Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong các cơ sở đó thì yếu tố nào quyết định nhất đến bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.35 KB, 14 trang )

Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

Mục lục
Lời mở đầu
I.

Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh

1. Khái niệm tư tưởng
2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
II.

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Cơ sở khách quan
2. Cơ sở chủ quan

III.

Yếu tố quyết định nhất tới bản chất cách mạng và khoa học của TTHCM
Kết luận

1


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

Lời Mở Đầu


Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại . Đó
là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc,…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng
lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc Việt Nam ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là một hệ thống bao gồm nhiều lĩnh vực, là đối tượng của
nhiều môn khoa học khác nhau như: tư tưởng về dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc, tư tưởng về Đảng Cộng Sản Việt Nam, về đại đoàn kết dân tộc, tư tưởng kinh tế,
ngoại giao,… Để nghiên cứu và hiểu rõ hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhóm em đã
chọn đề tài: “Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong các cơ sở đó thì yếu
tố nào quyết định nhất đến bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh”.

2


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

I. Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Khái niệm tư tưởng
Theo nghĩa phổ thông nhất, tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu
hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh.
Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh” khái niệm tư tưởng không phải là ý thức, tư

tưởng của một cá nhân, một cộng đồng mà có nghĩa là một hệ thống những quan
điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại
biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở
thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Dựa trên những định hướng cơ bản của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các nhà khoa học đã đưa ra định nghĩa: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả cảu sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và
trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người”.
II. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.Những nhân tố khách quan
a) Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Xã hội Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến, nền
nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội,
đối ngoại bảo thủ, phản động… không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc
và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Vì vậy đã không phát huy được sức mạnh
của dân tộc và đất nước, không tạo ra tiềm lực vật chất và tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ
quốc, chống lại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858, chính quyền triều Nguyễn đã
từng bước khuất phục trước của xâm lược của tư bản Pháp, vì lợi ích riêng đã lần lượt
ký các hiệp ước đầu hàng như hiệp ước Nhâm Tuất 1862, hòa ước Giáp Tuất 1874,
hòa ước Giáp Thân 1884, …thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi
Việt Nam. Xã hội Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới và trở thành xã hội thuộc địa
nửa phong kiến. Trong lòng xã hội thuộc địa mẫu thuẫn mới bao trùm lên mâu thuẫn
cũ, nó không thủ tiêu mâu thuẫn cũ mà là cơ sở để duy trì mâu thuẫn cũ làm cho xã

hội Việt Nam càng thêm rối ren và đen tối. Cuối thế kỷ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ
trang dưới khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cũng thất bại. Hệ
tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Đầu thế kỷ XX, các cuộc khai thác thuộc địa đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân
hóa sâu sắc làm xuất hiện các giai cấp mới như giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư
sản và tư sản tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải phóng dân
tộc Việt Nam.
Chịu ảnh hưởng trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc, phong trào yêu nước
của Việt Nam chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản gắn với các phong trào như
3


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

Đông du, Việt Nam quang phục hội của Phan Bội Châu, Đông Kinh nghĩa thục của
Lương Văn Can, Duy tân của Phan Chu Trinh. Nhưng do bất cập với xu thế lịch sử
nên đều thất bại.
Cuối thập niên đầu thế kỷ XX, khi Nguyễn Tất Thành lớn lên phong trào yêu nước
đang ở vào thời kỳ khó khăn nhất, muốn giành thắng lợi, phòng trào cứu nước của
nhân dân ta đòi hỏi phải đi theo một con đường mới.
- Gia đình và quê hương
Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân
dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc-thân phụ của Người là một nhà nho cấp tiến, có
lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Ông chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải
cách về chính trị - xã hội của mình. Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách sâu sắc tư
tưởng thương dân của người cha. Sau này gặp trào lưu tư tưởng mới của thời đại đã
nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của Người là “lấy dân làm
gốc”. Bà Hoàng Thị Loan-thân mẫu của Người là một người phụ nữ Việt Nam giàu

lòng nhân hậu, chịu thương chịu khó. Anh chị cuảt Người cũng tham gia các hoạt
động yêu nước chống lại Pháp, bị bắt, giam cầm và lưu đầy nhiều năm.
Bên cạnh đó quê hương Nghệ An nơi Người sinh ra cũng là một mảnh đất giàu
truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, xuất hiện nhiều anh hùng như Mai Thúc
Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…Ngay mảnh đất
Kim Liên cũng đã thấm máu anh hùng của biết bao liệt sĩ như Vương Thúc Mậu,
Nguyễn Sinh Khuyến… và biết bao con người ưu tú khác của dân tộc Việt Nam.
Hơn nữa ngay từ nhỏ Người đã đau xót chũng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp
bức đến cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương. Những năm ở
Huế, Người đã tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc
nhược của bọn quan lại triều đình nhà Nguyễn.
Tất cả những điều đó đã thôi thúc Người phải sớm ra đi tìm một con đường mới để
cứu dân cứu nước. Quê hương, gia đình, đất nước, truyền thống dân tộc đã chuẩn bị
cho Người nhiều mặt nhưng sẽ không thể thành công nếu không đến được với trào lưu
mới của thời đại.
- Bối cảnh quốc tế
Đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản từ cạnh tranh tự do đã chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa vừa vào hùa với nhau để nô
dịch các dân tộc nhỏ bé trong vòng kìm kẹp thuộc địa của chúng. Bởi vậy, cuộc đấu
tranh giải phóng thuộc địa đã trở thành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực
dân gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế.
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX đã dẫn đến một cao trào cách mạng thế giới. Cuối năm 1917,
Nguyễn Tất Thành từ Anh về sống và hoạt động ở Pari thủ đô nước Pháp, gắn bó với
phong trào lao động Pháp, với những người Việt Nam,với những nhà cách mạng từ
thuộc địa Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã đến với cách mạng Pháp và gia nhập Đảng xã hội
Pháp-một chính Đảng duy nhất cảu Pháp bênh vực các dân tộc thuộc địa. Cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga 1917 nổ ra và giành thắng lợi đã mở ra thời đại mới – thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở ra con đường giải phóng dân tộc
cho các dân tộc thuộc địa.

4


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

Trước sự phân hóa về đường lối trong các Đảng dân chủ xã hội-Quốc tế II, tháng
3-1919 Lênin đã sáng lập ra Quốc tế cộng sản là tổ chức có sứ mệnh bảo vệ, phát triển
chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới và dẫn dắt phong trào cách mạng thế giới. Quốc tế
cộng sản ra đời có ý nghĩa và tác động to lớn tới phong trào cách mạng trên thế giới.
Nguyễn Ái Quốc cùng các Đảng viên khác trong Đảng xã hội Pháp tham gia vào
cuộc tranh luận về đường lối chiến lược, sách lược của Đảng. Đến Đại hội lần thứ 18
Đảng xã hội Pháp (12-1920) kết thúc cuộc tranh luận kéo dài này đã đánh dấu bước
ngoặt trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa Mác-lênin, trở thành người cộng sản, tìm thấy con đường giải phóng dân
tộc của mình trong trào lưu cách mạng thế giới.
Như vậy, trong điều kiện lịch sử Việt Nam và thế giới cuối thế kỷ XIX đến cuối
những năm 20 của thế kỷ XX, với trí tuệ lớn của Hồ Chí Minh đã trở thành tâm điểm
gặp gỡ quan trọng của trí tuệ Việt Nam và trí tuệ thời đại, giữa chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa Mác-lênin đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
b) Những tiền đề tư tưởng – lý luận
- Giá trị truyền thống dân tộc
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền
thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề tư tưởng, lý
luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước tiên, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước
và giữ nước. Đây là truyền thống tư tưởng quý báu nhất, nguồn gốc sức mạnh lớn nhất
trong dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Điều đó được phản ánh từ văn hóa dân
gian đến văn hóa bác học, từ các nhân vật truyền thuyết như Thánh Gióng đến các anh

hùng thời xa xưa như Hai Bà Trưng, Bà Triệu,… đến các anh hùng nổi tiếng trong
thời đại phong kiến như Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Huệ…Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi
nó ăn sâu vào tiềm thức, vào ý chí và hành động của mỗi con người. Chủ nghĩa yêu
nước là giá trị văn hóa cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam, nó
làm thành dòng chảy chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc tạo thành cơ sở vững chắc để
nhân dân ta tiếp thu những giá trị văn hóa từ bên ngoài làm phong phú và không
ngừng phát triển văn hóa dân tộc. Chính từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đúc kết ra một
chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu của
dân tộc ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Chính sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi
tìm đường cứu nước, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vươn lên hoàn thành sứ mệnh
mà lịch sử giao phó. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực tư tưởng, tình cảm chi
phối mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh, là cơ sở dẫn Người
đến với Chủ nghĩa Mác-lênin, tiếp thu lý luận cách mạng và khoa học, để thực hiện sự
nghiệp giải phóng dân tộc, hoài bão của các thế hệ cách mạng Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã nói: “lúc đầu chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng
sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thư ba”. Và khi Nguyễn Ái Quốc tìm

5


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

được con đường cứu nước đúng đắn thì chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lại được nâng
lên một tầm cao mới: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Thứ hai là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái,
“lá lành đùm lá rách” trong hoạn nạn, khó khăn. Điều kiện địa lý và chính trị đã đưa
nhân dân ta tạo dựng truyền thống này ngay từ buổi bình minh của dân tộc. Các thế hệ
Việt Nam đều truyền cho nhau:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Ba mươi năm bôn ba hải ngoại, năm 1941 vừa về nước, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở
nhân dân ta:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Sử ta dạy cho ta bài học này “lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước
ta độc lập, tự do”. Người căn dặn: “Dân ta nên nhớ chữ đồng: đồng tình, đồng sức,
đồng lòng, đồng minh”.
Thứ ba là truyền thống lạc quan yêu đời của dân tộc ta được kết tinh qua hàng
ngàn năm nhân dân vượt qua muôn nguy ngàn khó khăn, lạc quan tin tưởng vào tiền
đồ dân tộc, tin tưởng vào chính mình. Hồ Chí Minh là điểm kết tinh rực rỡ của truyền
thống lạc quan, yêu đời của dân tộc đã tạo cho mình một sức mạnh phi thường vuợt
qua mọi khó khăn thử thách đi tới chiến thắng.
Thứ tư là nhân dân ta có truyền thống cần cù, dũng cảm, sáng tạo, thông minh
trong sản xuất và chiến đấu, đồng thời ham học hỏi và không ngừng mở rộng cửa đón
nhận tinh hoa văn hóa nhân loại. Dân tộc ta trụ vững trên mảnh đất nối liền Nam Bắc, Đông – Tây, từ rất sớm người Việt Nam đã xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thói cực
đoan. Mà trên cở sở giữ vững bản sắc dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu
những cái hay, cái tốt, cái đẹp từ bên ngoài và biến nó thành cái thuần túy Việt Nam.
- Tinh hoa văn hóa nhân loại
Từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được tiếp thu văn hóa phương Đông, lớn lên Người bôn
ba khắp thế giới đặc biệt ở các nước phương Tây. Vì vậy ở Hồ Chí Minh có sự kết
hợp các giá trị truyền thống văn hóa phương Đông với các thành tựu hiện đại của văn
hóa phương Tây. Đây là nét đặc sắc trong quá trình hình thành nhân cách và văn hóa
Hồ Chí Minh.
Văn hóa phương Đông

Về Nho giáo: Hồ Chí Minh được tiếp thu Nho giáo từ nhỏ, Người hiểu sâu sắc về
Nho giáo. Người nhận xét về Khổng Tử, người sáng lập ra Nho giáo tuy là phong kiến
nhưng có những cái hay thì vẫn phải học lấy. Cái phong kiến lạc hậu của Nho giáo là
duy tâm, là đẳng cấp nặng nề, trọng nam khinh nữ, khinh thường lao động chân tay…
thì Hồ Chí Minh phê phán triệt để. Nhưng cái tích cực của Nho giáo như triết lý hành
động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, lý tưởng về một thế giới bình trị, một
“thế giới đại đồng”, triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính; tư tưởng đề cao văn hóa, lễ
giáo, tạo ra truyền thống hiếu học, điểm này Hồ Chí Minh đã khai thác để phục vụ
cách mạng.
Về phật giáo: Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm. Trải qua hàng ngàn năm ảnh
hưởng, Phật giáo đã đi vào văn hóa Việt Nam từ tư tưởng, văn hóa, tín ngưỡng, phong
6


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

tục tập quán, lối sống… Phật giáo là tôn giáo. Hồ Chí Minh nhận xét tôn giáo là duy
tâm. Nhưng Người cũng chỉ ra nhiều điều hay của Phật giáo mà nó đã đi vào tư duy,
hành động, cách ứng xử của người Việt Nam. Đó là những điều cần được khai thác để
góp vào việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng như tư tưởng vị tha từ bi, bác ái, cứu khổ,
cứu nạn, thương người như thể thương thân, một tình yêu bao la đến cả chim muông,
cỏ cây. Phật giáo dạy con người nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm
điều thiện. Phật giáo có tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác, Đức Phật
nói : ‘ta là phật đã thành, chúng sinh là phật sẽ thành’ , chống lại mọi phân biệt đẳng
cấp, đề cao lao động, chống lười biếng. Chủ trương sống không xa lánh việc đời mà
gắn bó với dân, với nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ
thù của dân tộc.
Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn: đây là cương lĩnh chính trị của Tôn Dật Tiên

đề xuất, bao gồm : ‘dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc’. Sinh thời,
Hồ Chí Minh đã khẳng định : "Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có cái hay là phù hợp với
nước chúng ta". Trong toàn bộ tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển
nhiều nội dung tư tưởng của Tôn Trung Sơn. Người chủ trương xây dựng một nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà có độc lập, tự do, hạnh phúc. Mong ước duy nhất của
Người là đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, cũng được học hành, ai cũng được
hạnh phúc. Người mong mỏi độc lập cho nhân dân, tự do cho đồng bào. Người khẳng
định nếu dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu thì quyền lợi của bộ phận, giai cấp ngàn năm
cũng không đòi lại được. Có tự do cho dân tộc thì mới có tự do cho mỗi người. Dân
tộc độc lập, dân quyền tự do. dân sinh hạnh phúc là niềm mong mỏi khôn nguôi của
Người. Tư tưởng của Tôn Trung Sơn in đậm dấu ấn trong tư tưởng của Người. Nhưng
Người không sao chép, không phỏng theo Chủ nghĩa Tam dân mà thận trọng lọc ra,
bảo tồn và phát triển hạt nhân dân chủ cách mạng trong cương lĩnh chính trị và ruộng
đất của Tôn Trung Sơn đã nhào nặn với thực tiễn Việt Nam, dưới ánh sáng tư tưởng
Chủ nghĩa Mác- Lênin, hình thành tư tưởng của Người mang bản chất dân tộc, phản
ánh quy luật phát triển của lịch sử .
Tư tưởng của Tôn Trung Sơn, cho đến hôm nay, vẫn có giá trị đối với công
cuộc đổi mới ở nước ta. Thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh cũng chính là thực hiện mong ước của những nhà cách mạng
tiền bối của chủ nghĩa xã hội. Dân tộc, dân quyền, dân sinh vẫn là những vấn đề
không bao giờ cũ.
Văn hóa phương Tây
Ngay khi còn học ở trong nước Nguyễn Tất Thành đã làm quen với văn hóa Pháp,
đặc biệt là ham mê môn lịch sử và muốn tìm hiểu về cách mạng Pháp. Ba mươi năm
bôn ba ở nước ngoài, sống chủ yếu ở Châu Âu nên Nguyễn Ái Quốc cũng chịu ảnh
hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây.
Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị về tư tưởng tự do, bình đẳng trong bản Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp năm 1791, các giá trị về
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ
năm 1776. Khi ở Anh người gia nhập công đoàn thủy thủ và cùng giai cấp công nhân

Anh tham gia các cuộc biểu tình, đình công bên bờ sông Thêmđơ. Năm 1917, Người
trở lại Pháp sống và làm việc tại Pari trung tâm chính trị, văn hóa, nghệ thuật của
7


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

Châu Âu. Người gắn mình với phong trào công nhân Pháp và tiếp xúc trực tiếp với
các tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng như Vônte, Rutxô, Môngtexikiơ… Tư
tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người còn được học cách làm việc dân chủ ngay trong cách sinh hoạt chính trị của
Đảng Xã Hội Pháp mà tiêu biểu nhất là không khí tranh luận tại Đại Hội Tua (tháng
12/1920). Từ đó mà hình thành phong cách dân chủ, cách làm việc dân chủ ở Người.
Có thể thấy trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã biết làm giàu
trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại Đông và Tây, vừa tiếp thu, vừa gạn lọc,
để từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng
và phát triển.
- Chủ nghĩa Mác-lênin
Chủ nghĩa Mác-lênin là đỉnh cao trí tuệ nhân loại bao gồm 3 bộ phận cấu thành:
Triết học giúp Hồ Chí Minh hình thành thế giới quan, phương pháp biện chứng,
nhân sinh quan, khoa học, cách mạng, thấy được những quy luật vận động, phát triển
của thế giới và xã hội loài người.
Kinh tế chính trị học vạch rõ các quan hệ xã hội được hình thành phát triển, gắn
với quá trình sản xuất, thất được bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản đối với công
nhân, xóa bỏ bóc lột gắn liền với xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự
chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa xã hội khoa học vạch ra quy luật phát sinh, hình thành, phát triển của
hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, những điều kiện, tiền đề, nguyên tắc con

đường, phương pháp của giai cấp công nhân, nhân dân lao động để thực hiện sự
chuyển biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản.
Như vậy, chủ nghĩa Mác-lênin với bản chất và khaoa học của nó đã giúp Hồ Chí
Minh chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước có khuynh hướng rõ rệt thành người cộng
sản, chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, thấy vai trò của quần chúng nhân dân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, liên minh công-nông trí thức và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong
cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa Mác-lênin là một bộ phận tinh túy nhất của văn hóa nhân loại. Nó mang
tính khoa học sâu sắc và cách mạng triệt để. Chính thế giới quan và phương pháp
luận Mác-lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của
mình tìm ra con đường cứu nước. Vì vậy mà Hồ Chí Minh từ người đi tìm đường cứu
nước đã trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc Việt Nam đi theo.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác-lênin, những phạm trù cở bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận
Mác-lênin.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh không những là sự vận dụng sáng tạo mà còn là sự phát
triển chủ nghĩa Mác-lênin, làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa
Mác-lênin ở thời đại cá dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do, xây
dựng đời sống mới.

8


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

-


Lý luận Mác-lênin là một học thuyết cách mạng và khoa học, Đảng ta lấy chủ
nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hoạt động của Đảng.
Chính thế giói quan và phương pháp luận Mác-lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết
kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của mình mà tìm ra con đường cứu nước. Ảnh
hưởng sâu sắc đó đã được thể hiện trong câu nói của Người:“Chủ nghĩa Lênin là cái
cẩm nang thần kì” hay “lúc đầu chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa
cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thư ba. Trong cuộc đấu tranh vừa
nghiên cứulý luận Mác-lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng,
chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và giai cấp công nhân trên thế giới”. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”. Và “chính do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin một cách sang tạo,
phù hợp với thực tế Việt Nam mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được thắng lợi to
lớn”.
2. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
Như ta đã biết, có biết bao nhiêu người nhìn thấy quả táo rơi mà chỉ có một mình
Niutơn phát hiện ra định luật vạn vật hấp dẫn, có bao nhiêu đảng viên Đảng xã hội
Pháp là người Việt Nam và người thuộc địa đã đọc luận cương của Lênin mà chỉ có
một mình Nguyễn Ái Quốc tìm thấy trong đó con đường cứu nước chân chính. Đó
chính là nhờ một phần lớn ở khả năng tư duy, trí tuệ và các phẩm chất của Người.
Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới Hồ Chí Minh đã
không ngừng quan sát ,nhận xét thực tiễn và làm phong phú thêm sự hiểu biết của
mình.Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã khám phá các quy luật vận động
xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để
khái quát thành lý luận, đem lí luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm
trong thực tiễn.
Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
- Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh

tường, sáng suốt trong nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá, nhận xét các sự việc xung
quanh. Thể hiện ở bản lĩnh kiên định luôn tin vào nhân dân, khiêm tốn bình dị,ham
học hỏi nhạy bén với cái mới ,có phương pháp biện chứng đầu óc thực tiến. Chính vì
thế Người đã khám phá ra lí luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới.
- Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn
kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc
tế để có thể tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin, koa học về cách mạng của giai cấp vô
sản quốc tế.
- Đó là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng,
một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ sẵn sàng chịu
đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng
bào. Cả cuộc đời Bác là một sự hy sinh lợi ích cá nhân vì dân tộc và đồng bào mình,
điều làm nên sự vĩ đại chính là ở tình cảm “nâng niu tất cả chỉ quên mình” ấy. Những
người lao động cần lao, các phụ lão, nhi đồng, chiến sỹ, các gia đình thương binh liệt
sỹ… là những người Bác dành trọn tình thương, một tình thương thực sự xuất phát từ
9


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

tấm lòng nhân ái của mình. Và ở đâu có tình yêu thương con người chân chính thì ở
đó những tình cảm ấy sẽ được trân trọng, lưu giữ và truyền tụng như một giá trị nhân
văn bất biến. Và giá trị ấy càng lớn lao và bền bỉ hơn khi tình thương ấy được chắp
cảnh bởi trí tuệ để biến những khát vọng, ước ao của dân chúng thành hiện thực.
Chính những phẩm chất cá nhân cao đẹp đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp
nhận, chọn lọc, chuyển hóa phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư
tưởng đặc sắc của mình.
III. Nhân tố quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí

Minh
1. Chủ nghĩa Mác-lênin
Chủ ngĩa Mác- lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh: chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của tư
tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng của người góp phần làm phong phú thêm CNMLN ở
thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập,tự do. “ Chủ nghĩa Mác- Lênin
đối với chúng ta là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi
tới chủ nghĩa xã hội” Chủ nghĩa Mác- Lênin là một hệ thống các quan điểm lý luận và
phương pháp khoa học được kết tinh và là đỉnh cao thành tựu trí tuệ của loài người,
của tinh hoa vă hóa mà nhân loại đã sáng tạo.
Mác- Ăngghen cũng như Lê-Nin đã kế thừa có chọn lọc những thành tựu khoa học,
những giá trị tư tưởng và văn hóa, những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội mà nhân loại
đã đạt được. Bằng thiên tài của trí tuệ cộng với sự lao động nghiêm túc, vượt lên mọi
trở ngại, khó khăn, những cám dỗ của vật chất và sự hà khắc của chế độ chính trị
đương thời, các ông đã để lại cho nhân loại một di sản vô cùng quý báu, một cơ sở lý
luận khoa học để giải phóng con người, giải phóng xã hội, đem lại cuộc sống ấm no,
tự do và hạnh phúc cho con người.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ
con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị
áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và bóc lột, thoát khỏi đói nghèo và
tha hóa về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng thực hiện
sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và sức mạnh của chính mình.
Học thuyết đó cũng chỉ ra quy luật của sự giải phóng và phát triển xã hội. đó là quy
luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về sự chuyển biến từ
hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế- xã hội khác không phải diễn ra
một cách tự phát mà phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt. Từ đó
Mác-Angghen và Lênin đã trực tiếp nghiên cứu sự vận động của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, tìm ra quy luật về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản cũng như sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội như một tất yếu thông qua cuộc cách mạng xã hội.

Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin còn thể hiện ở chỗ: đó
là học thuyết mở, không cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn được bổ sung, tự đổi
mới, tự phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về sự phát triển, bao hàm cả sự phát triển của
chính học thuyết đó với tinh thần phê phán và tự phê phán. Bởi lẽ, có nhiều vấn đề mà
10


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

các ông chưa có điều kiện, chưa có thời gian nghiên cứu làm sáng tỏ hoặc do hạn chế
của lịch sử nên những luận điểm của các ông cần phải điều chỉnh cho phù hợp với
thực tiễn. Các ông đòi hỏi những người cách mạng đời sau bổ sung và phát triển làm
cho học thuyết đó hoàn chỉnh.
Toàn bộ học thuyết Mác-Lênin có giá trị bền vững, xét trong tinh thần biện chứng
của nó, với bản chất cách mạng, khoa học và nhân đạo, chủ nghĩa Mác-Lênin sống
mãi trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế
giới và là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nan cho hành động của Đảng và Cách Mạng
Việt Nam
Vai trò của chủ nghĩa Mác- Lênin thể hiện:
+ Quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Quyết định phương pháp hành động biện chứng của Hồ Chí Minh
+ Tư tưởng hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác- Lênin ở Việt Nam, là tư tưởng Việt Nam
thời hiện đại.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: chủ nghĩa
Mác-Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, “muốn cách
mạng thành công,phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa Lênin”. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-LeNin vào

điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
2. Con người Hồ Chí Minh
a. Khả năng tư duy và trí tuệ của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú thêm
hiểu biết của mình, hình thành nên những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những
thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận.
Người cũng đã khám phá ra các quy luật vận động xã hội để khái quát thành lý luận,
đem lý luận chỉ đạo thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. nhờ vậy mà lý
luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học
b. Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo là đặctrưng nổi bật, bao trùm nhất,
điển hình cho phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Đặc trưng này được thể hiện ngay khi
người còn ngồi trên ghế nhà trường, cho đến khi lựa chọn con đường cứu nước. chính
nét đặc sắc này đã làm cho phong cách tư duy của người vừa mang tính dân tộc, vừa
có tính thời đại, vừa có giá trị phổ biến bền vững, vừa có tính độc đáo rất riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một người giàu trí tuệ mà còn là một người có
tình cảm, có ý chí, nghị lực phi thường. Ở người ý chí tình cảm cách mạng và tri thức
khoa học thống nhất trong tư duy, trong hành động và trong quá trình vạch ra đường
lối cho cách mạng Việt Nam.
Mọi suy nghĩ sáng tạo của người đều xuất phát từ thực tiễn đất nước và thời đại.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn mà người đư ra các luận điểm đúng đắn nhằm giải
quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một vĩ nhân với một phong cách tư duy độc lập tự
chủ sáng tạo gắn với thực tiễn là bởi vì người “ đã biết làm giàu vốn trí tuệ của mình
bằng những di sản quý báu của văn hóa nhân loại. Người biết kế thừa các học thuyết
11


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh


Nhóm 3

một cách có phê phán, chọn lọc, không bao giờ sao chép máy móc, cũng không bao
giờ phủ định một cách đơn giản mà có sự phân tích sâu sắc để tìm ra những yếu tố tích
cực, làm giàu thêm vốn kiến thức và hành trang tư tưởng của mình”. Đặc trưng này
làm cho người trở thành một nhà mác-xít với đầy đủ những yếu tố khoa học và biện
chứng.
Quan điểm thực tiễn của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong cách tiếp cận với các
học thuyết cách mạng. Hồ Chí Minh luôn coi các học thuyết chỉ là công cụ để thực
hiện mục tiêu giải phóng dân tộc và đem lại hòa bình, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Quan điểm thực tiễn càng rõ trong hoạt động ngoại giao. Những ngày tháng đầu
tiên trong cách mạng tháng tám, để có thời gian củng cố lực lượng cho chính quyền
nhân dân còn non trẻ, đồng thời tranh thủ sự hậu thuẫn quốc tế , thêm bạn bớt thù, Hồ
Chí Minh chủ trương đối thoại, hòa hoãn, nhưng kiên trì mục đích cuối cùng là độc
lập dân tộc. nhận rõ những khó khăn do thái độ không thiện chí của pháp và cuộc
chiến tranh lạnh bắt đầu tăng lên giữa các cường quốc, Hồ Chí Minh thậm chí từng có
ý định từ chức để Bảo Đại thay mặt chính phủ thương thuyết nhằm đạt được độc lập
tự do. Chính nhờ đường lối khôn khéo này mà chúng ta đã dấy được quân tàu tưởng ra
không miền bắc và đạt được thỏa thuận với pháp tháng 3 năm 1946, trong đó Pháp
“công nhận nước cộng hòa việt nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, có quốc hội,
ngân khố, quân đội , nằm trong khuôn khổ Liên Bang Đông Dương và liên hiệp Pháp”
và như vậy đã xác lập chính phủ Hồ Chí Minh là “ chính phủ hợp pháp duy nhất của
Việt Nam”.
Hồ Chí Minh bàn nhiều đến đạo đức và vai trò của đạo đức trong đấu tranh cách
mạ. Người chỉ rõ: Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một thể thống nhất giữa đạo đức với chính trị, đạo
đức với tài năng, giữa nói và làm, giữa đạo đức cách mạng với đạo đức đời thường.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí

Minh, có sức sống mãnh liệt, đã sớm đi vào nhân dân, được nhân dân tiếp nhận. Cùng
với tư tưởng đạo đức, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một dóng góp có giá trị vào
triết học về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “ Tôi chỉ
có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của tinh thần: thắng không kiêu, khó không nản.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là một chuỗi những năm tháng vô cùng gian khổ: hai lần ngồi
tù, một lần lãnh án tử hình, có giai đoạn hoạt động rất sôi nổi, dượcđánh giá cao, có
giai đoạn bị hiểu lầm, ngộ nhận lâm vào cảnh như là sống ở bên lề, ở bên ngoài của
đảng. Vượt được qua thử thách khổ ải tù đày đã rất khó, nhưng vượt qua được thử
thách bị hiểu lầm, nghi kỵ còn day dứt hơn nhiều. Để kiên trì chân lý, giữ vững quan
điểm độc lập, tự chủ, người đã bình tĩnh, chủ động vượt qua những năm tháng khó
khăn.

12


Bài Thảo Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

Kết Luận

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện khách
quan và chủ quan, của truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Cùng với
thực tiễn của dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết và chuyển hóa sắc sảo,
tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô giá, sẽ mãi mãi soi đường cho sự nghiệp

cách mạng của Đảng ta, của nhân dân ta.
Vì vậy, chúng ta cần phải thực hiện tốt cuộc vận động ‘học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh’, để khơi dậy và phát huy các giá trị đạo đức, truyền thống tốt
đẹp. Và xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh, giàu đẹp hơn.

13



×