Chí được một người đàn bà quan tâm, săn sóc,
dành tình cảm cho; cũng là lần đầu tiên sau khi ra tù Chí được một con người nhìn nhận


mình như một con người, đối xử với mình theo cách con người dành cho nhau. Và hắn
thấy thị có duyên bởi trong mắt kẻ si tình người yêu của mình bao giờ chẳng đẹp, chẳng
duyên. Để rồi sau đó, Chí Phèo tỉnh, tỉnh để suy tư, chiêm nghiệm. Chí thực sự đã tỉnh
rượu, đã tỉnh ngộ và ý thức được về cuộc sống sau những tháng năm say triền miên, vô
tận, say để không biết có sự hiện hữu của mình trên cõi đời. “Hắn thấy vừa vui, vừa buồn.
Và một cái gì nữa giống như là ăn năn”. Chí cảm nhận được tất cả vị thơm ngon của nồi
cháo hành: “Trời ơi cháo mới thơm sao! Chỉ khói xông lên mũi cũng đủ làm người nhẹ
nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng: Những người suốt đời không ăn cháo hành
không biết rằng cháo hành rất ngon…”. Hơi cháo hành, bàn tay chăm sóc và tình cảm của
thị Nở đã làm cho Chí tỉnh, tỉnh để mà nhận ra mình, nhận thức về những việc mình đã
làm. Hơi cháo làm Chí nhẹ người, chí khỏi ốm để ăn năn, sám hối. Hơn lúc nào, Chí cảm
thấu tình cảnh thê thảm, bi đát của mình cho nên hắn vừa vui lại vừa buồn. Vui vì tình

yêu, hạnh phúc muộn mằn, dù muộn nhưng đã đến; buồn vì thân phận, vì cuộc sống quá
loài vật của bản thân. Cháo hành rất ngon nhưng “tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới
nếm vị mùi cháo?”. Hắn hỏi rồi hắn tự trả lời: “có ai nấu cho mà ăn đâu? Mà còn ai nấu
cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Thê thảm
quá! Bi kịch quá! Xót xa muôn phần! Một chút gì như cay đắng nghẹn lòng nữa! Chí
nghĩ đến những tháng ngày nhục nhã bị bà ba nhà Bá Kiến – “con quỷ cái” cứ hay gọi
hắn đấm lưng, bóp chân “mà lại cứ bắt bóp lên trên, trên nữa”. Hắn thấy nhục chứ sung
sướng gì. “Hai mươi tuổi người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt.
Người ta không thích những cái người ta khinh …”. Rõ ràng đến đây, Chí hiện lên là một
chân dung con người đầy đủ, vẹn toàn có cả quá khứ, hiện tại, có những suy nghĩ sâu xa,
những tâm trạng phong phú, ý thức đầy đủ về bản thân. Người nông dân lương thiện
trong Chí đang trở về sau những năm tháng dài bị đi đày xa tắp. Nhưng có ai nhận thấy
đâu, họa chăng chỉ có thị Nở vì thị thấy chí rất hiền, “ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo
vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người?”
Nam Cao vốn là một nhà văn có cái nhìn đời thấu suốt, tinh sắc. Ông không dừng
lại ở sự thức tỉnh của Chí Phèo nhờ bát cháo hành mà ông còn đưa người đọc đi xa hơn
đến chân trời ước mơ, hy vọng của Chí. Với ước mơ quá khứ sống dậy, ước mơ trong


hiện tại bùng cháy thiêu đốt tâm can, Chí đã thực sự hồi sinh, là một con người hoàn toàn
theo đúng nghĩa của hai chữ CON NGƯỜI viết hoa (chữ của M.Gorki).
Bát cháo húp xong, thị Nở đỡ lấy bát và múc thêm bát nữa. Hắn thấy đẫm bao
nhiêu mồ hôi, những giọt mồ hôi to như giọt nước. Chí biết mình đã đến cái dốc bên kia
của cuộc đời và chí thấy “thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!
Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn sao người khác không
thể… Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương
thiện”. Hạnh phúc chớm nở như hoa hàm tiếu và hy vọng được nhen lên rồi bùng cháy
mãnh liệt như ngọn lửa được tiếp ôxi. Chí khao khát cuộc đời lương thiện, muốn làm hòa
với mọi người. Thị Nở sẽ là cầu nối, là hy vọng, mở ra cánh cửa của thế giới lương thiện
vẫn đóng im ỉm cho Chí. Bát cháo hành của tình yêu, tình người đã làm tươi lại, thanh lọc

tâm hồn Chí. Cái ước mơ của Chí rất giản dị mà thiêng liêng, cao cả xiết bao. Nó mang tư
tưởng nhân văn sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Nam Cao. Bởi đã là con người, dù dị dạng,
dù tha hóa nhưng họ vẫn có quyền được sống lương thiện, vẫn không thôi ước mơ, không
hết sự khát thèm cuộc đời bình dị trong hạnh phúc và tình yêu.
Song xã hội lương thiện mà Chí Phèo thấy bằng phẳng kia không hề bằng phẳng.
Nó còn bao định kiến, bao sự cách ngăn, bao điều nghi kỵ. Tất cả đã không cho Chí một
cơ hội nào trở về cuộc đời bình thường như bao người bình thường. Bị thị Nở cự tuyệt,
hắn phẫn uất, cùng cực tìm đến rượu. Nhưng hắn “càng uống lại càng tỉnh ra”. “Hơi rượu
không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Hơi cháo hành ấy là dư ảnh
của bát cháo kia xuất hiện lần cuối để giữ Chí lại bên bờ tỉnh, để hắn tự ngấm, tự thấm bi
kịch nhân sinh cuộc đời. Tất cả hy vọng của Chí đã tan biến theo làn khói hành mong
manh, hư ảo. Nhưng hắn không thể sống như trước nữa vì hắn đã tỉnh, hắn vẫn không
thôi ước mơ. Chí khóc rưng rức trong tuyệt vọng, trong những tỳ vết tâm hồn, những vết
cứa, vết xước của tội ác trong tim hắn biểu hiện lên khuôn mặt dị dạng của hắn vĩnh viễn
không thể mất đi. Tất cả đưa Chí Phèo đến kết cục bi thảm, cùng cực khiến người đọc
bao năm nay vẫn thôi day dứt trong ám ảnh về những câu nói của Chí: “Ai cho tao lương
thiện? … Tao không thể làm người lương thiện nữa…”


Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật song chỉnh thể ấy chỉ có được
từ sự phối hợp hài hòa các yếu tố nhỏ hơn, thậm chí chỉ là một chi tiết. Một chi tiết nhiều
khi mang sức nặng, cất chứa toàn bộ tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm, là chìa khóa
thâm nghập vào thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Chi tiết bát cháo hành mà nhân vật
thị Nở mang cho Chí Phèo trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao thật ấn tượng, mang
nhiều ý nghĩa nghệ thuật sâu sắc. Nó thúc đẩy sự phát triển, tạo bước ngoặt cho cốt
truyện. Đồng thời, nó cũng đầy ám gợi để khắc họa sắc nét, tinh tế thế giới tâm hồn, diễn
biến tâm trạng phong phú, phức tạp của các nhân vật. Từ đó, chi tiết làm bật nổi tính cách
và bi kịch của các nhân vật ấy như những hồi chuông gióng giả, vang vọng đầy ám ảnh
về con người. Bát cháo hành của thị Nở có thể không thể toàn vẹn, thơm tho như chính
con người nhân vật nhưng nó là bát cháo của tình yêu thương, của tình người ấm áp, của

tình cảm nhân đạo sâu sắc và mối quan hoài thường trực mà nhà văn Nam Cao dành cho
con người, nhất là con người có số phận bi kịch. Chính cái nhỏ nhoi, bình dị ấy là một
trong những nhân tố quan trọng tạo nên tầm vóc kinh điển cho kiệt tác “Chí Phèo”.


Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên
của Nam Cao (đoạn từ khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời)
Những ý cần đạt
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần phân tích.
* Phân tích:
- Hoàn cảnh gặp Thị Nở trong cơn say.
- Trước hềt là sự thức tỉnh: khi tỉnh rượu, hắn cảm nhận về không gian, cuộc sống xung
quanh, tình trạng của mình… sau đó hắn tỉnh ngộ, cảm nhận được tình yêu thương, sự
chăm sóc của thị Nở.
+ Sau đó là hắn hy vọng, ước mơ lương thiện trở về, đặt niềm hy vọng lớn ở thị
Nở. Hắn đã ngỏ lời với thị, trông đợi thị về xin phép bà cô.
+ Tiếp đó là thất vọng và đau đớn: bà cô không cho Thị Nở lấy Chí Phèo và Thị
Nở đã từ chối Chí nhưng hắn vẫn cố níu giữ. Đau đớn và căm hận, Chí quyết giết chết thị
và bà cô thị.
+ Cuối cùng là phẫn uất và tuyệt vọng: Chí về nhà uống rượu, ôm mặt khóc. Và
rồi hắn xách dao đi đến nhà bá Kiến, đòi lương thiện. Hắn đã giết bá Kiến và tự sát.
* Kết luận:
+ Bi kịch của con người sinh ra là người mà không được làm người.
+ Sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người
và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy.
Bài văn tham khảo:
Nam Cao viết văn từ những năm 30 cuả thế kỉ XX nhưng đén năm 1941 ông mới
khẳng định vị trí của mình trong nền văn học nước nhà bằng truyện ngắn Chí Phèo. Ông
là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người
trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa,

lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, thuộc đề
tài người nông dân nghèo. Tác phẩm viết về tấm bi kịch của nhân vật Chí Phèo. Bi kịch
của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau. Trước hết là bi kịch tha hóa từ một người
lương thiện trở thành kẻ bất lương, thậm chí thành quỷ dữ. Tiếp nối là bi kịch bị từ chối


làm người lương thiện. Đoạn mô tả từ buổi tối sau khi gặp thị Nở đến khi kết thúc cuộc
đời thuộc bi kịch từ chối quyền làm người.
Chí Phèo nguyên là một đứa trẻ khốn khổ, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ bỏ không.
Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho nhà lí Kiến. Đây là một canh điền khỏe mạnh,
nhưng hiền lành như đất, không những hiền lành anh ta còn nhút nhát, chính Bá Kiến khi
đó là lí Kiến đã tận mắt chứng kiến cảnh Chí Phèo vừa bóp đùi cho bà Ba vừa run run.
Anh ta cũng có những ước mơ rất giản dị và lương thiện như trăm ngàn người nông dân
khác là có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ
một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua thì mua dăm ba sào ruộng làm. Ở
một xã hội bình thường, những con người như thế hoàn toàn có thể sống một cách lương
thiện và yên ổn. Nhưng chỉ vì ghen tuông vu vơ, bá Kiến đã nhẫn tâm đẩy người thanh
niên hiền lành, chất phác ấy vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào, sau 78 năm đã biến một nông dân hiền lành, khỏe mạnh, lương thiện và tự trọng thành con quỷ
dữ của làng Vũ Đại. Từ đây, Chí Phèo bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Chí Phèo đã
bị cướp mất hình hài của con người: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt
thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm… Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ…
Không những thế tính cách Chí cũng khác hẳn khi xưa. Chí không còn là một anh canh
điền ngày xưa mà bây giờ Chí là một thằng liều mạng. Hắn có thể làm tất cả mọi việc
như một thằng đầu bò chính cống: kêu làng, rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém…
Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở
một bờ bụi nào đó nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn
lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Dưới ngòi bút
sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực, quá trình thức tỉnh lương tâm, nhân tính của một con
người bị tha hóa, lầm lạc đã diễn ra không hề đơn giản, một chiều, dễ dãi mà do hoàn
cảnh khá đặt biệt. Trong một lần say rượu không bình thường đã vô tình đưa Chí Phèo

đến gặp thị Nở – một người đàn bà xấu xí và quá lứa lỡ thì. Lần say rượu đặc biệt ấy
cùng với trận ốm thập tử nhất sinh đã khiến Chí Phèo có những biến đổi mạnh mẽ về cả
tâm lí lẫn sinh lí. Thêm nữa, chút tình thương yêu mộc mạc, cử chỉ giản dị chân thành của
thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu tâm hồn Chí, đánh thức


bản chất lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc. Lúc đầu, thị chỉ hấp dẫn Chí vì
đơn giản thị là đàn bà, còn Chí là thằng đàn ông say rượu. Hai người ân ái với nhau thế
rồi nửa đêm Chí Phèo đau bụng nôn mửa. Thị Nở dìu Chí Phèo vào nhà và đi nhặt nhạnh
tất cả những manh chiếu rách đắp cho hắn. Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy khitrời đã
sáng từ lâu. Và kể từ khi mãn hạn tù trở về đây là lần đầu tiên con quỷ dữ của làng Vũ
Đại hết say và hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ
buồn. Lâu lắm hắn mới cảm nhận cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh
bình dị: tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim
hót…Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy, vì
chỉ đến hôm nay hắn mới hoàn toàn tỉnh táo, các giác quan mới hoạt động bình thường.
Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống và đã lay động sâu xa tâm
hồn Chí Phèo… Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn lại cuộc đời của mình cả trong quá khứ, hiện
tại, tương lai. Trước hết, hắn nhớ lại những ngày rất xa xôi hắn mơ ước có một gia đình
nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn
liếng. Khá giả thì mua năm sào ruộng làm. Mơ ước của Hắn thật nhỏ bé và giản dị nhưng
suốt ba năm qua nó vẫn chưa trở thành hiện thực. Thì ra, những ước mơ tốt đẹp của Chí
Phèo không hề bị mất đi mà nó chỉ chìm sâu vào một góc tăm tối nào đó của tâm hồn
Chí. Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già đã sang cái dốc
bên kia cuộc đời, có thể đã hư hỏng nhiều thế mà hắn vẫn đang cô độc. Tương lai của hắn
lại đáng buồn hơn, bởi hắn có quá nhiều sự bất hạnh đói rét ốm đau và cô độc. Đối với
Chí, cô độc còn đáng sợ hơn nhiều đói rét và ốm đau. Từ khi đi tù về, Chí bao giờ cũng
say, say vô tận. Giờ đây lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ nhận thấy tình trạng bi đát,
tuyệt vọng của cuộc đời mình.
Đúng lúc Chí đang vẩn vơ nghĩ mãi thì thị Nở mang một nồi cháo hành còn nóng

nguyên vào. Việc làm này của thị Nở đã khiến Chí rất ngạc nhiên và xúc động đến mức
trào nước mắt bởi vì đây là lần đầu tên trong đời hắn được một người đàn bà cho. Hắn
thấy cháo hành của thị Nở không như bát cháo hành bình thường mà trong đó còn hàm
chứa tình yêu thương chân thành của thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa hàm
chứa cả hạnh phúc lứa đôi mà lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Còn đối với thị Nở, đây là


bát cháo hành tình nguyện, bát cháo hành đem cho, đem tặng, bát cháo hành tình yêu, mở
đầu cho hạnh phúc gia đình. Một mặt, bát cháo hành thể hiện tình cảm chan chứa nhân
đạo của nhà văn. Mặt khác, nó cũng thể hiện tài năng nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí
nhân vật của Nam Cao. Nếu như ban đầu, người đàn bà xấu xí, quá lứa lỡ thì, lại dở hơi
ấy chỉ khơi lại cái bản năng ở Chí Phèo thì sau đó điều kì diệu đã xảy ra, sự săn sóc đầy
ân tình và yêu thương mộc mạc của thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện tiềm ẩn
trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành của thị Nở là món quà quý giá nhất mà lần đầu
tiên Chí cảm hận được trong đời mình. Hắn ăn và nhận thấy rằng cháo hành rất ngon.
Hương vị cháo hành hay hưong vị của tình yêu thương chân thành cảm động, của hạnh
phúc giản dị mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo?
Khi ăn bát cháo hành, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thía nỗi
đau của con người biết tự trọng khi bị vợ Bá Kiến sai làm những việc nhục nhã. Điều này
chứng tỏ một lần nữa Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính này trước đây bị
lấp đi đến nay mới có cơ hội được thể hiện, bởi vì Chí Phèo vốn là người nông dân lương
thiện có bản tính tốt đẹp. Mặc dù bị xã hội tàn ác – đại diện là bá Kiến và nhà tù thực dân
dẫu có ra sức hủy diệt bản tính ấy nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí
Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng chừng đã biến thành quỷ dữ. Khi gặp thị Nở và
cảm nhận được tình yêu mộc mạc chân thành của thị trong lúc yếu đuối và cô đơn, lại
trong hoàn cảnh vừa qua một trận ốm thì bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh.
Từ đây, Chí sống đúng với con người thật của mình: khao khát tình thương và muốn trở
thành những người lương thiện.
Con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị đóng
sầm lại. Sự mong ước được sống hiền lương của Chí Phèo một lần nữa lại không thành sự

thật. Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn, bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối
tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo – con quỷ dữ
của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, hắn mãi mãi chỉ là con quỷ
dữ, không bao giờ có thể làm người. Cách nhìn nhận của bà cô thị cũng chính là cách
nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí. Tất cả quen coi anh là quỷ dữmất
rồi. Nên hôm nay lương tri anh thức tỉnh, linh hồn người của anh đã trở về nhưng nào có


ai nhận ra? Cho nên Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn – bi
kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện. Các hy vọng được sống với thị Nở, sâu xa hơn là
hy vọng được quay về với cuộc đời lương thiện như một đóm lửa vừa mới được nhóm lên
thì đã bị ngay một gáo nước lạnh dội vào cho tắt ngấm. Mặc dù, khi nghe những lời bà cô
mắng thì thị Nở thấy lộn rột nhưng cũng phải nghe theo. Và thị đã giận dữ nói lại với Chí
Phèo tất cả những lời của bà cô. Điều này khiến Chí ngẩn người vì thất vọng nhưng
nhưng này có lẽ hắn chưa tuyệt vọng vì lúc đó hắn lại như hít thấy hơi cháo hành. Chí
ngẩn người ra vì cay đắng, chua xót trước một sự thật phũ phàng: mọi người đã cự tuyệt,
không chấp nhận, dứt khoát không con hắn là một con người. Mùi cháo hành vẫn thoang
thoảng đâu đây khiến hắn lại càng thêm đau xót, thấm thía. Hắn thấy rõ mọi con đường
đều đang đóng chặt trước mặt hắn. Khi thị ra về, hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay nhưng thị
gạt ra. Điều đó chứng tỏ Chí luôn luôn khao khát tình yêu, thiết tha đến với thị Nở, đến
với cuộc đời lương thiện. Từ đây, Chí đã thấm thía sâu sắc bi kịch của con người sinh ra
làm người nhưng không được làm người. Chí vật vả, đau đớn và tuyệt vọng. Thật là lạ
khi thấy Chí ôm mặt khóc rưng rức. Những giọt nước mắt đau đớn, hối hận nhưng đã quá
muộn màng. Không còn cách nào khác, Chí lại tìm đến rượu. Nhưng vì ý thức đã trở về,
lần uống rượu này của Chí khác biết bao nhiêu lần uống rượu trước. Hắn càng uống lại
càng tỉnh ra, hắn không ngửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thoang thoảng mùi cháo hành,
càng uống càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận.
Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí Phèo lại càng thấm thía hơn tội ác của kẻ
đã cướp đi của mình cả bộ mặt và linh hồn con người. Chí đã xách dao ra đi. Hành động
muốn đi trả thù của Chí rất dữ dội, quyêt liệt khiến Chí đi đén một hành động đâm chết

cả nhà nó. Nhưngnó là ai? Tiềm thức mách bảo Chí đó là bá Kiến. Trước đó, Chí không
định đến nhà bá Kiến mà định đến nhà thị Nở để đâm chết thị và bà cô thị cho hả giận
nhưng cuối cùng Chí lại quên đến nhà thị Nở mà đến nhà bá Kiến. Khi đến nhà bá kiến,
Chí trợn mắt chỉ tay vào mặt lão, đanh thép kết tội tên cáo già này đòi làm người lương
thiện,đòi một bộ mặt lành lặn. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện?
là câu hỏi chất chứa niềm phẫn uất, đau đớn, còn làn day dứt người đọc: làm thế nào để
con người sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân


tính ấy? Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù. Hành động của Chí đã vượt khỏi suy nghĩ của tên
địa chủ nổi tiếng khôn ngoan, gian hùng. Đây là cách hành động của người say không
theo dự kiến ban đầu, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, Chí lờ mờ hiểu ra nguyên nhân sâu
xa đâu phải vì thị Nở hay bà cô thị mà cái kẻ làm ra Chí như thế này chính là bá Kiến.
Đến đòi quyền làm người lương thiện là phải đòi nơi lão bá, không đòi dược thì phải trả
thù. Tuy làm tay sai cho bá Kiến nhưng ngọn lửa căm hờn vẫn âm ỉ cháy trong con người
Chí Phèo. Khi Chí Phèo đã thức tỉnh thì hắn hiểu ra nguồn gốc bi kịch của mình nên ngọn
lửa căm hờn càng bùng lên dữ dội. Do vây, Chí Phèo đâm chết bá Kiến không hẳn vì say
rượu mà chính vì mối thù đã bừng cháy. Cái chết của Chí chứng tỏ Chí khao khát trở về
cuộc sống lương thiện. Vì vậy cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo mạnh mẽ cái xã
hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy người dân lương thiện vào con đường bần
cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào cái chết.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách
mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Đồng thời qua
nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo cái xã hội thực dân phong kiến: xã hội đó
cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp những gì Chí Phèo muốn. Điều này thể hiện sự
cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc
của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Ngoài ra, tác phẩm còn đặt ra một vấn đề
nhân sinh mang tính triết lí sâu sắc: làm thế nào để con người sống đúng nghĩa là người
trong cái xã hội tàn bạo phi nhân tính đương thời. Với thành công của truyện ngắn này,
Nam Cao đã trở thành cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiên thực 1930 – 1945.



Đề: Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” trong tác phẩm cùng tên của
Nam Cao
---------------------------o0o--------------------------Khi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) xuất hiện trên văn đàn (1941) thì văn học hiện thực phê
phán đã qua một thời kỳ phát triển rực rỡ. Là người đến muộn, nhưng Nam Cao đã tự khẳng định
mình bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, đem đến cho văn học đương thời một tiếng nói
riêng đặc sắc.
Hơn năm mươi năm đã trôi qua, tác phẩm Chí Phèo ngày thêm được khẳng định, được khám phá
từ những góc độ mới mẻ và chắc chắn sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử văn học Việt Nam như
một tác phẩm ưu tú.
Dưới một ngọn bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn nhẫn, lúc hài
hòa bỡn cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết lý sắc bén, khi quằn quại đau đớn... cuộc sống cứ
hiện lên với biết bao tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết sống động. Đôi khi, chỉ một cử chỉ,
một lời nói, một phác thảo đơn sơ... mà hiện lên một chân dung, lộ nguyên hình một tính cách...
Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc. Gấp
sách lại rồi, ta vẫn bị ám ảnh không thôi bởi tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền
làm người. Một tiếng nói khát khao muốn trở về lương thiện nhưng bị chặn đứng ở mọi nẻo, và
một kết thúc bi thảm đắng cay.
“Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người” đó là chủ đề xuyên suốt toàn bộ hình
tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm thiết, bức xúc, tạo nên giá
trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm Chí Phèo.
Khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao không
đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ... của người nông dân, mặc dù trong
thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở, băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về
một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa,
một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một
guồng máy thống trị bạo tàn. Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối
cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện
trực tiếp, tập trung và mãnh liệt hơn cả.

Mở đầu tác phẩm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trên
đường say, đập vào ý thức người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Hắn
vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì?
Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng
là ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ: “Chắc nó
trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi
được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra
điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào
đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi
đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”.


Đây là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong vô thức,
con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.
Qua tiếng chửi của Chí Phèo, người đọc cảm thấy như đang đối diện với một con “người - vật”
quái gỡ đơn độc ở tận cùng của sự khổ đau, đang trút lên cuộc đời - tất cả cuộc đời - tiếng nói
hằn học, phẫn uất, đầy thống khổ của mình.
Và cũng qua tiếng chửi của Chí Phèo, cùng một lúc người đọc nhận ra ba thái độ khác nhau: thái
độ hằn học thù địch của Chí; thái độ khinh miệt dửng dưng của người đời; thái độ phẫn uất
thương cảm của tác giả thể hiện qua giọng văn vừa xót xa vừa tàn nhẫn. Đằng sau một tiếng chửi
vô thức của người say, hay rõ hơn, hòa nhập vào tiếng chửi vô thức ấy, là tiếng nói đầy ý thức
nhân văn của nhà nghệ sĩ, tiếng nói phản kháng mãnh liệt đối với hiện thực, tiếng nói xót xa đau
đớn trước số phận bi thảm của con người. Và chính tiếng nói ấy, ngay từ trang đầu tiên đã thực
sự đánh thức tấm lòng nhân ái nơi người đọc.
Và cứ thế, cuộc đời Chí Phèo, theo lời kể của nhà văn, hiện lên dần như một cuộn phim bi thảm.
Kể từ khi hắn là một đứa trẻ trần truồng và xám ngắt bên cái lò gạch cũ bỏ không, cho đến khi
hắn bơ vơ, đi ở cho người này đến người khác rồi làm canh điền cho Lý Kiến và cuối cùng bị bắt
giam vô cớ và tù tội oan uổng... Nhà văn không miêu tả thật chi tiết quá trình Chí Phèo bị đối xử
ra sao trong suốt chặng đường dài ấy, nhà văn chỉ tập trung miêu tả cái kết cục, cái hậu quả thảm
khốc của nó.

Qua một kết cấu không theo trình tự thời gian - chủ yếu theo mạch dẫn dắt tâm lý của người kể
chuyện - người đọc hiểu ra: trước kia Chí vốn là người lương thiện. Chỉ sau khi ở tù về, hắn mới
hoá thành một người khác hẳn, bị tước mất cả nhân tính lẫn nhân hình với “cái đầu thì trọc lốc,
cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cong cong, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”.
Với vẻ dường như lạnh lùng, nhà văn viết: “Bây giờ thì hắn đã trở thành người không tuổi rồi.
Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi? Cái mặt hắn không trẻ cũng
không già; nó không còn phải là mặt người; nó là mặt một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có
bao giờ biết tuổi?”. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại mà không tự
biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên. “Hắn ăn trong lúc say,
ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới doạ nạt trong lúc say, uống
rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn
tỉnh táo để nhớ rằng hắn có ở đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỉ dữ của làng Vũ
Đại để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát
bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu
người lương thiện...
Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”…
Đoạn văn chất chứa biết bao nỗi thống khổ của một thân phận đã không còn được sống cuộc
sống của một con người. Những năng lực vốn có của con người - năng lực cảm xúc, ý thức - hầu
như bị tiêu hủy, chỉ còn lại một năng lực đâm chém, phá phách. Bị đối xử tàn bạo. Chí Phèo đã
phản kháng lại bằng sự bạo tàn. Đó là “sự phẫn nộ tối tăm” như Lênin đã từng nói. Trong tác


phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã chỉ ra rằng Chí Phèo không phải là một ngoại lệ. Cùng với hắn còn
có Binh Chức, Năm Thọ. Đó là kết quả tất yếu của một lôgic: một khi đã có Bá Kiến, Lý Cường,
Đội Tảo… thì ắt là sẽ có Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức. Đó không phải chỉ là sản phẩm của sự
thống trị mà thậm chí còn là một phương tiện tối cần thiết để thống trị. “Không có những thằng
đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò”. Chính Bá Kiến đã rút ra kết luận quan trọng ấy.
Như thế, xã hội không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi dưỡng Chí Phèo, biến những con
người như Chí Phèo thành một công cụ thống trị của chúng. Nguy cơ và thảm hại thay, những
người nông dân vốn lương thiện, bị huỷ hoại về nhân cách, bị biến thành công cụ, phương tiện

thống trị cho kẻ thù mà không tự biết. Đúng như nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã nói: “Khi
Chí Phèo ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao thì người ta liền nhận ra rằng
đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ tủi nhục nhất của người dân cày ở một
nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị huỷ hoại, từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán chó,
bán con, bán sữa nhưng chị còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn
của mình để thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại”. Chỉ ra hậu quả thảm khốc của sự bạo tàn, lên
tiếng chất vấn và tố cáo gay gắt sự thống trị bạo tàn, nhà văn đã soi sáng vào quá trình miêu tả
một cảm hứng nhân văn sâu sắc.
Nhưng điều đặc sắc và đáng quí hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha
hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn
có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất
hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê
quỷ hờn” ấy, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo,
thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao ngày
tháng bị vùi dập, hắt hủi. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra
nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài
gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy bao giờ chả
có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn, trong cái phút tỉnh táo ấy, Chí Phèo như
đã thấy tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc - cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau.
Cũng may Thị Nở mang bát cháo hành tới. Nếu không, hắn đến khóc được mất…Nhìn bát cháo
bốc khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng. “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm
nũng với Thị như làm nũng với mẹ…Ôi sao mà hắn hiền! Hắn thèm lương thiện - Hắn khát khao
làm hòa với mọi người”…Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị
Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có của con người: thương
yêu, cảm xúc, ao ước…Té ra, chỉ cần một chút tình thương, dù là tình thương của một con người
dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí…cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí.
Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết chừng nào!
Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ - Nhà văn
như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của
Chí Phèo…

Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo.
Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí. Và thật là khắc nghiệt, khi
bản tính người nơi Chí trỗi dậy, cũng là lúc Chí hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện
được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc


ngang trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ… đã bẻ
gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi người được nếm trải chút
ít hương vị làm người thì cái xúc cảm người sẽ không thể mất… Đấy là mối bi thảm tột cùng mà
cách giải quyết chỉ có thể là cái chết”. (Tạp chí Văn học số 3, 1990 trang 32)
Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về
quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương
con người!
Đó là giá trị nhân văn đặc sắc khiến cho tác phẩm Chí Phèo luôn luôn mới.


Dàn ý phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo của Nam Cao
1. Khái quát tác giả, tác phẩm và bi kịch nhân vật
- Nam Cao (1915 – 1951) là nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc,
vừa mới mẻ, độc đáo. Sáng tác của ông trước Cách mạng xoay quanh hai đề tài chính là
trí thức tiểu tư sản và người nông dân cùng khổ. Điều làm ông day dứt đến đau đớn là
tình trạng nhân cách con người bị hủy hoại.
Là nhà văn có biệt tài phân tích tâm lí, Nam Cao đã khám phá ra những diễn biến nội tâm
nhân vật vừa tất yếu, vừa bất ngờ rất thú vị.
Qua việc tìm hiểu diễn biến tâm trạng Chí Phèo từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi
kết thúc cuộc đời, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
- “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao về đề tài người nông dân và là kết tinh khá đầy đủ
cho tài năng của Nam Cao. Tác phẩm đi sâu vào tấn bi kịch tinh thần của nhân vật chính
Chí Phèo.
Bi kịch của Chí Phèo gồm hai bi kịch nối tiếp nhau.

Thứ nhất, bi kịch bị tha hóa, đầy đọa lăng nhục, từ một con người nông dân lương thiện
bị xã hội biến thành một kẻ bất lương, thậm chí thành “con quỷ dữ”.
Bi kịch thứ hai là bị từ chối quyền làm người.
Đoạn mô tả Chí Phèo từ buổi sáng sau khi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời thuộc bi
kịch thứ hai.
2. Phân tích cụ thể diễn biến tâm trạng Chí Phèo.
- Trước hết là sự thức tỉnh. Bắt đầu là tỉnh rượu.
“Sau những cơn say vô tận”, “bây giờ thì hắn tỉnh” sau đêm gặp Thị Nở, Chí Phèo đã
sống lại những cảm xúc đầy nhân tính. Hắn cảm nhận được không gian xung quanh với
“cái lều ẩm thấp mới chỉ lờ mờ”. Đặc biệt hắn đã cảm nhận được những âm thanh quen
thuộc của cuộc sống quanh mình: “Tiếng cười nói của những người đi chợ; tiếng gõ mái
chèo đuổi cá, tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!”.


Những âm thanh bình dị ấy ngày nào chả có, nhưng xưa nay, vì say hắn bị xã hội làm cho
“mù điếc cả tâm hồn”, không nghe được. Giờ đây được Thị Nở làm cho tâm hồn hắn
sáng tỏ, thì những âm thanh ấy bỗng vọng sâu vào trái tim hắn như tiếng gọi tha thiết của
sự sống.
Cùng với sự cảm nhận bức tranh cuộc sống xung quanh, Chí Phèo cũng đã cảm nhận
được một cách thấm thía về tình trạng thê thảm của bản thân mình (già nua, cô độc, trắng
tay).
Đoạn đối thoại của hai người đàn bà đã gợi nhắc cho hắn mơ ước về một gia đình hạnh
phúc, bình dị. Nhưng giờ đây, Chí chỉ thấy một thực tại buồn bã, cô đơn: “Chí Phèo
dường như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc, điều này còn
đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”.
- Sau khi tỉnh rượu, Chí Phèo tỉnh ngộ và hi vọng. Chí Phèo ăn bát cháo hành được trao
từ bàn tay ấm nóng đầy tình thương của Thị Nở, hắn vô cùng cảm động và thực sự phục
sinh tâm hồn. Hắn “rất ngạc nhiên”, “mắt hắn hình như ươn ướt”, bởi vì “đây là lần thứ
nhất hán được người ta cho cái gì”.
Hắn nhận ra “Trời ơi, chào mới thơm làm sao!”. Hương vị của bát chào hành hay hương

vị của tình yêu chân thành và cảm động, hạnh phúc giản dị và thấm thía lần đầut tiên Chí
Phèo được hưởng đã đánh thức nhân tính vùi dập bấy lâu?
“Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ
mở đường cho hắn”, mọi người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng của những con
người lương thiện. Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi. Chúng nhất định sẽ lấy
nhau. Câu trả lời của Thị Nở lúc này sẽ quyết định số phận của Chí: được kết nạp lại xã
hội loài người hay vĩnh viễn bị đày đọa trong kiếp sống thú vật?
Chí Phèo hồi hộp hi vọng. Nhưng cánh của hi vọng vừa hé mở thì đã bị đóng sầm ngay
lại. Vì bà cô không cho Thị Nở “đâm đầu” đi lấy “thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn
vạ”.
Chí Phèo nghĩ ngợi một lát rồi bỗng nhiên “ngẩn người”. Hắn “sửng sốt”. Hắn lôi rượu ra
uống. “Nhưng càng uống càng tỉnh ra! Chao ôi! Buồn”. Hắn cứ thoảng lấy hơi cháo hành
– hơi của tình yêu hạnh phúc đang sắp tuột khỏi bàn tay cố níu kéo của Chí và “ôm mặt
khóc rưng rức”. Đây chính là đỉnh điểm của bi kịch tinh thần trong Chí Phèo.


- Quằn quại trong đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo lại xách dao ra đi. Nhưng hắn không
rẽ vào nhà Thị Nở như đã dự định ban đầu (đến đâm chết con đĩ Nở và con khọm già kia)
mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn say, hắn càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi
hình người và hồn người của hắn. Chí Phèo đã vung lưỡi dao căm thù lên giết chết Bá
Kiến và quay lại tự kết liễu cuộc đời. Chí Phèo chết vì không tìm ra lối thoát, vì xã hội
không cho hắn sống.
Gấp trang sách “Chí Phèo” lại, ta vẫn nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi găy gắt đến tuyệt
vọng của Chí: “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là “Một câu hỏi lớn. Không lời đáp” còn
làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc: Làm thế nào để được sống cuộc sống con
người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy? Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở
nhân vật yêu quý này.
Tác phẩm kết thúc, Chí Phèo chết. Nhưng dường như hiện tượng Chí Phèo – hiện tượng
hàng vạn người nông dân lương thiện bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa
và khi ý thức nhân phẩm trở về thì bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt vẫn chưa chấm dứt. Chi

tiết cái lò gạch bỏ không, vắng người qua lại hiện ra ở cuối tác phẩm khi Thị Nở nhìn
nhanh xuống bụng, bỗng tưởng tượng ra hình ảnh này đã nói với ta điều gì đó.
3. Kết luận
Quá trình diễn biến tâm trạng nói trên của Chí Phèo đã làm nổi rõ bi kịch: “Sinh ra là
người mà không được làm người”. Qua đó, Nam Cao đã bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với
khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của hiện thực xã hội bấy giờ.


Đề bài: Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái tỉnh rượu hay say? Ý nghĩa cái chết
của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến?
Bài tham khảo 1
Chí Phèo là nhân vật điển hình xuất hiện sắc của nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn
Chí Phèo ra đời năm 1941. Đây là một người nông dân cùng quẫn vốn lương thiện, hiền
lành, tự trọng nhưng đã bị Bá Kiến cho đi tù oan, bị lưu manh hóa, côn đồ hóa. Sau khi
gặp Thị Nở, được hưởng tình cảm yêu thương. Chí muốn trở lại lương thiện. Tuyệt vọng
vì không thể hoàn lương. Chí cầm dao đến nhà kẻ thù, sau khi đã nốc rất nhiều rượu. Vậy
Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái say hay tỉnh?
Theo tác giả miêu tả thì Chí đã uống đến hai chai rượu. Cũng theo truyện thì Chí rắp
tâm đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó”. Chí có ý định đó vì Thị Nở nghe lời bà cô
của thị, đã cự tuyệt quan hệ với Chí Phèo. Nhưng rồi Chí không đến nhà người tình bội
bạc mà lại đến thẳng nhà Bá Kiến. Nhà văn đưa ra lời bình: “Những thằng điên và những
thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm”. Căn cứ vào
những chi tiết đó, ta có thể kết luận Chí Phèo xông đến và đâm chết Bá Kiến trong trạng
thái say.
Nhưng phân tích và kết luận như thế chưa đủ. Trước khi hạ thủ kẻ thù, Chí đã nói
những lời rất tỉnh táo. Chí nói ba câu rất gọn và rõ. Một câu khắng định quyết liệt: “Tao
muốn làm người lương thiện!”. Một câu hỏi uất ức: “Ai cho tao lương thiện?”. Rồi một
câu phủ định đau xót: “Tao không thể là người lương thiện nữa”. Chí Phèo muốn. Chí
Phèo hỏi và Chí Phèo hiểu mình không thể trở thành người lương thiện được nữa với
những vết mảnh chai trên mặt, dấu vết của tội lỗi, của bao lần rạch mặt, ăn vạ, ức hiếp,

gây rối. Như vậy là Chí rất tỉnh. Vả lại lời văn của Nam Cao cho chúng ta thấy rõ khi Chí
Phèo uống thêm chai rượu nữa nhưng “càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra, Chí buồn, khóc
rưng rức rồi ra đi với con dao ở thắt lưng. Phải nói, theo cách dẫn truyện Nam Cao, Chí
Phèo đang tỉnh.
Do đó, người đọc hiểu Chí Phèo đã giết Bá Kiến trong trạng thái vừa tỉnh vừa say,
nhưng có lẽ phần tỉnh nhiều hơn.
Cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến có nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, nó tố cáo


xã hội thực dân – phong kiến đã tàn nhẫn đẩy người cố nông như Chí Phèo vào bế tắc,
cùng đường không lối thoát. Chí Phèo vốn lương thiện, có nhân cách. Chỉ vì sự ghen hão
của tên bá hộ cáo già, anh trai làng vô tội đó đã phải vào tù đến bảy, tám năm. Nhà tù của
thực dân đã lưu manh hóa con người lương thiện ấy. Rồi Bá Kiến tiếp tục đẩy sâu Chí
Phèo vào vũng bùn tội lỗi, biến anh thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Kết cục là Chí
Phèo tự sát sau khi đã đâm chết tên thủ phạm Bá Kiến. Anh chưa tìm được lối thoát, một
mặt không thể sống hung hãn, ngập trong rượu và máu như trước được nữa, mặt khác
cũng không thể trở lại con đường sống lương thiện. Ý nghĩa khách quan của cái chết Chí
Phèo là khi chưa được ánh sáng cách mạng soi rọi thì cuộc đời người nông dân nghèo hèn
trong xã hội cũ rất dễ rơi và kết thúc bi thảm.
Cái chết của Bá Kiến và Chí Phèo còn nói lên sự phản kháng của con người dưới đáy
xã hội. Dù sự phản kháng này là manh động, liều lĩnh, đơn độc nhưng cũng giáng một
đòn chí tử, đích đáng vào kẻ có tội ác, đầu mối của những bi kịch trong cái làng Vũ Đại
khốn khổ. Kẻ gieo gió đã phải gặt bão. Bá Kiến đã bị trừng phạt bởi chính người mà hắn
đã đào luyện thành tên tay chân đắc lực. Bá Kiến chết cùng với tội lỗi của hắn. Chí Phèo
chết trong người cố nông đáng thương, đáng giận ấy gục xuống trên vũng máu, chưa phải
là hết chuyện. Sẽ có thể có Chí Phèo con ra đời nếu xã hội bất công, xấu xa ấy chưa thay
đổi.
Bài tham khảo 2
Chí Phèo là nhân vật điển hình xuẩt sắc của nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn Chí
Phèo ra đời năm 1941. Đây là một người nông dân cùng quẫn vốn lương thiện, hiền lành,

tự trọng nhưng đã bị Bá Kiến cho đi tù oan, bị lưu manh hoá, côn đồ hoá. Sau khi gặp Thị
Nở, được hưởng tình cảm yêu thương. Chí muốn trở lại lương thiện. Tuyệt vọng vì không
thể hoàn lương. Chí cầm dao đến nhà kè thù, sau khi đã nốc rất nhiều rượu. Vậy Chí Phèo
giết Bá Kiến trong trạng thái say hay tỉnh?
Theo tác giả miêu tả thì Chí đã uống hết hai chai rượu. Cũng theo truyện thì Chí rắp
tâm đến nhà Thị Nở "để đâm chết cả nhà nó". Chí có ý định đó vì Thị Nở nghe lời bà cô
thị, đã cự tuyệt quan hệ với Chí Phèo. Nhưng rồi Chí không đến nhà “người tình bội bạc”
mà lại đến thẳng nhà Bá Kiến. Nhă văn đưa ra lời bình : “Những thằng điên và những


thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm”. Căn cứ vào
những chi tiết đó, ta có thể kết luận Chí Phèo xông đến và đâm chết Bá Kiến trong trạng
thái say.
Nhưng phân tích và kết luận như thế chưa đủ. Trước khi hạ thủ kẻ thù, Chí đã nói
những lời rất tỉnh táo. Chí nói ba câu rất gọn và rõ. Một câu khẳng định quyết liệt: “Tao
muốn làm người lương thiện!”. Một câu hỏi uất ức: “Ai cho tao lương thiện?”. Rồi một
câu phủ định đau xót: “Tao không thể là người lương thiện nữa”. Chí Phèo muốn, là
nguyện vọng. Nguyện vọng xuất phát từ bản chất, cội nguồn lương thiện của Chí và vẫn
dai dẳng tiềm ẩn trong con người anh ta, dẫu từ khi biến chất anh ta lúc nào cũng say,
cũng là một thằng “đầu bò”. Chí Phèo hỏi, là trong sâu xa Chí rất rõ nguyên nhân nào và
ai đã làm Chí thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Và sự tự phủ định cuối cùng chứng tỏ
Chí Phèo hiểu con đường cùng đầy thương cảm, xót xa của bản thân. Sự chuyển đổi cảm
xúc ấy diễn ra một cách tự nhiên không gò bó. Cho nên lại không thế nói Chí Phèo giết
Bá Kiến vì say rượu. Chỉ có thể nói đó là giây phút lóe tỉnh trong cơn say. Sự lóe lên của
ý thức này thật Chí hơn tất cả cơn say triền miên của Chí. Bởi thực chất Chí say vì uất ức,
say vì muốn trả thù, say vì cùng quẫn. Và vì tất cả những nguyên cớ rất lương thiện này
cho nên Chí mới say. Do vậy, có thể nói, trong say, Chí thực ra là “Chí giả” - một Chí
hình nộm - mang tên Chí Phèo. Giết Bá Kiến là cái anh Chí làm canh điền, chỉ có một
mong ước hiền lành từng “ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn, cày thuê,
vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng

làm” cho nên lại có thể nói, mà như thế này mới chính xác - giết Bá Kiến là một Chí
Phèo rất tỉnh. Đầy lòng phẫn uất và căm thù không có con đường nào khác để cho đành
liều thân với kẻ thù.
Chính nhờ Nam Cao mà Chí Phèo có được sức sống mạnh mẽ đến vậy trong lòng độc
giả. Mỗi lần đọc Chí Phèo là mỗi lần cảm nhận khác nhau về cảnh đời, số phận của
những con người trong xã hội cũ. Và mỗi lần như vậy, người đọc lại càng thương cảm
hơn cho cái dáng vẻ ngất ngưởng, dềnh dàng bước ra từ trang sách của Chí Phèo. Càng
thêm căm ghét cái xã hội bất công cũ đã đày đọa, vùi dập con người, biến họ trở thành
lưu manh và cắt đứt con đường hoàn lương của họ. Khiến họ, một khi không có cơ may


×