Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

BỒI DƯỠNG KĨ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.08 KB, 22 trang )

BỒI DƯỠNG KĨ NĂNG TẠO CHẤT VĂN
KHI VIẾT NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
(Bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9; Thời lượng: 6 tiết)
Bùi Thị Hoàng Yến – Tổ Ngữ Văn - Trường THPT chuyên Vĩnh Phúc
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1, Lí do chọn đề tài:
Ngày nay, trước những yêu cầu bức thiết của xã hội, mục tiêu của việc
dạy học môn Ngữ văn cũng có nhiều thay đổi. Giáo viên dạy học các
tác phẩm văn học trong nhà trường không chỉ hướng dẫn học sinh cảm nhận, thưởng
thức văn chương mà còn phải khơi dậy ở học sinh tình yêu đối với cái đẹp, lòng nhân
ái, khát khao lí tưởng cũng như những hiểu biết về thế giới, về xã hội và nhất là về
con người.Vì thế dạng bài nghị luận một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học là
một dạng bài góp phần gắn chặt mối quan hệ giữa dạy đọc - hiểu văn bản văn học
với thực tế cuộc sống, giúp cho học sinh sau khi học tác phẩm văn học còn biết liên
hệ đến các vấn đề xã hội đang diễn ra xung quanh, có khả năng tự định hướng và lựa
chọn một lối sống tích cực . Đây chính là một trong những mục tiêu lớn của việc dạy
học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Văn nghị luận xã hội là kiểu bài phát biểu ý kiến, bày tỏ nhận thức, đánh giá và
thái độ của người viết về một vấn đề xã hội bằng những luận điểm, lí lẽ và dẫn chứng
cụ thể. Bởi vậy, bài văn nghị luận xã hội muốn có sức thuyết phục cần lập luận chặt
chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng tiêu biểu, phù hợp, xúc cảm sâu lắng, nhiệt huyết… Muốn
thuyết phục người đọc cả về tư tưởng và tình cảm, bài văn nghị luận cần có chất văn.
Nếu chất nghị luận là phần xác thì chất văn được coi như phần hồn, nếu chất nghị luận
tác động đến lí trí, giúp người đọc hiểu vấn đề, nắm được tư tưởng của người viết thì chất
văn lại lay động trái tim người đọc, mang đến những xúc cảm sâu lắng, khiến ta thấm
thía, yêu mến, say sưa. Đặc biệt với bài viết của một học sinh giỏi, chất văn góp phần
quyết định sự thành công, tạo những ám ảnh nơi người đọc.


Trong quá trình luyện đề chúng tôi nhận thấy thực trạng viết văn của học sinh
như sau:


Nhiều khi, học sinh quá coi trọng lập luận mà quên việc thể hiện cảm xúc trong
bài văn.
Mặt khác, do nhịp sống phóng khoáng của giới trẻ ngày nay, các em thiên về sự
thể hiện bề nổi hơn là chiêm nghiệm để có chiều sâu cảm xúc.
Tài liệu về những vấn đề xã hội và nghị luận văn học được trang bị quá nhiều,
học sinh rơi vào lối tư duy bắt chước mà không tự bộc lộ chính kiến và cảm xúc của
chính bản thân mình, bài viết rơi vào tình trag hời hợt, nông cạn, thiếu xúc cảm chân
thành.
Như vậy, chúng tôi nhận thấy có một hạn chế phổ biến ở học sinh hiện nay là
bài văn nghị luận thiếu chất văn. Bài văn nghị luận có thể đáp ứng yêu cầu về nội
dung tư tưởng nhưng lập luận thiếu sự chặt chẽ, mạch lạc, nhạt tình cảm, nghèo ngôn
ngữ, thiếu tâm huyết hoặc vụng về trong diễn đạt, nghĩa là chất văn còn hạn chế. Bởi
vậy, khơi dậy chất văn trong bài văn nghị luận xã hội là cần thiết, là định hướng đúng
đắn cho học sinh. Nếu người viết không có ý thức tạo chất văn thì bài văn dễ sa vào
thuyết giáo, trở nên khô khan cứng nhắc, biến thành một bài “giáo dục công dân”
khó đi vào lòng người . Vậy hãy mang đến “cái duyên” bằng cách tạo chất văn cho
bài viết. Đặc biệt với bài viết của một học sinh giỏi, chất văn góp phần quyết định sự
thành công, tạo những ám ảnh nơi người đọc.
2. Mục đích – yều cầu:
- Về kiến thức:
Học sinh nắm được đặc trưng của kiểu bài nghị luận xã hội và nắm được những
yêu cầu về chất văn cho bài nghị luận xã hội thể hiện ở các phương diện:
- Lập luận chặt chẽ, mạch lạc (xác định trúng trọng tâm của đề; luận điểm, lí lẽ,
dẫn chứng tiêu biểu, tinh chắt).
- Lập trường tư tưởng, thái độ đúng đắn; tình cảm chân thành, nhiệt huyết.
- Hành văn lôi cuốn ( dùng từ, viết câu, liên tưởng so sánh… hay, lạ).


2, Về kĩ năng:
Học sinh nắm được các thao tác, cách viết để tạo được chất văn trong bài nghị

luận xã hội thể hiện ở những phương diện cơ bản:
- Lập luận chặt chẽ, mạch lạc (xác định trúng trọng tâm của đề; luận điểm, lí lẽ,
dẫn chứng tiêu biểu, tinh chắt).
- Lập trường tư tưởng, thái độ đúng đắn; tình cảm chân thành, nhiệt huyết.
- Hành văn lôi cuốn ( dùng từ, viết câu, liên tưởng so sánh… hay, lạ).
3, Về thái độ:
Học sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc tạo chất văn khi viết bài nghị
luận xã hội, từ đó có ý thức và khao khát rèn luyện sao cho bài viết tạo được sự thuyết
phục, lôi cuốn,hấp dẫn.
B. PHẦN NỘI DUNG:
I, Giới thuyết chung:
1. Khái niệm
Nghị luận xã hội là những bài văn bàn luận về các vấn đề xã hội (thực trạng xã
hội, các hiện tượng đời sống, vấn đề về lối sống của con người, các mối quan hệ của
con người trong xã hội…) nhằm thể hiện suy nghĩ, thái độ, tiếng nói chủ quan của
người viết về vấn đề đặt ra, góp phần tạo những tác động tích cực tới con người, bồi
đắp những giá trị nhân văn và thúc đấy sự tiến bộ chung của xã hội.
Bài văn nghị luận xã hội thể hiện quan điểm của người viết về một vấn đề
chính trị xã hội. Để giúp người đọc hiểu vấn đề, thuyết phục người đọc đồng tình với
quan điểm của người viết, bài văn nghị luận xã hội cần luận điểm mạch lạc, lập luận
chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng tiêu biểu, giọng điêu nhiệt huyết...
2. Các dạng đề nghị luận xã hội
Nghị luận xã hội gồm ba dạng đề cơ bản: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí;
nghị luận về một hiện tượng đời sống; nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong một
tác phẩm văn học.


Dạng đề nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường nhân một câu danh ngôn,
một nhận định, đánh giá nào đó để yêu cầu người viết bàn luận và thể hiện tư tưởng,
quan điểm, thái độ của mình.

Dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống thường nêu lên một hiện tượng,
một vấn đề có tính thời sự, được dư luận xã hội trong nước cũng như cộng đồng quốc
tế quan tâm.
Dạng đề nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học kết hợp
kiểm tra được cả về năng lực đọc – hiểu tác phẩm văn học, cả về kiến thức xã hội và
khả năng nghị luận với hai hình thức sau:
Từ một tác phẩm đã học, đề yêu cầu người viết bàn về một ý nghĩa xã hội nào
đó.
Cũng có thể từ một tác phẩm chưa được học, thường là câu chuyện nhỏ (truyện
mi ni), đề yêu cầu bàn về ý nghĩa xã hội đặt ra trong đó.
3. Khái lược về chất văn trong bài NLXH:
Có nhiều ý kiến về văn và chất văn, có ý kiến cho rằng văn là tiếng nói của tâm
hồn, cảm xúc, của thế giới bên trong con người. Từ đó, chất văn trong bài văn nghị
luận xã hội được hiểu là những cảm xúc, suy tư chân thành nhất của chủ thể được bộc
lộ khi nghị luận về một vấn đề nào đó.
Có ý kiến lại cho rằng chất văn lại nghiêng về yếu tố diễn đạt (dùng từ, đặt
câu…) của bài viết.
Ở đây, chúng tôi quan niệm nói đến chất văn là nói đến cái hay, cái đẹp. Cái
hay, cái đẹp phải biểu hiện ở cả hai mặt hình thức và nội dung. Chất văn là sự lôi
cuốn, hấp dẫn của tổng thể bài viết, nó là kết quả phối hợp thành công của nhiều yếu
tố:
- Lập luận chặt chẽ, mạch lạc (xác định trúng trọng tâm của đề; luận điểm,
lí lẽ, dẫn chứng tiêu biểu, tinh chắt).
- Lập trường tư tưởng, thái độ đúng đắn; tình cảm chân thành, nhiệt huyết.
- Hành văn lôi cuốn ( dùng từ, viết câu, liên tưởng so sánh… hay, lạ).


Như vậy chất văn được thể hiện ở sự thấu hiểu vấn đề cả bằng lí trí và trái tim,
bàn về vấn đề bằng chính những trải nghiệm chân thành, đặt mình là người trong cuộc
để hiểu sâu sắc và thấu đáo. Tuy nhiên tình cảm chân thành, chiều sâu suy nghĩ của

người viết phải được thể hiện tinh tế qua ngôn ngữ và các phương thức diễn đạt giàu
tính thẩm mĩ.
Những năm gần đây, nghị luận xã hội là một trong những yêu cầu bắt buộc
trong một bài văn ở các kì thi thuộc các cấp khác nhau. Ai cũng thấy sự cần thiết của
văn nghị luận xã hội trong nhà trường cũng như trong đời sống. Nhưng việc dạy và
học văn nghị luận xã hội có nhiều cái khó. Bởi vì những vấn đề nghị luận xã hội được
đề cập là rất rộng: có thể là một vấn đề tư tưởng đạo lý, một hiện tượng xã hội, một
vấn đề đạo đức nhân sinh hay vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn chương. Muốn bàn
bạc về những vấn đề ấy, học sinh cần phải có những hiểu biết nhất định, phải có vốn
sống phong phú, có sự trải nghiệm và có lập trường, quan điểm đúng đắn, tiến bộ. Khi
đứng trước đề văn nghị luận xã hội, nói một vài câu để bàn thì dễ nhưng để có một bài
viết giàu chất văn: là vô cùng khó khăn đối với học sinh. Vì vậy, trong quá trình bồi
dưỡng học sinh giỏi, chúng tôi rất chú trọng trong việc rèn luyện kĩ năng tạo chất văn
cho bài viết của học sinh qua việc luyện viết và chấm, chữa bài cho học sinh ở tất cả
những phương diện trên.
II, Kĩ năng tạo chất văn cho bài NLXH.
1, Lập luận mạch lạc, chặt chẽ:
Ngôn ngữ là vỏ tư duy. Bởi vậy chúng tôi luôn ý thức được rằng chỉ có thể diễn
đạt được mạch lạc, nếu như có tư duy mạch lạc. Vì thế, không thể có lời đẹp mà
không có ý hay, hoặc lời đẹp sẽ không thể phát huy hiệu quả nếu bài viết không có sự
chặt chẽ, sáng rõ trong lập luận. Nhiều khi đọc một bài viết, có những câu văn rất hay,
đậm hình ảnh liên tưởng nhưng lại đặt trong một đoạn văn không có sự liên kết về chủ
đề, ý tứ tán lạc; đặt trong một bài văn mà hệ thống luận điểm rời rạc, lộn xộn, thiếu
logic… thì quả thật rất uổng phí. Đọc những câu văn, bài văn như vậy mà cứ thấy


“tiêng tiếc”! Bởi vậy muốn có một bài viết giàu chất văn, yếu tố đầu tiên là phải xây
dựng được một hệ thống lập luận chặt chẽ, mạch lạc.
1.1: Xác định trúng trọng tâm của đề:
Việc tìm hiểu và phân tích đề là khâu đầu tiên và là khâu mở đường, xác định

hướng đi của bài văn. Nếu như người viết xác định đúng yêu cầu của đề thì sẽ có
hướng viết đúng đáp ứng yêu cầu của đề văn còn nếu như đã xác định đề nhầm ngay
từ đầu thì giống như một người đi nhầm đường lạc lối, không thể đến được cái
đích cần tới, và toàn bộ giá trị của bài văn coi như bằng không. Vì vậy đây là khâu
vô cùng quan trọng đối với việc làm văn nói chung và làm bài nghị luận xã hội. Để
đạt được chất văn trong bài văn nghị luận xã hội, trước hết, người viết cần xác định
được yêu cầu, nắm bắt tinh thần của đề bài. Phải xác định trúng, chính xác yêu cầu
của đề bài thì người viết mới có thể có được định hướng suy nghĩ đúng đắn, khoanh
vùng kiến thức, phạm vi dẫn chứng để biện giải vấn đề.
Ở đây chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đối với học sinh giỏi văn, cần phân biệt hai
cấp độ đúng và trúng vấn đề.
VD:
Đề 1: Suy nghĩ của anh (chị) về những gì được gợi ra từ vụ thảm sát ở Bình
Dương.
Đề 2: “Cái không đáng khóc bây giờ ta sẽ khóc mai sau” – Chế Lan Viên
“Rồi có thể sau 10 năm ra đi, ta sẽ lại khóc cho những điều ngày hôm
nay chưa biết” – Chu Minh Khôi.
Anh (chị) có suy nghĩ gì về 2 ý kiến trên.
Đề 3: Theo anh, chị vấn đề xã hội mang tính thời sự được gợi mở trong đoạn
thơ sau là gì:
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng quan
bà đi gánh chè xanh Ba trại
Quán Cháo,Đồng Giao thập thững những đêm hàn


Đề
1.

Đúng

Vụ thảm sát ở Bình Dương

Trúng
Cách nhìn nhận, đánh giá, quan điểm riêng
của người viết về những gì gợi ra từ vụ
thảm sát ở Bình Dương ( Có thể là lòng
tham/ tình yêu lạc lối/ xuống cấp về đạo
đức, nhân tính… tùy vào quan điểm của

2.

từng học sinh).
Khóc vì những điều mình chưa Cần trân trọng những gì nhỏ bé, bình dị
biết, chưa nhận thức được rõ nhưng đầy ý nghĩa của cuộc sống hiện tại

3.

ràng.
để không phải nuối tiếc, ân hận mai sau.
Tình cảm, niềm ân hận của Lối sống vô tâm, vô cảm.
người cháu với người bà
Trên thực tế, khi tiếp nhận một đề bài, học sinh thường dễ mắc những sai lầm

sau đây dẫn đến bài viết không xác định trúng trọng tâm của đề.
Sai lầm dễ mắc phải
- Đọc lướt – quen

Rút kinh nghiệm
- Đọc kĩ đề, gạch chân dưới những từ


- Không bám vào từ ngữ, h/a

ngữ, hình ảnh quan trọng.

- Không xác định được từ khóa, - Giải thích từ ngữ, hình ảnh, đặt trong
không đặt trong ngữ cảnh

văn cảnh để hiểu chính xác vấn đề.

- Đơn giản hoặc phức tạp hóa vấn đề - Xác định nội dung phạm vi dẫn chứng
của đề.
Như vậy, để xác định trúng trọng tâm của đề, học sinh phải chú trọng làm tốt
khâu phân tích đề, đặc biệt là thao tác giải thích với kiểu đề là những trích dẫn một ý
thơ, ý văn hoặc một câu châm ngôn, danh ngôn, một quan điểm, nhận định… Thao
tác giải thích gồm các bước cơ bản như sau:
+ Xác định và giải thích các từ khóa của đề.


+ Đặt các từ khóa đó trong mối liên kết với toàn bộ ngữ cảnh của đề.
+ Chốt lại một cách ngắn gọn, rõ ràng trọng tâm của đề.
VD- Đề 2:
+ “Khóc” là trạng thái bộc lộ sự rung động đến cực điểm hay xúc động cao
độ. “Khóc” ở trong hai câu thơ của Chế Lan Viên và Chu Minh Khôi là sự tiếc nuối,
buồn thương, ân hận.
+ “Bây giờ”/“mai sau”; “ngày hôm nay”/ “10 năm”: mối qua hệ giữa hiện
tại và tương lai.
+ Cái không đáng khóc bây giờ/ những điều ngày hôm nay chưa biết – những
điều nhỏ bé, giản dị nhưng ý nghĩa mà chúng ta (đặc biệt là tuổi trẻ, chưa được trải
nghiệm…) dễ dàng bỏ qua, lãng quên trong cuộc sống.
+ Đặt trong toàn bộ câu nói → Hai ý kiến có mối quan hệ bổ sung: khóc là

trạng thái luyến tiếc, buồn thương, ân hận vì đã không biết trân trọng những điều nhỏ
bé, giản dị nhưng đầy ý nghĩa trong cuộc sống.
Như vậy nhận diện đúng vấn đề đã khó, vươn lên để viết trúng, viết hay còn
khó hơn. Bởi viết trúng vấn đề thể hiện sự thông minh của học sinh trong xử lí đề; bài
viết sẽ có trọng tâm, có điểm nhấn và cái riêng, không bị nhạt nhòa giữa vô số bài viết
na ná như nhau. Đây chính là một trong những mục đích cuối cùng, là đòi hỏi tất yếu
với học sinh chuyên Văn, học sinh giỏi Văn.
1.2: Bố cục rõ ràng:
a, Kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống:
MB:
* Dẫn dắt
* Nêu vấn đề được đưa ra bàn luận
TB:
* Giải thích (nếu cần)
* Trình bày thực trạng
* Phân tích hậu quả


* Phân tích nguyên nhân
* Đề ra giải pháp
KL: Liên hệ bản thân và rút ra bài học.
b, Kiểu bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí:
MB:
* Dẫn dắt
* Nêu vấn đề được đưa ra bàn luận
TB:
* Giải thích (nếu cần).
* Bàn luận chứng minh: Đưa ra lập luận, lí lẽ, dẫn chứng về các khía cạnh,
phương diện để làm rõ quan điểm của mình trước vấn đề đang nghị luận.
* Mở rộng, nâng cao:

- Phản đề: phê phán những hiện tượng tiêu cực.
- Bổ sung cho vấn đề được toàn diện
KL: Liên hệ bản thân, rút ra bài học.
c, Kiểu bài nhị luận về một vấn đề rút ra từ tác phẩm văn học:
MB:
* Dẫn dắt
* Nêu vấn đề được đưa ra bàn luận
TB:
* Phân tích văn bản để rút ra vấn đề cần nghị luận (lưu ý đích hướng đến không
phải là thẩm bình về nội dung, nghệ thuật mà là rút ra được vấn đề xã hội nào được
đặt ra qua tác phẩm văn học).
* Xác định xem vấn đề cần nghị luận thuộc hiện tượng xã hội hay tư tưởng, đạo
lí để áp dụng bố cục đã trình bày ở trên.
1.3: Hệ thống luận điểm logic, dẫn chứng tiêu biểu, lí lẽ xác đáng.


Một bài văn nghị luận xã hội hay đòi hỏi phải có hệ thống lập luận chặt chẽ
mạch lạc trong toàn bài. Đó là sự liên kết logic của các luận điểm kết hợp với dẫn
chứng tiêu biểu, lí lẽ xác đáng để làm sáng tỏ yêu cầu của đề:
Luận đề
Luận điểm 1
Luận cứ 1
Dẫn

Lí lẽ

chứn
g

Luận điểm 2


Luận cứ 2
Dẫn
chứn

Lí lẽ

Luận cứ 1
Dẫn

Lí lẽ

chứn

Luận điểm 3

Luận cứ 2
Dẫn
chứn

Lí lẽ

Luận cứ 1
Dẫn
chứn

Lí lẽ

Luận cứ 2
Dẫn


Lí lẽ

chứn

g
g
g
g
g
Trong thực tế, học sinh thường bỏ qua hoặc xem nhẹ khâu lập dàn ý mà thường

nghĩ gì viết đấy. Vì vậy bài viết thiếu sự mạch lạc, chặt chẽ, logic. Giáo viên cần rèn
cho học sinh kĩ năng hình thành, sắp xếp các luận điểm trong bài, lựa chọn dẫn chứng
và lí lẽ để bài viết có một hệ thống lập luận xuyên suốt, tập trung làm sáng tỏ yêu cầu
của đề.
Đặc biệt cần chú trọng kĩ năng xử lí dẫn chứng khi đưa vào bài văn nghị luận
xã hội sao cho thật sự hiệu quả. Dẫn chứng cần toàn diện, tiêu biểu tinh chắt, kết hợp
với sự phân tích thấu đáo, lí lẽ xác đáng:
Dẫn chứng, lí lẽ còn non nớt
Dẫn chứng tiêu biểu, tinh chắt, lí lẽ sâu sắc
“Hãy dành tình yêu thương, nâng “Thời gian, sự trải nghiệm sẽ khiến bạn thấu
niu, trân trọng trước những món nhận sâu sắc rằng những hạnh phúc giản dị
quà giản dị mà cuộc sống ban tặng. đời thường mới là nguồn sức mạnh lớn lao
Nếu chú chó con mình chăm sóc nhất giúp ta vững bước qua những thử thách
bây lâu nay đột nhiên mất tích, của cuộc đời. Vòng tay ấm áp của mẹ là thế
“đừng để khóc mai sau” mà ngay giới bình yên mênh mông; sự động viên, khích
lúc ấy hãy tìm nó bằng mọi cách. lệ của cha tiếp thêm nghị lực; lời sẻ chia của
Đừng thấy người bạn của mình bạn giúp ta thấy ấm lòng để nụ cười lại nở trên



buồn dầu vì không được vào đội môi… Nhiều khi ta mải miết đeo đuổi những
múa mà xem đó là chuyện tầm đam mê, lao đi như một con thiêu thân trên
thường, vặt vãnh, không đáng để ta quãng đường đi tìm danh vọng mà không dừng
quan tâm… chúng ta không bao giờ lại để thấy trên dọc đường mình đi có ai đã
được thờ ơ, hững hờ với những gì cùng sát cánh… Hạnh phúc không chỉ là đích
ta cho là giản dị, tầm thường. Bởi đến mà là cả một hành trình. Hãy biết nâng niu
chính cái giản dị ấy làm nên cuộc những gì “giản dị, nhỏ bé” đế đắp xây lâu đài
sống của ta”
hạnh phúc vững bền.”
2, Lập trường tư tưởng, thái độ đúng đắn; tình cảm chân thành, nhiệt huyết.
2.1: Lập trường tư tưởng, thái độ đúng đắn:
Bài văn nghị luận xã hội phải thể hiện nhân sinh quan, thế giới quan, lí tưởng
sống đúng đắn. Người viết phải thể hiện được cái nhìn, đánh giá của riêng mình về
cuộc đời, con người, về mục đích, lối sống… Những điều đó không có trong sách vở
mà cần sự trải nghiệm của chính chủ thể.
Ví dụ, đề bài: :
- “Cái không đáng khóc bây giờ ta sẽ khóc mai sau” – Chế Lan Viên
- “Rồi có thể sau 10 năm ra đi, ta sẽ lại khóc cho những điều ngày hôm nay
chưa biết” – Chu Minh Khôi.
Anh (chị) có suy nghĩ gì về 2 ý kiến trên.
Ở đây người viết cần nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của những gì giản dị
nhưng ý nghĩa trong cuộc sống con người, từ đó biết nâng niu, trân trọng, giữ gìn. Đồng
thời cũng thấy được chính những điều nhỏ bé giản dị đó sẽ là nền tảng vững chắc để cota
đắp xây hững hoài bão, ước mơ, khát vọng nâng cao giá trị của bản thân.
Như vậy, để bài viết có những tác động tích cực tới nhận thức và tình cảm con
người, người viết cần xác định cho mình lập trường và thái độ đúng đắn trên cơ sở
những hiểu biết về chuẩn mực đạo đức cũng như các chuẩn đánh giá chung của xã
hội. Có vậy sự biện luận mới đúng, sắc và thuyết phục người đọc, tạo cơ sở cho sự thể
hiện những cảm xúc sâu sắc, mãnh liệt của người viết đối với vấn đề đang nghị luận.



2.2: Tình cảm, cảm xúc thẩm mỹ mãnh liệt.
Thực tế, đã là bài văn thì dù theo thể loại nào cũng phải đáp ứng những đặc thù
riêng của môn văn so với những bài làm ở những bộ môn khác. Ngôn từ trong bài văn
ngoài chức năng biểu ý còn phải có chức năng biểu cảm vì thế không ở đâu cảm xúc
được yêu cầu cao như trong văn chương. Bùi Ngọc Quý cho rằng: “Tình ấy gốc văn,
tình chật hẹp thì văn kia xơ cứng”, vì vậy vun đắp cái tình trong văn trở thành yêu
cầu bên trong của việc làm văn.
Bài văn nghị luận xã hội phải thể hiện được thái độ, tình cảm, nhiệt tình của
người viết. Những cảm xúc chân thành chính là rung động của tâm hồn khi chạm vào
cuộc sống, khiến bài văn không phải là bài thuyết giáo cho một tư tưởng đạo lí, cũng
không phải là một bài giáo huấn khô khan mà bài viết là sự chia sẻ chân thành của
người viết về những gì mình trải qua, mình chiêm nghiệm. Khi đó, bài văn nghị luận
xã hội dễ tìm được sự đồng cảm, đồng tình ở người đọc, thuyết phục người đọc.
Khi đã hiểu được yêu cầu của đề, người viết cần xác định rõ lập trường, điểm
nhìn để đánh giá vấn đề, cần tạo cho mình tâm thế của người trong cuộc, đặt mình
trong hoàn cảnh, tình huống của vấn đề. Khi đó, người viết sẽ có những suy ngẫm,
đánh giá bằng chính những trải nghiệm của bản thân, điều này sẽ chi phối thái độ, cảm
xúc, suy nghĩ, giọng điệu của người viết.
VD…. “ Nếu muốn mai sau “sẽ khóc”, hãy cứ vội vã bước đi mà bỏ lại dấu
chân mình, đừng bận tâm tới ánh mắt ngóng trông của bà, dáng hao gầy của mẹ, nét
ưu tư của cha; cũng đừng nâng niu một cánh hoa rơi hay tiếc nhớ một thời hoa
mộng…. Còn nếu vẫn chưa thể nhận ra giá trị của những điều giản dị trong cuộc
sống, hãy cứ đi đi, đi đến khi nào chùn chân, mỏi gối, đến rệu rã con tim, thì hãy
quay về, ngồi lại ngay cạnh tại nơi mình xuất phát để mà nhớ, mà thương, mà hoài
niệm… Không thể mượn lăng kính của đất trời mà phóng to những điều “nhỏ bé”
kia. Vậy chỉ còn cách hãy mở toang cánh cửa lòng mình… Bình dị là bình yên! Tai
không cần phải thính, mắt không cần phải tinh, chỉ cần một trái tim mẫm cảm, luôn
đập chung nhịp đập với tình đời, tình người, ấy là đã đủ! Đừng để cuộc sống như một



guồng quay hối hả mãi cuốn ta đi. Hãy sống “chậm lại, nghĩ khác đi và yêu thương
nhiều hơn” để một ngày nào đó ngồi lại, ta không phải vội lau những giọt nước mắt
tiếc xót, buồn thương!”.
Đoạn văn trên thể hiện sự trải nghiệm sâu sắc và trái tim nhiệt tình của người
viết. Viết như lời tự sự, tự vấn chính mình. Đồng thời viết cũng như giãi bày, mong cầu
sự đồng cảm, chia sẻ của mọi người. Đọc những bài văn này, người đọc sẽ có cảm giác
như đang được đối thoại trực tiếp với người viết, chất sống, “chất xã hội” sẽ hiện lên
một cách tự nhiên mà sống động.
Tuy nhiên, nếu chỉ đặt mình là người trong cuộc, sử dụng điểm nhìn từ bên
trong thì những suy ngẫm mang tính chủ quan, những đánh giá dễ mang tính cực
đoan, một chiều, hoặc là ngợi ca đề cao quá mức, hoặc là phê phán lên án quá độ. Bởi
vậy, để đánh giá vấn đề một cách chính xác, toàn diện thì người viết cũng cần xác
định cho mình điểm nhìn khách quan, xem xét vấn đề từ nhiều phương diện, khía
cạnh khác nhau.
VD: “ Vẫn biết với tuổi trẻ, sống là không chờ đợi. Vẫn biết trong thời đại
ngày nay, “tác phong công nghiệp” cần ở mọi người, mọi lúc, mọi nơi. Nhưng nên
chăng hãy dành cho mình những “khoảng dừng lặng” quý giá để mỗi sáng lắng nghe
chim ca lảnh lót gọi bình minh, để mỗi chiều được tan lòng mình trong cái nắng
hoàng hôn đẹp long lanh một màu tim tím… Thanh Thảo đã từng viết: “Ta mộng ước
với trời xanh và biển rộng/ mà quên rằng hoa từ đất mà ra”. Sống “chậm lại một
chút”, con người sẽ thấy thế giới tươi đẹp và đáng sống biêt bao.
Song, nếu chỉ mãi quẩn quanh với những điều nhỏ nhặt, liệu ta sẽ ra sao? Chế
Lan Viên đã cùng ta gửi gắm nhiều trăn trở:
“Ta cúi xuống đất
Hí hửng nhặt cái làm rơi vụn vặt
Mà để lồng lộng trên cao
Những mùa trái chín, mùa chim bay mất
Những mùa tình yêu, mùa hạnh phúc bay vèo”



Có phải chăng, đôi khi chúng ta quá chú trọng đến tiểu tiết và những điều nhỏ
nhặt mà bỏ đi bao khát vọng vẫy vùng, khát vọng tình yêu và niềm hạnh phúc. Tựu
chung lại, phần lớn chúng ta vẫn thường sống phiến diện, vênh lệch: hoặc chạy theo
những điều xa vời hoặc chìm đắm trong những điều nhỏ bé. Con người nên biết cân
bằng giữa hai thái cực để sống trọn vẹn và ý nghĩa hơn, để không phải “khóc vì
những năm tháng sống hoài, sống phí.”
Đoạn văn trên, người viết đã phối hợp được nhiều điểm nhìn, cho thấy sự
đối thoại đa thanh giữa những quan điểm khác nhau để rồi đi đến khẳng định một
quan điểm phù hợp, toàn diện.
Như vậy, ý kiến chủ quan của người viết là cần thiết nhưng không được cực
đoan, một chiều, cần phải có độ lùi quan sát để có cái nhìn tổng quát xã hội, để có ý
kiến khách quan, nhiều chiều và đúng đắn trước vấn đề đang được bàn luận.
3, Hành văn lôi cuốn:
Trong rất nhiều yếu tố làm nên một bài văn xuất sắc không thể không kể tới
nghệ thuật diễn đạt. Bên cạnh ý hay, lời đẹp sẽ góp phần tạo nên chất văn cho mỗi bài
văn, gia tăng sức thuyết phục của bài viết
Trên thực tế, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà khả năng diễn đạt
của các em ở bài nghị luận xã hội còn rất nhiều hạn chế. Xin đơn cử một vài khía
cạnh mà học sinh hay mắc phải. Trước hết là lối viết bản năng (Có gì nói nấy, nghĩ
đâu viết đó, câu nào đến đầu tiên trong đầu thì viết ra, không cần phải công phu lựa
chọn, chẳng tuân theo một chuẩn mực nào). Khi viết văn học sinh cũng hay rơi vào
tâm lí chú ý tới ý hơn là lời, cố gắng viết đúng, viết đủ ý mà chưa có ý thức diễn đạt
sao cho hay hơn. Ngược lại, việc lời không theo kịp ý cũng làm cho học sinh rất lúng
túng trong diễn ngôn. Bên cạnh đó còn có một xu hướng khác, khi học sinh có vốn từ
ngữ phong phú và khả năng diễn ngôn tốt, nếu không cẩn thận thì lại dễ rơi vào tình
trạng diễn đạt đao to búa lớn, phóng túng hoặc quá đánh bóng đưa đẩy – nghĩa là lấy
lời mà lấp đi những hạn hẹp về ý, bình tán làm mất đi độ chắc chắn của bài nghị
luận….Theo quan niệm của chúng tôi, tất cả những điều đó đều có thể coi là hạn chế



về diễn đạt đối của học sinh trong bài làm. Vì thế, bước đầu tiên trong việc nâng cao
kĩ năng diễn đạt cho học sinh trong bài nghị luận xã hội chính là giúp các em nhận ra
những hạn chế của mình và tìm cách khắc phục chúng.
Bài văn phải được diễn đạt trau chuốt, trong sáng, dễ hiểu. Những suy ngẫm và
tình cảm cần được thể hiện bằng lối hành văn mạch lạc, sử dụng đa dạng các kiểu câu,
từ ngữ chính xác, giàu hình ảnh, cảm xúc, tránh dùng khẩu ngữ, từ thông tục trong bài
văn. Lối diễn đạt và ngôn ngữ như vậy sẽ làm tăng chất văn, khiến bài văn dễ đến với
tâm hồn người đọc, lay động trái tim và tác động đến nhận thức của người đọc.
Ở một góc độ nào đó, việc viết văn nghị luận xã hội của học sinh chuyên Văn
có thể coi là một cuộc chiến chống lại sự nhạt nhẽo, nhàm chán. Nghĩa là bài làm của
các em muốn thuyết phục người đọc thì cần phải có những điểm mới, điểm sáng,
không chỉ ở ý tứ mà còn hiển hiện ngay ở mặt diễn đạt. Để đạt được điều đó, học sinh
không bao giờ được cho phép mình chấp nhận dễ dãi một cách diễn đạt duy nhất, học
sinh cần phải hiểu rằng cùng là một ý nhưng có nhiều cách diễn đạt khác nhau, và
người thông minh là người lựa chọn được cách diễn đạt tối ưu. Giáo viên cần khơi
dậy ở học sinh niềm khao khát viết hay, ý thức thường xuyên biết lựa chọn. Để thuyết
phục các em về điều này không có gì tốt hơn là giáo viên chấm, sửa trực tiếp trên bài
làm, tìm cho học sinh những từ, những câu …hoặc một cách nói khác đi, mới hơn, ấn
tượng hơn so với cách diễn đạt của các em. Mặt khác, phải cung cấp cho học sinh
mẫu chuẩn. Có thể là những bài viết, đoạn viết có cách diễn đạt hay. Các em sẽ tự
thấy mình thiếu hụt những gì, cần bổ sung những gì.
3.1: Dùng từ:
Để diễn đạt hay thì trước hết dùng từ phải chính xác. Bởi nếu không như vậy
thì những mĩ từ trở nên vô nghĩa, cầu kì, sáo rỗng. Ngược lại, đôi khi không cần quá
gò gẫm, có những từ rất thông dụng, giản dị nhưng nếu được sử dụng đúng chỗ và
trúng ý thì bỗng nhiên cảm xúc lại bát ngát bay tỏa.



Song đối với học sinh giỏi văn, chính xác thôi chưa đủ, dùng từ phải độc đáo,
gõ mạnh vào cảm xúc, suy ngẫm của người đọc, để lại những ám ảnh lâu bền. Vì vậy,
khi lựa chọn từ ngữ khi diễn đạt bên cạnh chức năng biểu ý cần phải chú ý đến chức
năng biểu cảm, giàu hình ảnh, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng ở người đọc.
Từ ngữ giàu chất biểu cảm không nhất thiết phải là những thán từ: ôi, chao ôi,
trời ơi… Trong thực tế học sinh thường rơi vào lối viết hình thức, bài tràn ngập những
thán từ, những kiểu câu cảm thán, nhưng lại không khơi gợi được ở người đọc sự
đồng cảm, thậm chí còn đem đến cảm giác về sự gượng gạo, hô hào, khẩu hiệu. Vì
vậy từ ngữ phải được chắt ra từ trái tim, sự nhiệt huyết, trải nghiệm của người viết về
vấn đề đang được nghị luận, có như vậy mới đem đến những rung cảm tự nhiên từ
người đọc.
VD: “Một ngày mới bắt đầu, nắng vàng trên ngọn cỏ đẫm sương. Mấy chú
chuồn chuồn đậu trên cành khô cạnh mặt ao bình lặng. Hoa lục bình tim tím một màu
thương nhớ, mê say… Cuộc sống mới giản dị và đáng yêu biết bao! Ấy thế mà có mấy
ai chịu dừng lại mà lắng nghe những “tiếng huyền” của cuộc sống?”
Mặt khác, để diễn đạt giàu hình ảnh, người viết cần tăng cường dùng phép so
sánh, đối chiếu, liên tưởng … Để rèn kĩ năng này, sau bước giải thích từ ngữ quan
trọng, chúng tôi thường yêu cầu học sinh lấy từ 2 – 3 ví dụ cụ thể hoá khái niệm
(nghĩa của từ ngữ quan trọng). Trên thực tế, bước này đã khơi dậy được không chỉ
tâm hồn, cảm xúc mà còn cả lối hành văn rất hình ảnh của học sinh. Có học sinh đã
lấy ví dụ cụ thể hoá nghĩa của từ hưởng thụ: Buổi sáng thức giấc, bạn bật tung cửa sổ
để đón nhận khí trời và nắng mai. Đó là hưởng thụ, bạn đang hưởng thụ từ Mẹ Trái
Đất. Hay có HS đã lấy hình ảnh gà mái và con suối nhỏ trong cuốn Đaghextan của
tôi – Raxun Gamzatốp làm ví dụ cụ thể hoá cho việc con người ta không tự biết mình
là ai: gà mái mơ thấy mình là chim ưng, nó bay khỏi vách đá và ngã gãy cánh. Con
suối nhỏ mơ thấy mình là dòng sông lớn, nó tràn vào bãi cát và lập tức bị hút khô...;
đã so sánh người lạc quan với kẻ bi quan: nếu người lạc quan nói sẽ có ánh sáng ở
cuối đường hầm thì kẻ bi quan bảo sẽ có con tàu đâm vào chúng ta mất....



3.2: Viết câu:
Trong việc sử dụng phối hợp, linh hoạt giữa các kiểu câu chúng tôi khuyến
khích học sinh viết một số câu ghép, câu dài với nhiều vế tạo sự trùng điệp, câu mở
rộng thành phần, câu chứa các cặp từ quan hệ để tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa các
vế. (Không những … mà còn; Càng… càng; Bởi thế…cho nên, Tuy … nhưng). Theo
chúng tôi đây là những kiểu câu giàu màu sắc nghị luận, rất phù hợp với phong cách
ngôn ngữ của văn bản nghị luận. Kiểu câu này không chỉ đem lại cảm giác cân đối,
mạch lạc, mà nó cũng nói nên rằng người viết thực sự có trường độ tư duy (biết nhìn
vấn đề ở nhiều mức, nhiều cấp, nhiều mặt ngay trong một đơn vị rất ngắn là câu….)
Nên viết các kiểu câu có nội dung hai hoặc ba vế vừa phát triển vừa như đối
nghịch nhau để gây ấn tượng). Ví dụ “Cuộc sống hiện đại của chúng ta đang nảy
sinh quá nhiều nghịch lí. Chúng ta đã xây được nhiều nhà to hơn, vững chãi hơn,
nhưng gia đình thì nhỏ lại, hạnh phúc gia đình thì mong manh hơn. Chúng ta tạo ra
nhiều máy tính để có được nhiều thông tin, nhiều kết nối, nhiều bản sao hơn, nhưng
lại càng ít đi những giao tiếp giữa người với người. Chúng ta có thể bay lên mặt
trăng rồi quay về trái đất, nhưng chúng ta lại ngại rẽ qua con phố để sang nhà hàng
xóm. Nhiều khi chúng ta không chỉ khổ vì nghèo mà còn khổ vì quá giàu có. Đa số
những vấn đề chưa giải quyết được của nhân loại ngày nay lại không phải do khách
quan tự nhiên đem lại mà do chính chúng ta gieo ra…”. Kiểu câu như vậy cho thấy
rõ nhất một cái nhìn có tính chất phát hiện đời sống của người viết. Chúng tôi cũng
nhận thấy rằng để cách diễn đạt này thực sự thuyết phục, học sinh cần viết được liên
tiếp hai hoặc ba câu trở lên. Điều này sẽ liên quan tới cách diễn đạt thứ ba mà chúng
tôi trình bày dưới đây.
Dùng liên tiếp các câu có chung một kiểu cấu trúc ngữ pháp, thậm chí có
chung chủ ngữ để tạo sự trùng điệp - biện pháp lặp cấu trúc, góp phần nhấn mạnh
ý. Cách diễn đạt này đã được chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng thành công trong bản
Tuyên ngôn độc lập: “Chúng lập ra nhà thù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay
chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa



của ta trong nhũng bể máu / Chúng ràng buộc dư luận , thi hành chính sách ngu dân /
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược …”. Cách diễn
đạt này cũng sẽ rất thuyết phục nếu chúng ta biết kết hợp với cách nói lớp lang.
Trong bài viết “Làm thế nào để biết được giá trị của thời gian?”, tác giả của bài viết
đã vận dụng thành công lối diễn đạt này:
- Muốn biết giá trị thật sự của một năm, hãy hỏi một học sinh thi rớt đại học
- Muốn biết giá trị thật sự của một tháng, hãy hỏi người mẹ đã sanh con
non
- Muốn biết giá trị thật sự của một tuần, hãy hỏi biên tập viên của một tạp
chí ra hàng tuần
- Muốn biết giá trị thật sự của một giờ, hãy hỏi những người đang yêu chờ
đợi để được gặp nhau
- Muốn biết giá trị thật sự của một phút, hãy hỏi người vừa nhỡ chuyến tàu
- Muốn biết giá trị thật sự của một giây, hãy hỏi người vừa thoát khỏi tai
nạn hiểm nghèo
- Muốn biết giá trị thật sự của một phần trăm giây, hãy hỏi người vừa đoạt
huy chương bạc Olympics
- Một giây không nhiều nhưng không ít đâu. Một giây không làm được gì
nhưng một giây có thể làm được tất cả
- Ngồi giữa trưa hè nắng nóng, một giây đối với bạn chẳng là gì! Ngồi giữa
một phòng thi đầy áp lực, một giây quý hơn vàng!
- Ở một cuộc vui thâu đêm, một giây tuột vào quên lãng. Ở khoảnh khắc
chia tay, một giây ghi sâu vào kí ức.
- Những người khoẻ mạnh, một giây chỉ thoáng qua. Những bệnh nhân nan
y, một giây là sự sống.
- Trên đường đua, một giây quyết định người thắng kẻ thua. Bao tháng ngày
trui rèn, một giây nói lên tất cả


- Một giây là thời gian, mà thời gian là vòng xoáy bất tận, một giây của

hôm nay không như một giây của hôm qua và càng không giống một giây
của ngày mai. Hãy sống để không bao giờ hối tiếc dù chỉ một giây ngắn
ngủi. Có thể chỉ một giây sẽ thay đổi cuộc đời con người …
Theo chúng tôi, cách diễn đạt này vừa xoáy sâu được ý muốn làm nổi bật, vừa
thể hiện được kiến thức phong phú của người viết, tạo ra được nét đặc biệt trong một
đoạn văn bản. Vừa nghị luận một cách tập trung vừa tạo ra điểm mới trong diễn đạt,
khiến người đọc không thể bỏ qua.
Cách diễn đạt trong văn nghị luận không cần phải “vang nhạc, sáng hình”
như trong thơ. Nhưng nếu học sinh biết đặt những câu văn có hình ảnh, có nhịp
điệu một cách hợp lí đôi khi lại có hiệu quả lớn. Một điều thường thấy trong văn
nghị luận, nhất là nghị luận xã hội chính là: để tạo cách diễn đạt hình ảnh, người ta
thường hay sử dụng biện pháp so sánh.Ví dụ “ Người ta thường ví đời người như
trái núi, sống là một cuộc chinh phục ngọn núi ấy. Thật buồn cho những ai chưa lên
đến đỉnh đã tuột xuống cái dốc bên kia của đời mình”. Còn nhịp điệu của văn nghị
luận thường được gợi lên từ những câu văn nhiều vế với độ dài ngắn khác nhau, sự
phối hợp các âm “Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ…”. (Hồ Chí
Minh)
Một điều rất dễ nhận thấy ở đây là cách phân chia các kiểu diễn đạt trên chỉ là
tương đối, chúng tôi tạm tách ra để dễ nhận thức vấn đề. Sẽ có trường hợp khi viết
chúng ta sẽ sử dụng phối hợp một cách rất tự nhiên. Điều đó cũng thật dễ hiểu.
3.3: Các kiểu lí lẽ, lập luận:
a. Kiểu lí lẽ, lập luận bộc lộ trực tiếp cảm xúc.
Muốn viết được kiểu lời bình này học sinh phải học văn bằng cả trái tim. Văn
có lời bình bộc lộ trực tiếp cảm xúc dễ đi vào lòng người nhưng lời viết phải tự nhiên
chân thành, có hồn:
VD: “Thì ra, chỉ đến lúc ta biết “dừng lại” để lắng nghe những thanh âm của
cuộc sống, cây đàn trái tim mới ngân lên những cảm xúc vỡ òa…


Thì ra, chỉ đến khi những điều giản dị kia bỗng ngày nào đó mãi xa, vuột mất,

ta mới thấy những khoảng trống không thể lấp đầy, ta mới tự trách mình ngày hôm
qua sao không trì níu mà nâng niu, trân trọng….”
b. Kiểu lí lẽ, lập luận là một lời nhận xét trực tiếp.
Đây là cách viết giúp học sinh thể hiện trực tiếp quan điểm của mình, thể hiện
sự nhận biết sâu sắc, vốn sống và cả cá tính của người viết.
VD: “Để có thể nhận biết được những gì “đáng khóc”, “những gì ngày hôm
nay chưa biết” quả thực không hề dễ dàng. Con người cần có sự trưởng thành, những
thức ngộ sâu sắc từ sự trải nghiệm, tích lũy bền bỉ. Cái không đáng khóc thì hãy để
cho nó qua đi. Nhưng “cái đáng khóc” thì hãy biết trân trọng, nâng niu để không
phải nuối tiếc mà “khóc mai sau” – khóc cho những năm tháng đã sống hoài, sống
phí”.
c. Kiểu lí lẽ, lập luận theo con đường liên hệ, mở rộng, so sánh đối chiếu.
Muốn viết được kiểu lời bình này học sinh phải có vốn sống, vốn kiến thức và
khả năng liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Dùng vốn và tư duy so sánh để nâng
chất văn cho bài viết.
VD: “Tâm hồn con người cũng giống như một mảnh đất, không có dòng nước
của cảm xúc mát lành tưới tắm sao màu mỡ để đâm chồi những mần xanh. Mỗi người
chỉ được sống một lần trong đời, sinh ra và mất đi là cả quảng thời gian dài nhưng so
với dòng chảy miên viễn của vũ trụ thì lại chỉ được tính bằng cái chớp mi. Nếu đã
biết trăm năm là hữu hạn, tại sao không biết nâng niu những giá trị giản dị nhưng
chân thực bên mình?”.
d. Kiểu lí lẽ, lập luận kép:
Đây là cách sử dụng một nhận định khác, hoặc tương đồng, hoặc tương phản để
củng cố thêm cho lí lẽ, lập luận của mình. Cách viết này tạo sự chắc chắn và có tầm
trong lập luận.
VD: “Ngạn ngữ Anh có câu: “ngày hôm qua đã là quá khứ, chỉ có ngày hôm
nay và ngày sau vẫn là một món quà.” Món quà hôm nay- hạnh phúc trong thực tại
không phải là những huyễn hoặc xa vời. Mọi thứ đều là phép thử, trừ những giá trị
sống chân thành! Hãy sống sao cho không phải buồn thương, nuối tiếc vì “những
điều hôm nay chưa biết”.



Để viết được như vậy đòi hỏi học sinh phải không ngừng tích lũy để có được
vốn danh ngôn, châm ngôn… có thể huy động một cách linh hoạt, hợp lí trong mọi
ngữ cảnh.
Trên thực tế, sự phân loại kiểu lí lẽ, lập luận chỉ mang tính tương đối. Bài viết
là sự phối hợp tự nhiên, linh hoạt khiến cho những dấu ấn về “kĩ thuật viết” nhòa mờ
để tất cả còn đọng lại là sự lôi cuốn, hấp dẫn, thuyết phục của cả bài văn nghị luận xã
hội. Với học sinh hứng thú - vốn - khả năng...là những điều kiện cần. Nếu học sinh
làm tốt thao tác này bài viết sẽ có chất!
C. PHẦN KẾT LUẬN:
Qua những việc làm cụ thể, điều đầu tiên chúng tôi muốn hướng tới đó là ý
thức viết văn của học sinh: Viết phải đồng nghĩa với sáng tạo, phải biết khao khát
viết hay dù đó là một điều chưa bao giờ dễ dàng.
Chất văn là cần thiết và quan trọng trong bài văn nghị luận nói chung và nghị
luận xã hội nói riêng. Có chất văn, bài văn nghị luận như có linh hồn, sức sống để đi
vào lòng người, chinh phục người đọc bằng con đường tình cảm – mà xưa nay khi đã
chinh phục được trái tim người đọc thì tác phẩm có giá trị lâu bền, giá trị nhân văn
sâu sắc.
Đây là một chuyên đề có ý nghĩa thiết thực đối với công tác dạy học Ngữ Văn
nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi Văn nói riêng. Trên đây là một vài kinh nghiệm
nhỏ của chúng tôi trong việc giúp học sinh tạo chất văn trong bài văn nghị luận nhằm
mang đến một bài viết hoàn thiện, đáp ứng những yêu cầu của công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi. Chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp.





×