Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Phân tích Bài Chiếu Cầu Hiền của Ngô Thì Nhậm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.36 KB, 5 trang )

PHÂN TÍCH BÀI

CHIẾU CẦU HIỀN
CỦA NGÔ THÌ NHẬM

HOÀI NGUYỄN - 1


CHIẾU CẦU HIỀN
Ngô Thì Nhậm
I. Kiến thức cơ bản.
1. Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ là ba anh em ruột, những lãnh tụ kiệt xuất
của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn vào nửa sau thế kỉ XVIII.
Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự đã đạp đổ ngai vàng của chúa Nguyễn ở Đàng
Trong, của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đánh tan 29 vạn quân Thanh năm 1789, xây lên
chiến công Đống Đa bất tử.
Trước khi tiến quân ra Bắc đánh Tôn Sĩ Nghị, Nguyễn Huệ lên ngôi vua, đặt niên
hiệu là Quang Trung. Vua Quang Trung băng hà năm 1792.
2. Ngô Thì Nhậm (1746-1803) thuộc danh gia vọng tộc "Ngô Thì" ở Tả Thanh Oai,
tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội). Đỗ Tiến sĩ từng làm quan to
triều Lê Cảnh Hưng. Là một trong số cách danh sĩ Bắc Hà ra cộng tác với nhà Tây
Sơn và được Nguyễn Huệ trọng dụng.
Sau khi quét sạch được giặc Thanh ra khỏi bờ cõi, vua Quang Trung uỷ thác Ngô Thì
Nhậm viết "Chiếu cầu hiền".
3. "Chiếu cầu hiền" viết bằng chữ Hán thể hiện tấm lòng trọng dụng hiền tài, nhân tài,
quyết tâm xây dựng đất nước cường thịnh, một tầm nhìn chiến lược sâu xa của bậc
minh quân.
4. Nội dung "Chiếu cầu hiền"
Chiếu cũng như biểu, hịch, cáo, phú, văn tế,... đều thuộc văn xuôi cổ; mỗi loại có quy
cách riêng, bố cục riêng. Không có bố cục 3 phần như ta thường học, thường thấy.
Do đó, bài dàn ý này được chia làm 5 phần.


1. Việc xử thế của người hiền như sao sáng trên trời:
- Sao trên trời phải chầu về Bắc thần, người hiền phải để cho Thiên tử sử dụng.
- Người hiền nếu giấu mình ẩn tiếng... thì không đúng với ý trời sinh ra người hiền.
2. Khí tiết của người hiền lúc mạt thời (cuối thời Lê - Trịnh):
- Ở tại triều đình thì giữ lời, ngậm miệng như ngựa đứng trong hàng nghi lễ.

HOÀI NGUYỄN - 2


- Lúc về nơi rừng suối làm dân thường bất hợp tác, làm bậc cao ẩn giấu kín danh
tiếng không xuất hiện suốt đời.
3. Thiên tử và quốc gia cần có nhiều hiền tài ra giúp vua giúp nước:
- Tấm lòng của Trẫm đối với người hiền: ngồi bên mép chiếu, chăm chú lắng nghe,
sớm hôm mong mỏi.
- Vì sao người hiền chưa có ai đến?
+ Hay là Trẫm ít đức, không xứng để người hiền phò tá?
+ Hay là đương thời loạn lạc, người hiền chưa thể phụng sự vương hầu?
- Thời cơ đã đến, nhà nước chờ mong:
+ Nhà nước (Triều đại Tây Sơn) vừa mới được trời tạo lập, chính là lúc người quân tử
thi thố tài năng.
+ Bước vào thời ổn định, mọi sự đang bắt đầu.
+ Kỉ cương triều đình còn nhiều thiếu sót, công việc biên ải (quốc phòng) phải lo
toan.
+ Dân khốn khổ, giáo hoá đạo đức chưa thấm nhuần.
+ Trẫm nơm nớp lo sợ, muôn việc lo toan. Làm nên ngôi nhà lớn không thể chỉ một
cành cây, xây nền thái bình không chỉ một kẻ sĩ. Đất nước ta rộng lớn, có truyền
thống văn chương, há không có người kiệt xuất giúp rập chính sự buổi đầu cho Trẫm
ư?
4. Chính sách cầu hiền của Trẫm:
- Ai có tài cho phép được dâng thư tỏ bày công việc.

- Các quan văn võ được tiến cử; lại cho dẫn đến yết kiến, tuỳ tài bổ dụng.
- Cho phép được dâng thư tự cử, chớ ngại thế là "đem ngọc bán rao".
5. Niềm mong ước thiết tha của Trẫm:
- Trời đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây.
- Người tài đức nên ra thi thố để cùng hưởng phúc tôn vinh.
HOÀI NGUYỄN - 3


- Bố cáo xa gần, để cùng nghe biết.
II. Bài văn tự luận, tham khảo.
Phân tích bài “Chiếu cầu hiền” của
vua Quang Trung và nói lên những suy nghĩ của em
Bài làm
Chiếu là lời của vua ban bố hiệu lệnh cho thần dân. Chiếu là lối văn ứng thế, chỉ khi
nào thi đỗ làm quan mới có dịp dùng đến. Chiếu có thể viết bằng cổ thế hay cận thế.
Cận thể thì đặt câu theo 2 vế đối nhau, mỗi vế có 2 đoạn: 4 - 6 hoặc 6 - 4 gọi là tứ lục.
Cận thể thì vừa có vần vừa có đối. Cổ thế là văn xuôi cổ, tự do, không cần có vần có
đối. Bài "Chiếu cầu hiền" của vua Quang Trung được viết theo cổ thể, thỉnh thoảng
đôi câu có vế đối. (qua bản dịch):
- Chăm chú lắng nghe / sớm hôm mong mỏi
- Kỉ cương triều đình còn nhiều thiếu sót / công việc biên ải chính lúc lo toan.
- Dân khốn khổ còn chưa hồi sức / việc giáo hoá đạo đức chưa thấm nhuần.
"Chiếu cầu hiền" của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm chấp bút, chỉ có thể được
viết ra sau khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh xâm lược năm 1789 (năm Kỉ
Dậu) nhằm mục đích thuyết phục, lôi kéo các danh sĩ Bắc Hà ra cộng tác với nhà Tây
Sơn.
Phần đầu bài chiếu nói về vai trò và cách ứng xử của người hiền. Người hiền "như vì
sao sáng trên trời", "sao tất chầu về Bắc thần", đó là quy luật tự nhiên. Người hiền là
nguyên khí quốc gia, do trời sinh ra, vì vậy "người hiền tất phải để cho thiên tử sử
dụng", đó là quy luật tự nhiên, là quy luật xã hội.

Nước ta, trong thế kỉ XVIII, trải qua những năm dài loạn lạc. Cuối thời Lê - Trịnh,
"lúc mạt thời, đất nước có nhiều biến cố": nhân dân lầm than, vua quan thối nát, quân
Tàu kéo sang xâm lược... Kẻ sĩ ở vào cảnh cùng khốn, nhiều người đã có những cách
ứng xử riêng: "vẫn giữ vững khí tiết", hoặc "giữ lời ngậm miệng",... hoặc lui về nơi
rừng suối "bất hợp tác", hoặc "giấu kín danh tiếng không xuất hiện suốt đời".
Bài "Chiếu cầu hiền" đã nói lên thật đúng thực trạng cách ứng xử của các bậc hiền
tài, các danh sĩ Bắc Hà trong nửa sau thế kỉ XIX.
Phần tiếp theo, vua Quang Trung nói lên tấm lòng quý trọng người hiền. Rất trân
trọng và khiêm nhường "ngồi bên mép chiếu" (dành phần rộng rãi để đợi người hiền).
Thái độ trọng thị: "Chăm chú nghe, sớm hôm mong mỏi". Nhà vua sốt ruột tự hỏi: vì
HOÀI NGUYỄN - 4


sao những người tài cao học rộng "chưa có ai đến", hay là "trẫm ít đức", hay là
"đương thời loạn lạc". Các bậc hiền tài "chưa thể phụng sự vương hầu?".
Sau nhiều câu hỏi nêu lên, nhà vua chỉ rõ: triều đại Tây Sơn "vừa mới được trời tạo
lập", chính là lúc "người quân tử thi thố tài kinh luân". Nhà nước đang cần nhiều
người hiền tài ra giúp vua, giúp nước để "lo toan" việc biên ải, để hồi sức dân khốn
khổ, để "giáo hoá" đạo đức thấm nhuần. "Làm nên một ngôi nhà lớn không phải chỉ
một cành cây, xây dựng nền thái bình không chỉ mưu lược một kẻ sĩ". Một đất nước
"rộng lớn có truyền thống văn chương" há lại không có người kiệt xuất hơn đời "để
giúp rập chính sự buổi đầu cho Trẫm ư?"
Cách lập luận chặt chẽ, lí và tình kết hợp hài hoà, giọng văn tha thiết, lời lẽ trang
trọng, bài "Chiếu cầu hiền" đã đi sâu vào lòng người, kích thích niềm tự tôn, tự hào
của các nhân tài, động viên họ đem đức tài ra giúp dân, giúp nước.
Phần cuối "Chiếu cầu hiền", vua Quang Trung cho phép các quan văn võ được quyền
tiến cử người hiền và cho phép người hiền được tự tiến cử. Nhà vua đã nói rõ đó
không phải là "đem ngọc bán rao".
"Chiếu cầu hiền" của vua Quang Trung thể hiện một chiến lược phát hiện và sử dụng
người tài để xây dựng và phát triển đất nước ngày một thêm cường thịnh. Tiếc rằng,

năm 1792, vua Quang Trung đã băng hà đột ngột. Triều đại Tây Sơn chỉ tồn tại đến
năm 1802 trong cảnh hỗn chiến. Vì thế, "Chiếu cầu hiền" chỉ mang ý nghĩa như một
văn kiện lịch sử, một tư liệu lịch sử của một triều đại vang bóng.
Khôi Nguyên

HOÀI NGUYỄN - 5



×