Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

xây dựng hệ thống bài tập nâng cao mở rộng vốn từ theo chủ điểm cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.38 KB, 104 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM TOÁN HỌC
------------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP NÂNG CAO
MỞ RỘNG VỐN TỪ THEO CHỦ ĐIỂM
CHO HỌC SINH LỚP 2

Giáo viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

ThS. Trịnh Thị Hương

Nguyễn Thị Hồng Tươi
MSSV: 1110344
Lớp: SP Tiểu Học - K37

CẦN THƠ, 05/2015


LỜI CẢM ƠN
-----------Trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô trường Đại học Cần Thơ –
khoa Sư Phạm – Bộ môn Toán đã tận tình giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến
thức và kinh nghiệm quý báu trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến ThS. Trịnh Thị Hương, là
người trực tiếp hướng dẫn, hổ trợ, giúp đỡ tôi thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn các bạn sinh viên lớp Sư phạm Tiểu học - K37 đã


ủng hộ và động viên tinh thần cho tôi.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng nhưng chắc hẳn không tránh khỏi thiếu
sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy, cô và các bạn để luận
văn được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng, tôi xin kính chúc Qúy thầy cô và các bạn dồi dào sức khỏe, luôn
hạnh phúc và thành công trong mọi lĩnh vực. Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày 05 tháng 05 năm 2015
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Hồng Tươi

ii


QUY ƯỚC VIẾT TẮT
Kí hiệu

Ý nghĩa

HS

Học sinh

GV

Giáo viên

SGK

Sách giáo khoa


BT

Bài tập

VBT

Vở bài tập

NXB

Nhà xuất bản

iii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài..................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 1
3. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 3
4. Đối tượng, phạm vi ................................................................................................ 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................... 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................... 4
6. Đóng góp đề tài ...................................................................................................... 4
7. Cấu trúc luận văn .................................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY ...................... 6
MỞ RỘNG VỐN TỪ CHO HỌC SINH LỚP 2 ....................................................... 6
1.1. Cơ sở lí luận ........................................................................................................ 6

1.1.1. Đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học ............................................................ 6
1.1.2. Lí thuyết về từ tiếng Việt ................................................................................. 13
1.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................. 15
1.2.1. Một số vấn đề lý thuyết về phương pháp dạy - học tiếng Việt ở tiểu học ........ 15
1.2.2. Mục tiêu của việc dạy từ ngữ cho học sinh..................................................... 17
1.2.3. Chương trình phân môn Luyện từ và câu trong sách Tiếng Việt 2 ................ 19
CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG BÀI TẬP NÂNG CAO MỞ RỘNG VỐN TỪ............ 24
THEO CHỦ ĐIỂM CHO HỌC SINH LỚP 2 ........................................................ 24
2.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập nâng cao mở rộng vốn từ theo chủ
điểm cho học sinh lớp 2 ........................................................................................... 24
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính tích hợp .................................................................. 24
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống ................................................................. 24
2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo phù hợp nội dung chương trình .................................... 25
2.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và phát huy tính sáng tạo của học sinh .... 25
2.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa ................................................................... 25
2.1.6. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi .................................................................... 25
2.2. Xây dựng hệ thống bài tập nâng cao mở rộng vốn từ theo chủ điểm cho học
sinh lớp 2 .................................................................................................................. 26

iv


2.2.1. Giới thiệu khái quát hệ thống bài tập ............................................................. 26
2.2.2. Hệ thống bài tập .............................................................................................. 28
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG KẾ HOẠCH BÀI DẠY ............................................... 78
MỞ RỘNG VỐN TỪ NÂNG CAO THEO CHỦ ĐIỂM CHO HỌC SINH LỚP 2
.................................................................................................................................. 78
3.1. Kế hoạch bài dạy chủ điểm 2: Ông bà, Cha mẹ, Anh em, Bạn trong nhà ...... 78
3.2. Kế hoạch bài dạy chủ điểm 3: Bốn mùa, Chim chóc, Muông thú................... 81
3.3. Kế hoạch bài dạy chủ điểm 4: Sông biển ......................................................... 87

3.4. Kế hoạch bài dạy chủ điểm 6: Bác Hồ, Nhân dân ........................................... 91
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 98

v


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt giữ vai trò quan trọng đối với học sinh tiểu học trong việc hình
thành và phát triển các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, nghe, nói, viết) để học tập và
giao tiếp. Việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy
cơ bản, góp phần nâng cao phẩm chất tư duy, năng lực nhận thức. Bên cạnh đó, cung
cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và tri thức sử dụng Tiếng
Việt, giúp học sinh hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn
học Việt Nam và nước ngoài. Thông qua đó cũng bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và
hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình
thành nhân cách con người Việt.
Phân môn Luyện từ và câu là phân môn quan trọng của môn Tiếng việt, nhằm
mở rộng vốn từ, cung cấp những hiểu biết sơ giản về từ loại và về kiểu cấu tạo của các
từ thông qua vốn từ các em sẵn có các từ mới học. Đồng thời rèn kỹ năng nói, viết
thành câu, dùng một số dấu câu khi viết, cung cấp những mẫu câu cần thiết để học sinh
vận dụng trong giao tiếp và học tập.
Nhưng trong đó, “Mở rộng vốn từ” vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như: Vốn từ
của học sinh còn nghèo nàn, vốn ngôn ngữ Tiếng Việt còn hạn chế, nên khi gặp những
dạng bài tập Mở rộng vốn từ nâng cao các em còn rất lúng túng.
Đặc biệt đối với học sinh lớp 2, vốn sống, vốn từ của các em còn quá ít trong
khi từ ngữ Việt Nam rất phong phú, đa dạng. Xuất phát từ lý do trên, người viết đã
chọn đề tài: “Xây dựng hệ thống bài tập nâng cao mở rộng vốn từ theo chủ điểm cho
học sinh lớp 2” để nghiên cứu.

2. Lịch sử vấn đề
Vài năm gần đây, chương trình phân môn Luyện từ và câu trong sách giáo khoa
Tiếng Việt lớp 2 có nhiều công trình nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu chủ yếu
tìm hiểu những vấn đề lí thuyết về các phương pháp dạy học, hay nghiên cứu những hệ
thống bài tập để làm tài liệu tham khảo cho các giờ dạy và học. Mà tiêu biểu có thể
nhắc đến một số công trình sau:
Tác giả Nguyễn Minh Thuyết với công trình Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt 2
(2008) đề cập đến nhiều vấn đề về phân môn Luyện từ và câu qua hệ thống câu hỏi và

1


câu trả lời. Trong đó, tác giả đã đưa ra một số kiểu bài tập rèn luyện về từ và câu ở lớp
2 và hướng dẫn cách dạy các kiểu bài đó, đáp ứng được nhu cầu tham khảo của giáo
viên, học sinh. Tuy nhiên, những bài tập đưa ra làm ví dụ minh họa được lấy từ Sách
giáo khoa Tiếng Việt 2 mà chưa có thêm các bài tập bổ sung.
Tác giả Cao Hòa Bình, Nguyễn Thanh Lâm với Luyện từ và Câu lớp 2 (2011)
gồm 2 chương: Chương 1 trình bày một số điểm cần lưu ý về phần luyện từ và câu ở
sách Tiếng Việt 2 chỉ rõ mức độ yêu cầu đối với học sinh trong từng nội dung luyện từ
và câu khi học các chủ điểm. Chương 2 trình bày cách giải bài tập luyện từ và câu ở
sách Tiếng Việt 2 và các bài tập bổ sung. Tài liệu hướng dẫn kỹ cách giải các bài tập
trong sách giáo khoa cũng như đưa ra hệ thống bài tập bổ sung phù hợp với nội dung
chương trình và trình độ của HS. Song hệ thống bài tập chỉ dừng ở những dạng bài tập
quen thuộc, ít thấy những dạng bài tập nâng cao cho HS khá giỏi.
Tác giả Trần Mạnh Hưởng, Nguyễn Thị Hạnh, Lê Phương Nga với cuốn Trò
chơi học tập Tiếng Việt 2 (2007) gồm 2 phần chính: Phần 1 là Những cơ sở lí luận;
Phần 2 là Hệ thống bài tập được thiết kế dưới dạng trò chơi học tập có chọn lọc và
chỉnh sửa phù hợp với học sinh lớp 2. Trò chơi đa dạng và có phân mức độ từ dễ đến
khó giúp giáo viên lựa chọn phù hợp với năng lực học sinh. Nhưng cuốn sách này
chưa đưa ra một hệ thống bài tập cụ thể bám sát nội dung và chương trình sách giáo

khoa Tiếng Việt 2.
Tác giả Nguyễn Thị Hạnh, Lê Phương Nga, Lê Hữu Tỉnh, Hoàng Văn Thung
viết cuốn Dạy con học Tiếng Việt 2 ở nhà (2007) nhằm hướng dẫn cho cha mẹ học
sinh giúp con học tập. Cuốn sách tham khảo này có 3 phần: Phần 1 trình bày Phương
pháp luyện kỹ năng thực hành các bài tập, Phần 2 trình bày Hệ thống các bài tập trong
vở bài tập Tiếng Việt 2, phần 3 Gợi ý cách giải các bài tập. Cuốn sách này có đóng
góp trong việc đưa ra một số dạng bài tập theo từng tiết học và gợi ý cách giải các bài
tập đó giúp phụ huynh dễ dàng hướng dẫn con em mình học môn Tiếng Việt được tốt
hơn. Nhưng các bài tập này không lập thành hệ thống theo chủ điểm như chương trình
học của HS.
Tác giả Nguyễn Trí (Chủ biên) với Tài liệu tham khảo dành cho GV và HS khi
dạy và học môn Tiếng Việt 2 mang tên Để dạy học tốt Tiếng Việt 2 (2004), cuốn tài
liệu được chia làm 2 phần: Phần 1 trình bày Những điểm cần lưu ý chung về dạy - học
môn Tiếng Việt 2, trong đó có phân môn Luyện từ và câu; Phần 2 trình bày Gợi ý làm

2


bài tập và các bài tập bổ trợ. Tài liệu này gợi ý cách giải những bài tập trong chương
trình học một cách rõ ràng, dễ hiểu và còn đưa thêm một hệ thống bài tập hỗ trợ cho
từng bài học để giáo viên có thể dùng trong giờ dạy.
Tác giả Hoàng Văn Thung, Hoàng Cao Cương, Trần Thị Minh Phương, Phạm
Thị Kim Oanh viết cuốn Bài tập bổ trợ và nâng cao Tiếng Việt Tiểu học, Quyển 2
(2011) nhằm chỉ dẫn cho HS lớp 2 củng cố các kiến thức và kĩ năng đọc - hiểu, về
chính tả, từ ngữ và ngữ pháp, tập làm văn. Ngoài ra còn cung cấp thêm một số bài tập,
trong đó có bài tập nâng cao để các em được luyện tập, thực hành tiếng Việt nhiều
hơn. Nội dung các bài tập bám sát chương trình SGK, phần giải đáp mang tính hướng
dẫn, tham khảo để tự học sinh đánh giá kết quả làm bài. Tuy nhiên, sách còn hạn chế
là bài tập mà sách cung cấp thêm cho tất cả các phân môn nên ở mỗi phân môn có số
lượng bài tập ít.

Tác giả Lê Hữu Tỉnh, Xuân Thị Nguyệt Hà thì xây dựng Phiếu bài tập cuối
tuần môn Tiếng Việt, Lớp 2 (2013). Trong cuốn sách này, tác giả xây dựng một hệ
thống bài tập trắc nghiệm cho 4 phân môn: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu và Tập
làm văn trong chương trình tiếng Việt 2. Hệ thống bài tập ứng với nội dung bài học
theo tuần. Nội dung các bài tập trắc nghiệm bám sát yêu cầu của từng bài học trong
sách Tiếng Việt 2. Hình thức trắc nghiệm phong phú giúp HS cuối tuần có thể củng
cố, vận dụng và khắc sâu kiến thức đã được học trong tuần. Mỗi tuần đều có những bài
tập cơ bản dành cho mọi đối tượng HS và những bài ôn tập nâng cao dành cho các em
HS khá, giỏi. Tuy nhiên, hệ thống bài tập trình chủ yếu là kiểu bài tập "Trắc nghiệm"
nên còn đơn điệu; hệ thống bài tập chưa được sắp xếp theo chủ điểm nên cũng chưa
thật thuận tiện cho người sử dụng.
Tuy nhiên, chưa thấy một công trình nghiên cứu nào xây dựng hệ thống bài tập
nâng cao mở rộng vốn từ theo chủ điểm dưới nhiều kiểu dạng cho học sinh lớp 2. Tuy
nhiên các công trình trên đều giúp cho người viết có hướng tiếp cận hợp lí khi nghiên
cứu đề tài để thực hiện luận văn của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của các công trình nghiên cứu liên quan
đến đề tài và thực tế dạy - học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2, người viết luận văn
thực hiện đề tài nhằm đa dạng hóa các bài tập, giúp HS có thêm kiến thức về từ và
cách dùng từ trong hoạt động nói – viết hàng ngày.

3


4. Đối tượng, phạm vi
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề dạy Luyện từ và câu cho HS lớp 2
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chương trình phân môn Luyện từ và câu trong sách Tiếng Việt 2 bao gồm 15
chủ điểm: Em là học sinh, Bạn bè, Trường học, Thầy cô, Ông bà, Cha mẹ, Anh em,

Bạn trong nhà, Bốn mùa, Chim chóc, Muông thú, Sông biển, Cây cối, Bác Hồ, Nhân
dân.
Luận văn đã tích hợp các chủ điểm trên lại sau đó tiến hành xây dựng hệ thống
bài tập nâng cao mở rộng vốn từ theo 6 chủ điểm lớn, đó là:
- Chủ điểm 1: Em là học sinh, Bạn bè, Trường học, Thầy cô
- Chủ điểm 2: Ông bà, Cha mẹ, Anh em, Bạn trong nhà
- Chủ điểm 3: Bốn mùa, Chim chóc, Muông thú
- Chủ điểm 4: Sông biển
- Chủ điểm 5: Cây cối
- Chủ điểm 6: Bác Hồ, Nhân dân
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:
- Phương pháp thống kê - phân loại: Phương pháp này được dùng để phân loại các
dạng bài tập.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này được dùng để phân tích, tổng
hợp kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trước.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu,
đối chiếu chương trình phân môn Tiếng Việt trong sách Tiếng Việt 2 mới và chương
trình Tiếng Việt trong sách Tiếng Việt 2 cũ.
6. Đóng góp đề tài
Xây dựng được một hệ thống bài tập nâng cao mở rộng vốn từ theo chủ điểm
cho lớp 2 phù hợp với nội dung chương trình giảng dạy, phù hợp với đặc trưng về tính
hệ thống của từ vựng, phù hợp với qui luật tích luỹ vốn từ.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Nội dung luận văn gồm 3 chương:

4



- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy mở rộng vốn từ cho HS lớp 2
- Chương 2: Hệ thống bài tập nâng cao mở rộng vốn từ theo chủ điểm cho HS lớp 2
- Chương 3: Xây dựng kế hoạch bài dạy mở rộng vốn từ nâng cao theo chủ điểm cho
HS lớp 2

5


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY
MỞ RỘNG VỐN TỪ CHO HỌC SINH LỚP 2
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học
1.1.1.1. Đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học
Cấp tiểu học có 5 lớp từ lớp 1 đến lớp 5 dành cho trẻ em từ 6 đến 11 tuổi (đối
với một số trẻ em không có điều kiện bình thường để đi học đúng tuổi có thể học
muộn hơn 1 - 2 năm, nghĩa là học sinh tiểu học có thể có trẻ em ở tuổi 13 - 14).
Nhìn tổng thể, học sinh tiểu học có ba đặc trưng sau:
- Là thực thể hồn nhiên tiềm tàng khả năng phát triển (khả năng hiện thực và khả năng
tiềm ẩn). Là thực thể hồn nhiên nên trẻ em ngây thơ, trong sáng. Bản tính luôn được
thể hiện ra bên ngoài không hề che giấu, không hề “đóng kịch”.
Trong những hoàn cảnh nhất định, do tác động không đúng từ bên ngoài, từ
phía người lớn nên nhiều trẻ em đã tập nhiễm tật xấu mà ta vẫn thường gặp. Trong mỗi
trẻ em tiềm tàng khả năng phát triển, khả năng tiềm tàng đó vẫn còn là một ẩn số. Tuy
nhiên không vì vậy mà nhà trường đem đến cho trẻ em chương trình học quá tải,
không phù hợp đặc điểm tâm sinh lí của các em. Trẻ em thuộc các thời đại đều không
giống nhau, song chúng vẫn luôn luôn là trẻ em.
- Là nhân cách đang hình thành. Trẻ em ở lứa tuổi học sinh tiểu học là thực thể đang
lớn lên, đang hoàn thiện về cơ thể (sinh lí) và đang phát triển tâm hồn (tâm lí).
- Có hoạt động học là hoạt động chủ đạo. Trẻ em ở lứa tuổi học sinh tiểu học thực hiện
bước chuyển từ hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo sang hoạt động học tập là

hoạt động chủ đạo. Hoạt động học tập có vai trò và ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát
triển tâm lí của học sinh tiểu học.
- Học sinh tiểu học là phạm trù tương lai. Đối với học sinh tiểu học thì tất cả còn ở
phía trước, các em sống luôn hướng tới ngày mai, hướng tới tương lai chứ chưa bị níu
kéo bởi quá khứ, các em dễ thích nghi, dễ tiếp nhận cái mới.
Học sinh tiểu học có thể phân ra theo hai cấp độ phát triển:
- Cấp độ I (cấp độ thứ nhất): gồm các lớp 1, lớp 2 và lớp 3, trong cấp độ này thì lớp 1
là lớp đặc biệt, được nhiều người cho là “Cửa ải lớp 1”, hay như câu nói trong dân
gian “Vạn sự khởi đầu nan”. Lớp 1 là đầu vào bậc Tiểu học.

6


- Cấp độ II (cấp độ thứ hai): gồm lớp 4 và lớp 5. Lớp 5 được coi là đầu ra của cấp Tiểu
học.
a. Đặc điểm của quá trình nhận thức
- Tri giác
Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và nặng về
tính không chủ định, do đó mà các em phân biệt các đối tượng còn chưa chính xác, dễ
mắc sai lầm và có khi còn lẫn lộn.
Học sinh các lớp đầu cấp Tiểu học tri giác còn yếu nên thường thâu tóm sự vật về toàn
bộ, về đại thể để tri giác. Khi tri giác thường gắn với hành động, với hoạt động thực
tiễn của bản thân. Đối với trẻ, tri giác sự vật có nghĩa là phải làm cái gì đó với sự vật,
như cầm, nắm, sờ, mó vào sự vật ấy. Những gì phù hợp với nhu cầu của các em,
những gì các em thường gặp trong cuộc sống và gắn với hoạt động của bản thân,
những gì được giáo viên chỉ dẫn thì mới được các em tri giác, “trăm nghe không bằng
một thấy, trăm lần thấy không bằng một lần tự làm”.
Khi học sinh tri giác thì cảm xúc của các em thể hiện rất rõ. Điều mà học sinh tiểu học
tri giác đầu tiên từ sự vật là những dấu hiệu, những đặc điểm nào trực tiếp gây cho các
em xúc cảm. Vì thế cái trực quan, cái rực rỡ, cái sinh động được các em tri giác tốt

hơn, dễ gây ấn tượng tích cực đối với các em.
Tri giác về thời gian và không gian cũng như ước lượng về thời gian và không gian
của học sinh tiểu học còn hạn chế.
Tri giác của học sinh tiểu học không tự nó phát triển. Trong quá trình học tập,
khi tri giác trở thành hoạt động có mục đích đặc biệt, khi trở nên phức tạp và sâu sắc,
trở thành hoạt động có phân tích, có phân hóa hơn thì tri giác sẽ mang tính chất của sự
quan sát có tổ chức.
- Chú ý
Chú ý có chủ định của học sinh tiểu học còn yếu, khả năng điều chỉnh chú ý
một cách có ý chí chưa mạnh. Học sinh nhỏ đầu bậc Tiểu học thường chỉ chú ý khi có
động cơ gần, đến cuối bậc Tiểu học thì các em đã có thể duy trì chú ý có chủ định
ngay khi chỉ có động cơ xa.
Chú ý không chủ định của học sinh tiểu học phát triển nhờ những thứ mang tính mới
mẻ, bất ngờ, rực rỡ, khác thường dễ lôi cuốn sự chú ý của các em, không có sự nỗ lực

7


của ý chí. Sự chú ý không chủ định càng trở nên mạnh mẽ khi giáo viên sử dụng đồ
dùng dạy học đẹp, mới lạ gợi cho các em cảm xúc tích cực.
Do quá trình ức chế ở bộ não của học sinh nhỏ (lớp một, lớp hai) còn yếu nên sự tập
trung chú ý của các em còn yếu, thiếu bền vững, chú ý của các em còn bị phân tán.
Học sinh tiểu học thường chỉ tập trung chú ý liên tục trong khoảng từ 30 - 35 phút. Sự
chú ý của các em còn phụ thuộc vào nhịp độ học: nhịp độ học tập quá nhanh hoặc quá
chậm đều không thuận lợi cho tính bền vững và sự tập trung chú ý.
Học sinh tiểu học có khả năng phát triển chú ý có chủ định trong quá trình học
tập. Chính quá trình học tập đòi hỏi học sinh phải rèn luyện thường xuyên chú ý có
chủ định, rèn luyện ý chí. Chú ý có chủ định phát triển cùng với sự phát triển động cơ
học tập, cùng với sự trưởng thành về ý thức trách nhiệm đối với việc học.
- Trí nhớ

Học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan - hình tượng phát triển chiếm ưu thế hơn
trí nhớ từ ngữ - lôgíc, vì ở lứa tuổi này hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất ở các
em tương đối chiếm ưu thế. Các em nhớ và giữ gìn chính xác những sự vật, hiện tượng
cụ thể nhanh hơn và tốt hơn những định nghĩa, những câu giải thích bằng lời. Học sinh
nhỏ ở lớp một và lớp hai có khuynh hướng ghi nhớ máy móc bằng cách lặp đi lặp lại
nhiều lần, có khi chưa hiểu những mối liên hệ, chưa hiểu ý nghĩa của tài liệu học tập
cần ghi nhớ. Các em thường học thuộc lòng tài liệu theo từng câu, từng chữ mà không
sắp xếp lại, sửa đổi lại, diễn đạt lại bằng lời lẽ của mình.
Hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định do tích cực học tập của học sinh quy
định. Điều này còn phụ thuộc vào kĩ năng nhận biết và phân biệt các nhiệm vụ ghi
nhớ. Hiểu mục đích của ghi nhớ và tạo ra được tâm thế thích hợp là điều rất quan trọng
để học sinh ghi nhớ tài liệu học tập.
- Tưởng tượng
Tưởng tượng là một trong những quá trình nhận thức quan trọng của học sinh
tiểu học. Nếu tưởng tượng của học sinh phát triển yếu, không đầy đủ thì sẽ gặp khó
khăn trong hành động, trong học tập.
Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển và phong phú hơn so với trẻ em tuổi
mẫu giáo. Nó được hình thành và phát triển trong hoạt động học và các hoạt động khác
của các em. Tuy nhiên tưởng tượng của học sinh tiểu học còn tản mạn, ít có tổ chức,
hình thành của tưởng tượng còn đơn giản, hay thay đổi, chưa bền vững.

8


Càng về những năm cuối bậc Tiểu học, tưởng tượng của học sinh càng gần hiện
thực hơn. Về mặt cấu tạo hình tượng, tưởng tượng của học sinh tiểu học chỉ lặp lại
hoặc thay đổi chút ít về kích thước, về hình dạng những tưởng tượng đã tri giác được.
Các em đã biết dựa vào ngôn ngữ để xây dựng hình tượng mang tính khái quát và trừu
tượng hơn.
- Tư duy

Tuy duy của trẻ em mới đến trường là tư duy cụ thể, dựa vào những đặc điểm
trực quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể. Trong tư duy của học sinh đầu bậc Tiểu
học tính trực quan thể hiện rất rõ.
Đối với học sinh tiểu học, kĩ năng phân biệt các dấu hiệu bản chất và tách các dấu hiệu
đó ra khỏi các sự vật và hiện tượng mà chúng ẩn tàng trong đó là phẩm chất tư duy
không dễ có ngay được. Vì đối với học sinh tiểu học, tri giác phát triển sớm hơn và tri
giác trước hết là nhận biết những dấu hiệu bên ngoài, mà những dấu hiệu này chưa
chắc đã là bản chất của sự vật và hiện tượng đang được các em xem xét. Đó là nguyên
nhân của những khó khăn, những khiếm khuyết của học sinh tiểu học trong quá trình
lĩnh hội khái niệm.
Hoạt động phân tích - tổng hợp của học sinh tiểu học còn sơ đẳng, học sinh các
lớp đầu bậc Tiểu học chủ yếu tiến hành phân tích - trực quan - hành động khi tri giác
trực tiếp đối tượng. Đến cuối bậc học các em có thể phân tích đối tượng mà không cần
tới những hành động trực tiếp đối với đối tượng, các em đã có khả năng phân biệt dấu
hiệu, những phía cạnh khác nhau của đối tượng dưới dạng ngôn ngữ. Việc học tiếng
Việt và số học có tác dụng tích cực hình thành và phát triển thao tác phân tích và tổng
hợp cho học sinh tiểu học.
Các em thường gặp một số khó khăn nhất định khi cần phải xác định mối quan
hệ nhân quả như lẫn lộn nguyên nhân và kết quả, hiểu mối quan hệ chưa thấu đáo.
b. Đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học
- Tính cách
Tính cách thường được hình thành rất sớm từ giai đoạn trước tuổi học, mỗi trẻ
em một tính cách, nhưng chưa ổn định nên có thể thay đổi dưới dạng tác động giáo
dục của gia đình, nhà trường, xã hội.
Những ảnh hưởng của hoạt động thần kinh cấp cao biểu lộ khá rõ trong hành vi của
học sinh tiểu học như: tính nhút nhát, tính cô độc có thể là sự biểu hiện trực tiếp của

9



thần kình yếu; tính nóng nẫy, không bình tĩnh có thể là sự biểu hiện của quá trình ức
chế thần kinh yếu.
Ở lứa tuổi này dễ nhận ra tính xung động trong hành vi của các em. Do vậy mà hành vi
của học sinh tiểu học dễ có tính tự phát, dễ vi phạm nội quy và thường bị xem là “vô kỉ
luật”. Nguyên nhân của hiện tượng này là sự điều chỉnh của ý chí đối với hành vi của
trẻ em lứa tuổi tiểu học còn yếu, các em chưa biết đề ra mục đích hoạt động và theo
đuổi mục đích đó đến cùng.
Tính cách của học sinh tiểu học có nhược điểm thường bất thường, bướng bỉnh.
Học sinh tiểu học thường có nhiều nét tính cách tốt như tính hồn nhiên, ham hiểu biết,
lòng thương người, lòng vị tha.
Niềm tin của học sinh tiểu học còn cảm tính, chưa có lí trí soi sáng dẫn dắt nên mọi
điều đưa đến cho các em cần phải đúng, phải chính xác, vì nếu không thì khi trẻ đã có
niềm tin vào điều gì đó, khi niềm tin được định hình, khắc sâu thì rất khó thay đổi dù
điều đó là sai trái.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tính bắt chước của các em vẫn còn đậm nét. Các
em bắt chước hành vi, cử chỉ của giáo viên, của những người được các em coi như
“thần tượng”.
Học sinh tiểu học thích hoạt động và thích làm việc gì đó phù hợp với mình,
nên có thể sớm hình thành ở các em thói quen đối với lao động phù hợp tâm sinh lí.
- Nhu cầu nhận thức
Nhu cầu nhận thức hình thành và phát triển ở trẻ em từ tuổi thơ. Trở thành học
sinh lớp một, nhu cầu nhận thức của trẻ em phát triển và thể hiện rõ nét, đặc biệt là
nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh, khát vọng hiểu biết mọi thứ có liên quan. Trước
hết là nhu cầu cần tìm hiểu những sự vật, hiện tượng riêng lẽ, tiếp đến, lên lớp trên, là
nhu cầu gắn liền với sự phát hiện nguyên nhân, tính qui luật các mối quan hệ và quan
hệ phụ thuộc giữa các hiện tượng.
Lúc đầu là nhu cầu có tính chất chung, sau đó là nhu cầu có tính chọn lọc theo nhu
cầu, sở thích của các em.
Nhu cầu nhận thức của học sinh tiểu học là nhu cầu tinh thần. Nhu cầu này có ý
nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của các em. Nếu không có nhu cầu nhận thức thì

học sinh cũng sẽ không có tính tích cực trí tuệ.
- Tình cảm

10


Xúc cảm, tình cảm của học sinh tiểu học thường nảy sinh từ các tác động của
những người xung quanh, từ các sự vật, hiện tượng cụ thể, sinh động. Nhìn chung, học
sinh tiểu học dễ bị kích thích bởi hệ thống tín hiệu thứ nhất (sự vật, hiện tượng với các
thuộc tính của nó) hơn là hệ thống tín hiệu thứ hai (tiếng nói, chữ viết).
Tình cảm của học sinh tiểu học được hình thành trong đời sống và trong quá
trình học tập của các em. Ở lứa tuổi này, tình cảm của các em có một số đặc trưng của
một giai đoạn phát triển tâm lí.
+ Học sinh tiểu học rất dễ xúc cảm, xúc động và khó kìm hãm xúc cảm của mình.
+ Tình cảm của học sinh tiểu học còn mỏng manh, chưa bền vững, chưa sâu sắc.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, nếu xúc cảm về một sự kiện, hiện tượng, nhân vật
nào đó được củng cố thường xuyên trong cuộc sống và thông qua các môn học, thông
qua các hoạt động thì sẽ hình thành được tình cảm sâu đậm, bền vững. [5, 201]
1.1.1.2. Đặc điểm sinh lý học sinh tiểu học
Sinh lí học trẻ em là một ngành của Sinh lí học người và động vật, có nhiệm vụ
nghiên cứu những quy luật hình thành và phát triển của các chức năng sinh lí của cơ
thể trẻ em. Trọng tâm là những vấn đề có ý nghĩa đối với hoạt động thực tiễn của
người giáo viên và nhà giáo dục. Sinh lí học trẻ em có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to
lớn và là một trong những thành tố cần thiết và quan trọng nhất của học vấn sư phạm.
a. Đặc điểm hoạt động thần kinh cao cấp ở học sinh tiểu học
Từ 6 tuổi trở đi, trẻ bắt đầu sử dụng các khái niệm được trừu xuất khỏi hành
động. Ở tuổi này, trẻ bắt đầu học viết và học đọc được.
Sang 7 tuổi, thùy trán của não bộ đã trưởng thành về hình thái, và trong thời kì
này xuất hiện khả năng duy trì chương trình hành động gồm một vài động tác và khả
năng dự kiến trước được kết quả của hành động.

Ở trẻ 7 - 9 tuổi, các phản xạ có điều kiện dương tính được hình thành nhanh
hơn. Ở một số trẻ những phản xạ đó trở thành bền vững ngay từ lúc xuất hiện. Phản xạ
với phức hợp các kích thích tác động nối tiếp được hình thành dễ dàng và ngay lập tức
với toàn bộ phức hợp. Thời gian tiềm tàng của phản xạ được rút ngắn rõ rệt so với tuổi
mẫu giáo.
Đặc điểm nổi bậc của lứa tuổi này là các phản xạ có điều kiện dương tính và âm tính
đều được củng cố nhanh chóng; các phản xạ đó có độ ổn định cao đối với những tác
động bên ngoài, các quá trình thần kinh được tập trung nhanh hơn.

11


Ở trẻ 10 - 12 tuổi, các phản xạ có điều kiện dương tính đối với những kích thích
đơn giản hay phức tạp đều xuất hiện nhanh, thường trở thành bền vững ngay lập tức.
Những cử động thừa và không phù hợp nào đó của phản ứng đều bị mất đi. Các phản
xạ có điều kiện có độ bền vững cao đối với các kích thích bên ngoài, bắt đầu dễ dàng
làm lại các phản xạ có điều kiện.
Ảnh hưởng cảm ứng khá mạnh và sự mất đi nhanh chóng của các hậu quả của các tác
nhân gây ức chế chứng tỏ các quá trình thần kinh có khả năng tập trung nhanh.[5, 30]
b. Đặc điểm phát triển các cơ quan phân tích ở học sinh tiểu học
Lúc 7 tuổi, thể tích các vùng vỏ não của các cơ quan phân tích vận động tổng
cộng gần bằng 80% so với thể tích ở người lớn. Sự tăng trưởng nhanh của cơ quan
phân tích vận động diễn ra lúc 7 và 12 tuổi. Sự phân hóa của vùng vỏ não của cơ quan
phân tích thị giác diễn ra đặc biệt nhanh vào lúc 7 - 12 tuổi.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các chức năng của các cơ quan phân tích đạt tới sự
hoàn diển rõ rệt. Lúc 10 tuổi, điểm nhìn thấy rõ gần nhất nằm ở khoảng cách 7cm từ
mắt, và thể tích điều tiết bằng 14 điôp. Mức độ mở rộng của đồng tử trong bóng tối đạt
tới độ lớn trung bình ở người lớn. Thành của ống tai được cốt hóa khi tới 10 tuổi và sự
phát triển của các cơ quan thính giác nói chung được kết thúc vào lúc 12 tuổi. Lúc 8 10 tuổi thì ngưỡng thời gian của thính giác là lớn nhất.
c. Đặc điểm phát triển hệ cơ - xương ở học sinh tiểu học

Từ 7 - 12 tuổi có sự phát triển đồng đều của hệ cơ - xương, nhịp độ tăng trưởng
bị chậm lại đôi chút, nhưng trọng lượng của nó lại tăng lên. Từ 8 - 10 tuổi có sự phát
triển mạnh của hệ cơ. Tới 8 tuổi, trọng lượng cơ đối với trọng lượng cơ thể là 27%.
Lực cơ của cả hai tay tăng lên 2 - 2,5 lần. Lực tay phải dần dần gần tới lực tay trái. Ở 8
tuổi, lực cơ của em gái nhỏ hơn so với em trai gần 5kg, và ở 10 - 12 tuổi là 10kg. Tính
không ổn định của hệ thần kinh - cơ đạt được tiêu chuẩn của người lớn vào lúc 8 - 10
tuổi. Ở lứa tuổi này thấy rõ tính linh hoạt cao, nhưng lại chóng mệt mỏi, vì các chức
năng của hệ thần kinh chưa đạt tới sự phát triển đầy đủ. Từ 7 - 8 tuổi, năng lực tiến
hành những động tác tinh vi, chính xác được hình thành. Các động tác đơn điệu và
những sự cố gắng tĩnh đều có ảnh hưởng không lợi đến tuần hoàn và hô hấp.
Mối quan hệ giữa tâm lí và sinh lí trong cơ thể
Sự phát triển tâm lí của trẻ em diễn ra trên cơ sở phát triển giải phẫu - sinh lí
của nó, đặc biệt là sự phát triển của hệ thần kinh và các giác quan. Người ta thường nói

12


“Một tâm hồn lành mạnh trong một cơ thể cường tráng” là vì vậy; ảnh hưởng của sự
phát triển cơ thể đến sự phát triển tâm lí của trẻ. Mặt khác, bản thân sự phát triển tâm lí
cũng lại có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển cơ thể của trẻ. Chẳng hạn, sự phát
triển của hoạt động ngôn ngữ đã làm phát triển cái tai âm vị của trẻ; những luyện tập
có động cơ, có mục đích có thể làm tăng tính nhạy cảm của các cơ quan phân tích,
hoặc phục hồi được các chức năng đã bị phá hủy của cơ thể. Trong mối quan hệ qua
lại giữa sự phát triển cơ thể và sự phát triển tâm lí của đứa trẻ thì sự phát triển cơ thể là
tiền đề cho sự phát triển tâm lí. [14, 10]
1.1.1.3. Kĩ năng sử dụng vốn từ của học sinh lớp 2 trong học tập Tiếng Việt và phân
môn Luyện từ và câu
Hầu hết HS tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất
hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 2 thì ngôn ngữ viết đã dần thành thạo và bắt đầu học
nhiều về ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả

năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự tìm tòi kiến thức thông qua
các kênh thông tin khác nhau. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình
nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà tri thức, tư duy, tưởng
tượng, ghi nhớ, chú ý...của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua
ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể
đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Trong học tập Tiếng Việt và phân môn Luyện từ và câu, do vốn từ của HS lớp 2
rất hạn chế nên kĩ năng sử dụng vốn từ của các em chưa thành thạo, các em còn lúng
túng rất nhiều trong việc lựa chọn từ ngữ cho phù hợp, sử dụng sai từ dẫn đến không
đạt hiệu quả giao tiếp và học tập cao, và thường thấy nhất là các em hiểu sai hay hiểu
chưa đầy đủ nghĩa của từ.
1.1.2. Lí thuyết về từ tiếng Việt
1.1.2.1. Khái niệm từ tiếng Việt
Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc
điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một
kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu.
Ta thấy được, từ của tiếng Việt có tính cố định và bất biến ở mọi vị trí, mọi quan hệ và
chức năng trong câu.
1.1.2.2. Các thành phần ý nghĩa của từ

13


Khi nói đến ý nghĩa của từ, ta hiểu đó là một tập hợp của những thành phần ý
nghĩa khác nhau, ứng với các chức năng khác nhau của từ. Trong ngôn ngữ học hiện
đại, người ta thường phân biệt bốn thành phần ý nghĩa của từ (ở đây phải tạm coi là từ
chỉ có một nghĩa) đó là:
- Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật.
- Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm.
- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái.

- Ý nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp.
Bốn thành phần ý nghĩa này được quy thành hai phạm trù ý nghĩa: ý nghĩa từ
vựng và ý nghĩa ngữ pháp.
Những ý nhĩa này đều có tính ổn định, bền vững tương đối. Không chỉ có quan hệ giữa
từ với những yếu tố ngoài ngôn ngữ, chúng còn có quan hệ về ý nghĩa giữa từ này với
từ khác trong ngôn ngữ quy định nên.
Ý nghĩa từ vựng của từ bao gồm các thành phần ý nghĩa sau đây: ý nghĩa biểu
vật; ý nghĩa biểu niệm và ý nghĩa biểu thái.
Ý nghĩa ngữ pháp của từ cũng bao gồm những thành phần ý nghĩa nhỏ hơn là: ý
nghĩa từ pháp; ý nghĩa từ loại và ý nghĩa quan hệ.
Lưu ý rằng, không phải tất cả các từ của ngôn ngữ đều có đầy đủ các thành phần ý
nghĩa như nói ở trên.
Ý nghĩa biểu vật là những sự vật, quá trình, tính chất hoặc trạng thái mà từ biểu
thị được gọi là ý nghĩa biểu vật của từ. Hay nói cách khác, ý nghĩa biểu vật của từ là
các ánh xạ của các sự vật, thuộc tính ngoài ngôn ngữ vào ngôn ngữ.
Ý nghĩa biểu niện của từ là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng, khái
quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa có những
quan hệ nhất định. Tập hợp này ứng với một số ý nghĩa biểu vật của từ. [4, 118]
Ý nghĩa biểu thái bao gồm những nhân tố đánh giá, nhân tố cảm xúc hay nhân
tố thái độ mà từ gợi ra cho người nói hay người nghe.
Ý nghĩa ngữ pháp là những thông tin đã được mã hóa trong từ mà dựa vào đó ta
có thể tạo lập hoặc nhận biết các mối quan hệ giữa các từ.
1.1.2.3. Khái niệm về trường nghĩa
Tính hệ thống về ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữ các từ
riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữ những tiểu hệ thống ngữ nghĩa của chúng. Mỗi tiểu

14


hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Mỗi trường nghĩa là một tiểu hệ

thống nằm trong hệ thống là từ vựng của một ngôn ngữ.
Có thể chia hệ thống từ vựng thành các trường nghĩa theo từng tiêu chí.
Trường nghĩa biểu vật: Trường nghĩa biểu vật là tập hợp những từ cùng biểu thị
một phạm vi sự vật, hiện tượng thực tế khách quan. [4, 172]
Cơ sở để xác lập trường nghĩa biểu vật là sự đồng nhất nào đó trong ý nghĩa biểu vật
của các từ.
Trường nghĩa biểu niệm: Trường nghĩa biểu niệm là một tập hợp các từ có
chung một cấu trúc biểu niệm. [4, 178]
Căn cứ để phân lập các trường nghĩa biểu niệm là các ý nghĩa biểu niệm của từ. Cấu
trúc biểu niệm không chỉ riêng cho từng từ mà chung cho nhiều từ.
Trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm đều thuộc loại trường nghĩa dọc.
Trường nghĩa tuyến tính (trường nghĩa ngang). Để lập nên các trường nghĩa
tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc rồi tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó
thành những chuổi tuyến tính chấp nhận được trong ngôn ngữ.
Trường liên tưởng là tập hợp bao gồm những từ cùng nằm trong trường biểu
vật, trường biểu niệm và truyền tuyến tính, tức là có những từ có quan hệ cấu trúc
đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa tới từ trung tâm.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Một số vấn đề lý thuyết về phương pháp dạy - học tiếng Việt ở tiểu học
1.2.1.1. Khái niệm phương pháp dạy - học
Theo lời khẳng định của GS.TS Lê A thì : Trong khoa học giáo dục và lí luận
dạy học bộ môn chưa có một cách định nghĩa và cách giải thích hoàn toàn thống nhất
về thuật ngữ phương pháp dạy học. [1, 15]
Có thể dẫn ra một vài định nghĩa phương pháp dạy học trong nhiều quan niệm
về phương pháp dạy học như:
“Phương pháp dạy học là cách thiết kế trình bày tài liệu ngôn ngữ cũng như
phương thức tổ chức các hoạt động học tập, sử dụng ngôn ngữ của học sinh nhằm thực
hiện những mục tiêu dạy học đã định”. [19, 224]
Phương pháp dạy học là tổ chức các cách thức hoạt động của giáo viên và của
học sinh trong quá trình dạy học, được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên sự


15


hoạt động nhận thức tích cực, tự giác của học sinh, nhằm thực hiện tốt những nhiệm
vụ dạy học theo hướng mục tiêu. [2, 69]
Phương pháp dạy học tiếng Việt là cách thức làm việc của thầy giáo và học sinh
nhằm làm cho học sinh nắm vững kiến thức và kĩ năng Tiếng Việt. [10, 81]
Từ đó có thể thấy rằng, các định nghĩa trên tuy có những điểm khác nhau nhưng
đều thống nhất ở một điểm: Phương pháp dạy học là cách thức làm việc giữa thầy và
trò, với vai trò chủ đạo của thầy và hoạt động tích cực, tự giác của trò nhằm hướng vào
việc đạt mục đích nào đó.
1.2.1.2. Các phương pháp dạy học thường được sử dụng và các hình thức thể hiện của
phương pháp
a. Những phương pháp dạy học thường được sử dụng
Có nhiều phương pháp dạy học thường được sử dụng nhưng có thể phân loại
thành 3 nhóm chính, theo 3 tiêu chí sau:
- Những phương pháp dạy học được phân loại theo các chức năng điều hành quá trình
dạy học, gồm: Phương pháp vào bài, Phương pháp dạy học bài mới, Phương pháp
củng cố bài học, Phương pháp hướng dẫn học sinh học bài ở nhà…
- Những phương pháp dạy học được phân loại theo con đường nhận thức và hoạt động
tư duy, gồm: Phương pháp diễn dịch - qui nạp, Phương pháp so sánh, Phương pháp
phân tích - tổng hợp.
- Những phương pháp dạy học được phân loại theo phương thức đặc thù tiếp nhận các
nội dung tri thức, gồm: Phương pháp thống báo - giải thích, Phương pháp tái hiện,
Phương pháp rèn luyện theo mẫu,…
b. Các hình thức thể hiện của phương pháp
Phương pháp phải thể hiện qua các hình thức của nó. Một hình thức có thể được
dùng cho nhiều phương pháp khác nhau. Một số hình thức thể hiện của phương pháp
thường gặp trong quá trình dạy - học, là: Hình thức diễn giảng, hình thức đàm thoại,

hình thức đọc sách giáo khoa và hình thức làm bài tập.
1.2.1.3. Một số phương pháp dạy - học tiếng Việt ở tiểu học
- Phương pháp rèn luyện theo mẫu: là phương pháp mà thầy giáo chọn giới thiệu các
hoạt động ngôn ngữ rồi hướng dẫn học sinh phân tích để hiểu và nắm vững cơ chế của
chúng rồi bắt chước mẫu đó một cách sáng tạo vào lời nói của mình.

16


Phương pháp dạy học này thường được dùng để hướng dẫn học sinh làm các bài tập về
rèn luyện kỹ năng mở rộng vốn từ và cấu tạo câu.
- Phương pháp sử dụng trò chơi: Ngoài mục đích vui chơi, phương pháp này còn rèn
luyện về thể lực, các giác quan, trí tuệ, tạo cơ hội giao lưu với mọi người.
- Phương pháp thực hành: hình thức thực hiện là ra bài tập và làm bài tập. Phương
pháp thực hành giúp học sinh nắm vững khái niệm, hiểu sâu sắc khái niệm.
Ngoài ra còn có một vài phương pháp chỉ có trong dạy tiếng Việt và thường được sử
dùng phổ biến trong nhiều phân môn Tiếng Việt ở tiểu học:
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ: là phương pháp được sử dụng một cách có hệ
thống trong việc xem xét tất cả các mặt của ngôn ngữ: ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, cấu
tạo từ, chính tả, phong cách với mục đích làm rõ cấu trúc các kiểu đơn vị ngôn ngữ,
hình thức và cách thức cấu tạo, ý nghĩa của chúng trong nói năng. Các dạng phân tích
ngôn ngữ : quan sát ngôn ngữ, phân tích ngữ âm, phân tích ngữ pháp, phân tích chính
tả, phân tích tập viết, phân tích ngôn ngữ các tác phẩm văn chương...
- Phương pháp giao tiếp (thực hành giao tiếp): là phương pháp dạy tiếng dựa vào lời
nói, vào những thông báo sinh động, vào việc tổ chức quá trình giao tiếp bằng ngôn
ngữ một cách có hiệu quả trong những tình huống nói năng điển hình và những tình
huống nói năng cụ thể. Phương pháp này gắn liền với phương pháp luyện theo mẫu.
- Phương pháp luyện theo mẫu: là phương pháp mà học sinh tạo ra các đơn vị ngôn
ngữ, lời nói bằng mô phỏng lời thầy giáo, sách giáo khoa…
Các phương pháp thường được sử dụng phối hợp chặt chẽ, không có phương

pháp vạn năng. Điều quan trọng là phải nắm vững các điều kiện cụ thể của dạy học để
lựa chọn phương pháp cho phù hợp. Các yếu tố liên quan trực tiếp tới lựa chọn phương
pháp là nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học, khả năng của học sinh, trình độ giáo
viên, điều kiện vật chất của trường lớp và các phương tiện dạy học.
Có nhiều quan niệm về phương pháp dạy học cũng như có nhiều phương pháp
dạy học khác nhau. Chúng ta có thể sử dụng nhiều phương pháp dạy - học để dạy - học
tiếng Việt, trong đó có những phương pháp đặc thù dành cho môn Tiếng Việt.
1.2.2. Mục tiêu của việc dạy từ ngữ cho học sinh
1.2.2.1. Hình thành và rèn luyện năng lực từ ngữ cho học sinh - mục tiêu quan trọng
nhất của dạy - học từ ngữ
a. Năng lực từ ngữ

17


Năng lực là một tổ hợp các kỹ năng cho phép nhận biết và giải quyết một tình
huống với khái niệm của tâm lí học.
Năng lực ngôn ngữ là vốn ngôn ngữ và khả năng sử dụng vốn ngôn ngữ đó
trong thực tế giao tiếp.
Năng lực từ ngữ là một bộ phận của năng lực ngôn ngữ, gồm vốn từ và kỹ năng
sử dụng vốn từ ấy để tạo lập và lĩnh hội ngôn bản.
Để có năng lực ngôn ngữ và năng lực từ ngữ, ta phải có một vốn từ nhất định cũng như
nắm được nghĩa và có kỹ năng sử dụng chúng.
b. Vốn từ của học sinh hiểu học
Vốn từ của học sinh tiểu học hình thành theo con đường tự nhiên, vô thức lệ
thuộc nhiều vào môi trường sống. Theo một số nghiên cứu, nếu một học sinh được
sống trong môi trường phong phú thì số lượng từ của các em sẽ nhiều hơn khoảng 1, 2
lần số lượng từ của một học sinh sống trong môi trường bình thường.
Bên cạnh đó, địa bàn cư trú cũng ảnh hưởng tới việc hình thành vốn từ ngữ của các
em. Học sinh ở những địa bàn khác nhau thì vốn từ cũng sẽ khác nhau, ví dụ như vốn

từ của một học sinh ở địa bàn nông thôn cũng sẽ khác với vốn từ một học sinh thành
thị, giữ miền xuôi và miền núi,…
Từ đó cho thấy, có nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến việc tích lũy vốn từ của học
sinh như môi trường sống, địa bàn cư trú,…ngoài ra còn có những đặc trưng tâm lí, lứa
tuổi, sinh lí cũng làm ảnh hưởng.
Nhìn chung, vốn từ của học sinh tiểu học là một vấn đề phức tạp “do vốn từ của
học sinh tiểu học chủ yếu hình thành qua cách học tự nhiên, vô thức, dựa vào ngữ
cảnh, vào tình huống giao tiếp để phỏng đoán nghĩa của từ… cho nên trong vốn từ
này, có một số từ không được hiểu đúng về âm thanh - chữ viết, học sinh hiểu sai hoặc
chưa đầy đủ về nghĩa, sử dụng từ không đúng hoặc chưa thích hợp.
Phương pháp mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học:
Theo Lê Hữu Tỉnh, dạy mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học phải dựa vào quy
luật nhận thức của con người nói chung, trẻ em nói riêng. Đồng thời cũng dựa vào qui
luật liên tưởng của con người, cụ thể dựa trên quan hệ liên tưởng giữa các từ trong đầu
óc con người.
Khi mở rộng vốn từ cho học sinh, cần chú ý qui luật trên để cung cấp những từ
ngữ cần thiết cho các em. Cung cấp từ trái nghĩa, từ cùng nghĩa hoặc gần nghĩa, những

18


từ có quan hệ ngữ nghĩa với nhau. Chúng ta còn có thể hướng dẫn học sinh mở rộng
vốn từ dựa vào việc cung cấp những từ ghép hay từ láy cùng gốc,…
c. Rèn luyện kỹ năng sử dụng vốn từ cho học sinh là nhiệm vụ tiếp theo của việc dạy từ
ngữ
Để học sinh biết cách sử dụng vốn từ, ta phải dạy học sinh nắm chắc nghĩa của
từ. Có nhiều cách giải nghĩa từ như: giải nghĩa từ bằng cách chỉ ra nét nghĩa của từ đã
được liệt kê trong từ điển, giải nghĩa từ bằng cách dẫn ra những từ đồng nghĩa, trái
nghĩa với chúng,…Nhưng khi tổ chức dạy học nắm nghĩa từ, cần lựa chọn từ để giải
nghĩa dựa trên nguyên tắc tính vừa sức, tính cần thiết, và phải là những từ trung tâm

của chủ đề.
Sau khi các em nắm được nghĩa của từ, tiếp theo ta phải dạy học sinh cách sử
dụng vốn từ đã có để học sinh có thể từ đó mà rèn luyện năng lực từ ngữ của mình.
Phương pháp thông dụng và phù hợp nhất để rèn luyện kỹ năng sử dụng từ cho học
sinh là yêu cầu và hướng dẫn học sinh làm bài tập. Gồm các dạng bài tập thường gặp
là: Điền từ vào chỗ trống, đặt câu (hoặc tạo cụm từ) với từ cho trước, viết đoạn văn với
một từ cho sẵn, chữa lỗi dùng từ,…
1.2.3. Chương trình phân môn Luyện từ và câu trong sách Tiếng Việt 2
1.2.3.1. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học
Làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ đặt câu cho các
em.
- Dạy nghĩa từ: Làm cho học sinh nắm vững nghĩa từ bao gồm việc thêm vào vốn từ
của học sinh những từ mới và những nghĩa mới của từ đã biết, làm cho các em nắm
được tính nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ.
- Hệ thống hóa vốn từ: Dạy học sinh biết cách sắp xếp các từ một cách có hệ thống
trong trí nhớ để tích lũy từ được nhanh chóng và tạo ra tính thường trực của từ, tạo
điều kiện cho các từ đi vào hoạt động lời nói được thuận lợi.
- Tích cực hóa tốn từ: Dạy cho học sinh sử dụng từ, phát triển kĩ năng sử dụng từ trong
lời nói và lời viết của mình, đưa từ vào trong vốn từ tích cực được học sinh dùng
thường xuyên.
- Dạy học sinh biết cách đặt câu, sử dụng các kiểu câu đúng mẫu phù hợp với hoàn
cảnh, mục đích giao tiếp.

19


Cung cấp cho học sinh một số kiến thức về từ và câu cơ bản, sơ giản, cần thiết
và vừa sức với các em. Trang bị cho học sinh những hiểu biết về cấu trúc của từ, câu,
quy luật hành chức của chúng.
Ngoài ra, Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ rèn luyện tư duy và giáo dục thẩm

mĩ cho học sinh.
1.2.3.2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2
Môn Tiếng Việt 2 gồm 6 phân môn: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập
viết, Kể chuyện, Tập làm văn. Phân môn Luyện từ và câu được dạy mỗi tuần 1 tiết.
a. Về vốn từ
Ngoài các từ ngữ được dạy qua các bài tập đọc, chính tả, tập viết,...học sinh
được cung cấp vốn từ một cách có hệ thống trong các bài từ ngữ theo chủ đề.
Học sinh học thêm khoảng 300 - 350 từ ngữ theo các chủ đề: học tập; ngày, tháng,
năm; đồ dùng học tập; các môn học; họ hàng; đồ dùng và công việc trong nhà; tình
cảm, công việc gia đình; tình cảm gia đình; vật nuôi; các mùa, thời tiết, chim chóc, các
loài chim; muông thú, loài thú; sông biển; cây cối; Bác Hồ; nghề nghiệp.
Ngoài ra còn có các chủ đề mở rộng vốn từ theo ý khái quát của từ ở các bài
học như: Từ chỉ sự vật, Từ chỉ hoạt động, Từ chỉ hoạt động, trạng thái, Từ chỉ đặc
điểm, Từ chỉ tính chất và có một bài về lớp từ: Từ trái nghĩa.
b. Các mảng kiến thức và kĩ năng về từ và câu
- Từ và câu.
- Các lớp từ: Từ trái nghĩa.
- Từ loại: Từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, trạng thái, từ chỉ đặt điểm, tính chất.
- Các kiểu câu: Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào? Khẳng định, phủ định.
- Cấu tạo câu: Đặt, trả lời câu hỏi “Khi nào?”; Đặt, trả lời câu hỏi “Ở đâu?”; Đặt, trả
lời câu hỏi “Như thế nào?”; Đặt, trả lời câu hỏi “Vì sao?”; Đặt trả lời câu hỏi “Để làm
gì?”.
- Dấu câu: Dấu chấm hỏi, dấu phẩy, dấu chấm than, dấu chấm.
- Ngữ âm - chính tả: Tên riêng và cách viết tên riêng.
1.2.3.3. Chuẩn kiến thức và kĩ năng Tiếng Việt ở Tiểu học và lớp 2
Chuẩn kiến thức, kĩ năng là các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng
của môn học, hoạt động giáo dục mà học sinh cần phải và có thể đạt được. Chuẩn kiến
thức, kĩ năng được cụ thể hóa ở các chủ đề của môn học theo từng lớp, ở các lĩnh vực

20



×