A. MỞ ĐẦU
Hợp đồng dân sự là một sự khái quát một cách toàn diện các hình
thức giao lưu dân sự phong phú của con người, là một trong những phương
thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp
đồng dân sự là việc thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên
hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật (chỉ được pháp luật công nhận và bảo
vệ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên được tự
do thỏa thuận để thiết lập hợp đồng, nhưng sự “tự do” ấy phải được đặt
trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự
công cộng. Hợp đồng dân sự sẽ vô hiệu nếu không hội tụ đủ các điều kiện về
hình thức và nội dung do pháp luật quy định, một hợp đồng dân sự vô hiệu
thì không thể phát sinh hiệu lực. Đây là một vấn đề tưởng chừng như đơn
giản, song trên thực tế lại rất phức tạp. Để tìm hiểu sâu hơn những quy định
của pháp luật vấn đề này, em xin chọn đề tài “Đánh giá quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2005 về hợp đồng dân sự vô hiệu.”
1
B. NỘI DUNG
I. Hợp đồng dân sự vô hiệu.
1. Khái niệm hợp đồng.
Điều 388 BLDS 2005 quy định khái niệm hợp đồng dân sự khái quát,
ngắn gọn như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Đặc điểm của hợp đồng dân sự:
-
Là một sự kiện pháp lý làm phát sinh hậu quả pháp lý là: phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền nghĩa vụ dân sự của các chủ thể tham
gia
- Mang tính ý chí, là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các bên tham
gia hợp đồng. ý chí này phù hợp với ý chí của nhà nước.
- Mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong
muốn đạt được khi giao kết hợp đồng.
Thứ nhất, hợp đồng dân sự là một hành vi pháp lí, là sự thể hiện ý chí của
con người làm phát sinh các hệ quả pháp lí. Hợp đồng là một loại hành vi
pháp lí cơ bản và thông dụng nhất. Hợp đồng là một hành vi pháp lí, hơn thế
nữa đó là một hành vi pháp lí đặc biệt: sự thỏa thuận giữa các đương sự. Các
bên trong hợp đồng ít nhất phải có ý chí tạo lập giữa họ một quan hệ pháp lí
trong đó một người phải thi hành một đòi hỏi cho người khác. Như vậy, hợp
đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng chỉ xác định là sự thỏa
thuận khi cam kết các bên thực sự phù hợp với mong muốn của họ. Nguyên
tắc này tồn tại trong pháp luật hợp đồng của các nước. Hợp đồng được xác
lập do bị đe dọa, lừa dối, nhầm lẫn… là không phù hợp với ý muốn của các
bên. Một hợp đồng muốn tồn tại hợp pháp (được pháp luật công nhận, bảo
vệ) và phát sinh hiệu lực cần phải hội tụ ba yếu tố đó là: sự thỏa thuận giữa
2
các bên cam kết, năng lực của các bên cam kết và đối tượng xác thực cho sự
cam kết.
2. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu.
Hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh hậu quả pháp lý mà
các bên mong muốn. Đây là nguyên tắc chung mà pháp luật các nước đều
ghi nhận. Ở Việt Nam để xác định hợp đồng dân sự vô hiệu phải căn cứ vào
quy định tại Điều 410, 127 và Điều 122 Bộ luật dân sự. Theo đó hợp đồng
dân sự bị vô hiệu khi không thỏa mãn một trong các điều kiện được quy định
tại Điều 122 BLDS, là:
- Người tham gia giao dịch dân sự có năng lực hành vi dân sự;
- Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
- Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;
- Hình thức giao dịch phù hợp với qui định của pháp luật.
Điều 410 BLDS năm 2005 quy định:
“1. Các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của
Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.
2.
Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng
chính. Quy định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự.
3.
Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính,
trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể
tách rời của hợp đồng chính.”
Tính vô hiệu của hợp đồng dân sự được thể hiện ở chỗ nó không làm phát
sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong muốn đạt được khi tham gia xác lập
3
hợp đồng dân sự đó, hay nói cách khác là nó không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ dân sự của các bên mong muốn có khi xác lập hợp đồng dân sự đó.
BLDS quy định bảy trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu. Đây chỉ là những
trường hợp vô hiệu nói chung. Ngoài ra, Điều 411 quy định về hợp đồng dân
sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện thực hiện được, cụ thể: “
Trong trường hợp ngay từ thời điểm ký kết, hợp đồng có đối tượng không
thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này vô hiệu.”
Vô hiệu theo nghĩa thông thường được hiểu là : “ không có hiệu lực,
không có hiệu quả”. Như vậy hợp đồng dân sự vô hiệu chính là hợp đồng
không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý.
3. Mục đích của các quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu.
Việc quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu trong các văn bản pháp luật
nhằm đảm bảo những mục đích cơ bản sau:
Thứ nhất, bảo vệ trật tự công cộng, lợi ích chung và đạo đức của xã hội:
Hợp đồng dân sự được xem là vô hiệu khi có các dấu hiệu sau đây: đối
tượng của hợp đồng bị cấm sản xuất, lưu thông, buôn bán; việc kí kết hợp
đồng làm thiệt hại đến lợi ích chung của xã hội như thỏa thuận nhằm trốn
thuế, việc kí kết hợp đồng chỉ để thực hiện mục tiêu khác (hợp đồng giả tạo)
và việc kí kết hợp đồng trái với đạo đức xã hội.
Thứ hai, bảo vệ lợi ích của các bên trong giao kết hợp đồng dân sự:
Vì mục đích đó nên các trường hợp mà hợp đồng được giao kết do đe
dọa, lừa dối; hợp đồng được giao kết do nhầm lẫn hoặc chủ thể tham gia
giao kết hợp đồng không có năng lực hành vi dân sự… thì hợp đồng sẽ bị
coi là vô hiệu.
Thứ ba, bảo vệ tính ổn định của các hợp đồng dân sự: với một số loại
hợp đồng nhất định có tính chất đặc thù, pháp luật thường quy định một
4
số điều kiện khác như hợp đồng phải được lập bằng văn bản, hợp đồng
phải được công chứng hoặc chứng thực…
4. Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu.
a, Phân loại dựa vào tính chất của hợp đồng dân sự.
Gồm có hai loại đó là: vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối.
- Vô hiệu tuyệt đối bảo vệ lợi ích công, có thể do mọi người có lợi ích
nêu lên, nó không thể được xác nhận và không bị hạn chế về thời gian.
- Vô hiệu tương đối vì chỉ nhằm mục đích bảo vệ người giao kết cho nên
chỉ người nào được pháp luật bảo vệ mới có quyền nêu lên. Ngoài ra, sự
vô hiệu này có thể được xác nhận và chịu một thời hiệu ngắn hơn.
Bộ luật Dân sự đã phân biệt giữa vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương
đối khi quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu (Điều 136 BLDS). Thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô
hiệu vì lí do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, người giao kết không có năng lực
hành vi hay không nhận thức được hành vi của mình là hai năm kể từ
ngày giao kết hợp đồng. Quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì lí
do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội, giả tạo hay
không tuân thủ các quy định về hình thức, không bị hạn chế về thời gian.
b, Phân loại dựa vào hiệu lực của hợp đồng.
Gồm có hai loại đó là: vô hiệu toàn bộ và vô hiệu một phần.
- Vô hiệu toàn bộ tức là toàn bộ nội dung của hợp đồng đều bị vô hiệu.
- Vô hiệu một phần tức là chỉ có một phần vô hiệu, nhưng không ảnh
hưởng đên hiệu lực của các phần khác, chỉ có phần vô hiệu không có hiệu
lực, còn các phần khác vẫn có hiệu lực thi hành.
c, Phân loại dựa vào điều kiện có hiệu lực.
- Vô hiệu do chủ thể không có năng lực hành vi dân sự
- Vô hiệu do vi phạm nội dung và mục đích của hợp đồng
5
- Vô hiệu do vi phạm điều kiện về ý chí tự nguyện
- Vô hiệu do vi phạm về hình thức.
II. Các quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu theo Bộ
luật Dân sự 2005.
1. Các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu.
a, Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội (Điều 128 BLDS 2005):
Ðiều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho
phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Ðạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với
người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Hợp đồng vi phạm quy định này thì đương nhiên vô hiệu, không phụ
thuộc vào ý chí của các bên tham gia.
Tuy nhiên đánh giá về quy định tại Bộ luật Dân sự 2005 ta thấy rằng
trong bộ luật còn chưa sử dụng thống nhất khái niệm về trái pháp luật hay vi
phạm điều cấm của pháp luật.
b, Hợp đồng vô hiệu do giả tạo (Điều 129 BLDS 2005):
Giả tạo là các bên tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện, nhưng lại cố ý
bày tỏ ý chí không đúng với ý chí đích thực của họ. Khi đó, hợp đồng giả tạo
vô hiệu, còn hợp đồng bị che dấu vẫn có hiệu lực nếu đáp ứng đầy đủ các
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự.
Ví dụ: A bán cho B một ngôi nhà. Để trốn thuế, A đã giao kết với B một
hợp đồng tặng cho tài sản là ngôi nhà đó. Trong trường hợp này, hợp đồng
tặng cho sẽ bị vô hiệu, hợp đồng bán nhà vẫn có hiệu lực thi hành.
Trong trường hợp hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba thì hợp đồng giả tạo đó đương nhiên bị vô hiệu.
6
c, Hợp đồng vô hiệu do người tham gia ký kết hợp đồng không có năng
lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.
(Điều 130 BLDS 2005):
Theo điều 130 BLDS : “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó,
Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao
dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện.”
Người không có năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi không
đầy đủ không thể có đủ điều kiện để tự do thể hiện ý chí. Vì vậy hợp đồng
của họ phải được xác lập dưới sự kiểm soát của người khác hoặc do người
khác xác lập. Tuy nhiên, hợp đồng do những người này xác lập không mặc
nhiên bị coi là vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của những người đại
diện cho họ.
Tuy nhiên, đánh giá về quy định tại điều 130 BLDS 2005 ta thấy rằng
điều 130 mới chỉ qui định mang tính chất một chiều là bảo vệ những người
bị hạn chế năng lực chủ thể nhưng chưa tính đến trường hợp cần phải bảo vệ
người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng với người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi nhưng không
biết và không buộc phải biết đối tác là người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi. Bộ luật Dân sự 2005
cũng chưa quy định về thời điểm bắt đầu mà người đại diện có quyền yêu
cầu tuyên bố hợp đồng do người bị mất năng lực hành vi, hạn chế năng lực
hành vi xác lập. Thời điểm này là thời điểm cá nhân bị mất năng lực hành vi
thực sự hay là thời điểm Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi? Bên cạnh đó
còn chưa xây dựng được chế tài áp dụng đối với trường hợp rủi ro cho bên
7
giao kết với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến đủ 18 tuổi có tài sản
riêng mà sau khi giao kết hợp đồng tài sản riêng không còn.
d, Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn. (Điều 131 BLDS 2005)
Nhầm lẫn là việc các bên hiểu sai về nội dung của hợp đồng mà các bên
tham gia gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Nếu bên bị nhầm lẫn
chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì hợp đồng có thể bị tuyên bố vô
hiệu.
Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao
dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên
kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên
bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Tuy nhiên
lỗi ở đây chỉ có thể là lỗi vô ý. Nếu sự nhầm lẫn do lỗi cố ý của bên đối tác
thì khi đó sẽ thuộc trường hợp vô hiệu do lừa dối.
Ta thấy Điều 131 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: hợp đồng có thể bị
tuyên bố vô hiệu do nhầm lẫn nhưng chưa đưa ra định nghĩa chính xác về
"nhầm lẫn", chưa phân loại được các yếu tố nhầm lẫn trong hợp đồng và từ
đó có chế tài xử lý khác nhau, không đề cập tới trường hợp nhầm lẫn về chủ
thể của hợp đồng, không quy định chế tài xử lý trong trường hợp nhầm lẫn
từ hai bên chủ thể của hợp đồng.
e, Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa. (Điều 132 BLDS 2005)
Lừa dối trong hợp đồng là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ
ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng
hoặc nội dung của hợp đồng dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Ðe dọa trong hợp đồng là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba
làm cho bên kia buộc phải thực hiện hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha,
mẹ, vợ, chồng, con của mình.
8
Bộ luật Dân sự đã nêu ra quy định chung khái quát về hành vi đe dọa
nhưng chưa phân tách rõ ràng về phạm vi và điều kiện của hành vi đe dọa
này. Bên cạnh đó, Điều 132 Bộ luật Dân sự 2005 có cụm từ "phải thực hiện
giao dịch" khiến cho nhiều người có cách hiểu chưa thống nhất. Về đối
tượng của đe dọa: Pháp luật đã liệt kê ra hết các đối tượng có thể bị xâm hại:
tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của
cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình nhưng chưa đầy đủ. Sự chưa đầy đủ được
thể hiện trong trường hợp đối tượng của sự đe dọa có thể là tài sản của Nhà
nước, tổ chức xã hội và nhìn chung phạm vi người được bảo vệ do bị đe dọa
cần được bổ sung.
Ngoài ra phạm vi hành vi được xem là lừa dối theo Bộ luật Dân sự 2005
chưa được quy định đầy đủ. Pháp luật hiện hành mới chỉ coi những hành vi
cố ý của một bên trong hợp đồng làm cho bên kia hiểu sai mà không thừa
nhận sự im lặng hoặc không thông tin khi có nghĩa vụ thông tin đến người
cùng giao kết hợp đồng là lừa dối.
f, Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình (Điều 133 BLDS 2005).
Trường hợp này chỉ áp dụng đối với những người có năng lực hành vi
dân sự. Nếu người đó đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên
bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Việc phân định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại phụ thuộc vào lỗi của các bên tham gia hợp đồng.
g, Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 134
BLDS 2005).
Điều 134 BLDSquy đinh : “Trong trường hợp pháp luật quy định hình
thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên
không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan
9
nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định
về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không
thực hiện thì giao dịch vô hiệu.”
Theo nguyên tắc chung, các chủ thể được phép tự do lựa chọn hình thức
của hợp đồng. Chỉ những hợp đồng pháp luật quy định bắt buộc phải thể
hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận,... mà các bên không
tuân thủ mới bị vô hiệu. Khi các bên có yêu cầu thì tòa án xem xét và “ buộc
các bên thực hiện các quy định về hình thức của hợp đồng trong một thời
hạn nhất định”. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quy định về
hình thức của hợp đồng trong thời hạn do tòa án quyết định thì hợp đồng
mới vô hiệu. Bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên còn có một số vướng mắc trong quy định của Bộ luật Dân sự
2005 về vấn đề này. Thứ nhất, quy định điều kiện về hình thức ở phần giao
dịch dân sự tại Điều 122 và phần hợp đồng tại khoản 2 Điều 401 mâu thuẫn
nhau gây nên sự hiểu lầm. Thứ hai, do quá chú trọng về hình thức hợp đồng,
điều kiện tuyên bố hợp đồng vô hiệu quá dễ dàng mà bên có yêu cầu tuyên
bố hợp đồng vô hiệu lợi dụng để trục lợi. Và quy định tại Điều 136 Bộ luật
Dân sự 2005 về thời hiệu khởi kiện hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định
về hình thức chưa hợp lý trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên giao
kết hợp đồng.
h, Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được (Điều 411
BLDS 2005).
Điều 411 BLDS 2005 qui định về trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu
do có đối tượng không thể thực hiện được. Quy định này cũng được áp dụng
đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể
thực hiện được, nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.
10
Theo khoản 1 Điều 411 BLDS 2005: “ Trong trường hợp ngay từ khi kí
kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì
hợp đồng này vô hiệu”. Quy định này có thể hiểu đối tượng của hợp đồng
cũng là một trong những điều kiện của hợp đồng, không có đối tượng thì tất
nhiên sẽ không thể có hợp đồng dân sự.
Thực tiễn cũng cho thấy quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành đối với
hợp đồng có đối tượng là tài sản hình thành trong tương lai trong nhiều
trường hợp cũng chưa có sự xác định rõ ràng.
2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
BLDS 2005 quy định hai loại thời hiệu yêu cầu toàn án tuyên vố giao dịch
vô hiệu trên cơ sở tính chất, mức độ phạm vi và tác động xấu của giao dịch
dân sự đó đối với đời sống xã hội (Điều 136 BLDS 2005) đó là:
a. Thời hiệu hai năm
Theo khoản 1 điều 136 BLDS 2005, thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên vố
giao dịch dân sự vô hiệu đối với các giao dịch: Giao dịch dân sự vô hiệu do
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế
năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; giao dịch dân sự bị vô hiệu do
nhầm lẫn, do bị lừa dối, đe dọa; do người các lập không nhận thức và làm
chủ hành vi của mình; do không tuân thủ quy định về hình thức là hai năm
kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
Sau khoảng thời gian hai năm nếu bên có quyền yêu cầu tòa án giao dịch
dân sự này là vô hiệu không thực hiện thì quyền này sẽ tự động chấm dứt.
Quy định này của pháp luật ngoài nhưng lí do về mặt thời hiệu nó còn có
một lí do khác đó là pháp luật không thể và cũng không có nghĩa vụ bảo vệ
người có quyền khi mà chính người đó cũng không quan tâm nhiều đến
quyền của mình.
11
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian hai năm mà pháp luật quy định người
có quyền có thể yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trên thực
tế cũng có thể xảy ra những sự kiện làm cản trở việc người đó thực hiện
quyền của mình. Trong những trường hợp này để bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người có quyền khởi kiện pháp luật quy định khoảng thời gian xảy
ra những sự kiện là cho người có quyền khởi kiện không thể khởi kiện sẽ
không được tính vào thời hiệu khởi kiện (điều 161 BLDS 2005) những sự
kiện này gồm:
Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có
quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện yêu cầu trong phạm vi
thời hiệu.
Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện,
người có quyền yêu cầu chưa thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lí do chính đang khác mà
không thể tiếp tục đại diện được trong tường hợp người đại diện của người
chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chết.
b. Thời hiệu không bị hạn chế
Để góp phần hạn chế đến mức tối đa những giao dịch dân sự vô hiệu do
vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; giao dịch dân sự vô
hiệu do giả tạo mà sự vi phạm các điều kiện có hiệu lực của nó gây nên
những hậu quả xấu cho xã hội, BLDS 2005 có quy định nghiêm khắc thể
hiện ở hai điểm sau:
- Theo khoàn 2 điều 136 BLDS 2005, thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố
giao dịch vô hiệu không hạn chế.
12
- Theo khoản 2 điều 137 BLDS 2005, tài sản là đối tượng của giao dịch
dân sự vô hiệu và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó có thể bị tịch thu
theo qui định của pháp luật.
Những quy định này góp phần ổn định trật tự kinh tế xã hội, ổn định các
quan hệ dân sự qua đó thúc đẩy sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội,
giúp tòa án dễ dàng điều tra chứng cứ khi giải quyết những tranh chấp để
bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của các bên tham gia giao dịch dân sự.
Đồng thời đề cao ý thức trách nhiệm của những người tham gia giao dịch
dân sự.
Tuy nhiên cũng có những bất cập, hạn chế trong việc quy định này, thể
hiện ở thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do giả tạo và hợp đồng
vi phạm điều cấm pháp luật và đạo đức xã hội: Bộ luật Dân sự 2005 không
hạn chế thời hiệu đối với các trường hợp này gây khó khăn cho Tòa án hoặc
cơ quan nhà nước thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên
không chỉ trong việc xác định chứng cứ mà cả trong việc lựa chọn luật áp
dụng.
3. Giải quyết hậu quả pháp lý hợp đồng vô hiệu.
a, Về hậu quả các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận, trước tiên hoàn trả bằng hiện vật, nếu không hoàn
trả được bằng hiện vật thì tính thành tiền để trả.
Thực tế ở nước ta cho thấy, việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
chưa thực sự đảm bảo được lợi ích của các chủ thể. Điển hình đối với những
giao dịch có đối tượng là nhà, quyền sử dụng đất. Thực tế cho thấy rằng,
nguyên đơn hầu hết là bên chuyển nhượng. Đối với bên chuyển nhượng, vệc
lấy lại đất là thoả đáng. Nhưng với bên được chuyển nhượng, việc phải trả
lại đất cho bên bán là một tổn thất rất lớn với họ. Cho dù được nhận lại số
tiền đã bỏ ra trước đây, họ không bao giờ mua được diện tích đất như vậy
13
nữa vì những năm qua giá trị quyền sử dụng đất ở nước ta tăng nhanh chóng
mặt. Trong trường hợp bên chuyển nhượng có lỗi trong việc xác lập giao
dịch này, bên nhận chuyển nhượng được bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên,
khoản bồi thường cũng không bao giờ bù đắp được mất mát thực tế của họ
do giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu.
Quy định này rất khó áp dụng trong trường hợp đối tượng hợp đồng là
tài sản không còn giữ được tình trạng như ban đầu hay đối tượng hợp đồng
là công việc (dịch vụ) đã được thực hiện mà có căn cứ xác minh là hợp đồng
vô hiệu. Đặc biệt là đối với những hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm
điều cấm pháp luật và trái đạo đức xã hội mà đối tượng hợp đồng là các
công việc có liên quan đến giá trị nhân thân của các bên chủ thể. Hoặc là đối
với những hợp đồng như hợp đồng vận chuyển, hợp đồng xây dựng, việc
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận rất khó thực hiện.
Quy định tính thành tiền để hoàn trả trong trường hợp không thể hoàn trả
hiện vật thực sự cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là tính giá hiện vật
thành tiền tại thời điểm nào: thời điểm xác lập giao dịch hay thời điểm hoàn
trả tài sản? Đối với những tài sản không thay đổi về giá từ thời điểm xác lập
giao dịch đến thời điểm hoàn trả tài sản, vấn đề tính giá tài sản vào thời điểm
nào không quan trọng. Tuy nhiên, với những tài sản có sự biến đổi về giá (có
thể tăng hoặc giảm giá), việc xác định giá tài sản để tính thành tiền là mấu
chốt vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của các bên. Thông thường, nếu giá tài sản
tăng thì thiệt hại thuộc về bên mua, còn nếu giá tài sản giảm thì thiệt hại
thuộc về bên bán.
b, Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại.
Khi hợp đồng dân sự bị tuyên bố vô hiệu, bên có lỗi trong việc hợp đồng
vô hiệu phải chịu thiệt hại và bồi thường cho bên chủ thể kia. Mức độ bồi
thường thiệt hại căn cứ vào mức độ lỗi. Bên bồi thường chỉ phải bồi thường
14
thiệt hại do phần lỗi của mình gây ra. Tuy nhiên vấn đề xác định lỗi trong
thực tế là việc rất khó, gây nhiều tranh cãi và không thuyết phục được các
bên tranh chấp hợp đồng. Đặc biệt là trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm
lẫn song phương hoặc bên bán không có lỗi khi tại thời điểm giao kết hợp
đồng không biết hoặc không thể biết đối tượng hợp đồng không thực hiện
được do quyết định của cơ quan nhà nước.
c, Tài sản giao dịch, hoa lợi lợi tức bị tịch thu trong trường hợp pháp
luật có quy định khác
Vẫn theo Khoản 2 Điều 137 BLDS: “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì
các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền,
trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo
quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”. Có thể
thấy, quy định tịch thu tài sản giao dịch , hoa lợi, lợi tức thu được khi hợp
đồng vô hiệu được đua ra nhằm xử lý những tài sản là đối tượng của hợp
đồng , nhưng thuộc diện tài sản Nhà nước tịch thu, sung công quỹ. Tuy
nhiên Bộ luật Dân sự lại chưa quy định rõ thời điểm tài sản giao dịch, hoa
lợi, lợi tức thu được bị tịch thu là trước hay sau khi giao dịch bị tuyên bố vô
hiệu. Việc xác định rõ thời điểm tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được
bị tịch thu là trước hay sau khi giao dịch bị tuyên bố vô hiệu là rất cần thiết,
bởi lẽ nó sẽ là một trong các căn cứ xác định chủ thể chịu trách nhiệm (đã có
trường hợp, tài sản là đối tượng của hợp đồng dân sự, nhưng đã bị tịch thu
trong một vụ án khác, trước khi Tòa án tuyên hợp đồng này vô hiệu). Bộ luật
Dân sự chưa có quy định rõ ràng .Quy định này còn mang tính chung chung,
chưa được hướng dẫn cụ thể do đó khó áp dụng trong thực tế. Cho đến nay
chưa có văn bản pháp luật nào quy định phải tịch thu tài sản giao dịch, hoa
lợi, lợi tức.
15
d, Hậu quả pháp lí của hợp đồng dân sự vô hiệu trong trường hợp tài sản
đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình
Hợp đồng vô hiệu ngoài liên quan tới các bên tham gia trong hợp
đồng, một số trường hợp, hợp đồng dân sự còn liên quan tới người thứ ba
ngay tình, đó là trường hợp hợp đồng vô hiệu nhưng tài sản giao dịch đã
được chuyển giao dịch cho người thứ ba ngay tình. Tính đặc biệt trong
trường hợp hợp đồng vô hiệu trong trường hợp này thể hiện ở chỗ tài sản
giao dịch đã không còn chiếm giữ bởi một trong các bên tham gia giao kết
hợp đồng mà là một người thứ ba ngay tình do việc xử lý tài sản khi hợp
đồng bị tuyên bố vô hiệu gặp phải một số khó khăn nhất định.
Trường hợp giao dịch vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác
cho người thứ ban gay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực,
trừ trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua
hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản.
Trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có
quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp
khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sỡ hữu.
Như vậy chủ sỡ hữu có được đòi lại tài sản không đăng ký quyền sỡ hữu
từ người thứ ban gay tình khi hợp đồng vô hiệu cũng phụ thuộc vào ý chí
của chủ sỡ hữu có muốn chuyển giao của chủ sở hữu đối với tài sản đó hay
không. Và cũng cần lưu ý là muốn đòi hỏi lại tài sản đó, chủ sở hữu phải
chứng minh được đó là tài sản của mình. Qua đây có thể thấy, lợi ích chính
đáng của chủ sở hữu tài sản luôn được ưu tiên bảo vệ.
Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc động sản phải
đăng ký quyền sỡ hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho
người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường
16
hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá
hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là
chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa( Điều 138 BLDS 2005)
Quy định này nhằm đảm bảo giá trị pháp lý của việc đăng ký quyền sở
hữu cũng như thể hiện tính đặc thù của đối tượng là động sản đối với bất
động sản. Pháp luật quy định một số loại tài sản nhất định phải đăng ký
quyền sở hữu để công nhận quyền sở hữu của chủ sở hữu, chống lại xâm
phạm của người thứ ba và khi có tranh chấp thì chủ sở hữu có thể dễ dàng
chứng minh được đâu là đối tượng của hợp đồng đã vô hiệu căn cứ vào giấy
tờ chứng nhận quyền sở hữu. Mặt khác vì giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu
tài sản đứng tên không phải là người giao kết với người thứ ba do đó khó
chứng minh được tính ngay tình hay không ngay tình của người thứ ba.
4. Đánh giá chung các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về hợp đồng
dân sự vô hiệu.
Bộ luật Dân sự đã cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về bảo
vệ, tôn trọng quyền sở hữu và tự do hợp đồng, góp phần thúc đẩy việc xây
dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Các
quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 nói chung, chế định hợp đồng nói riêng
đã có tính khái quát cao hơn. Đặc biệt đã ghi nhận một cách đầy đủ các
quyền tự do ý chí của con người trong quan hệ dân sự.
Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2005 còn bộc lộ một số hạn chế trong quy
định về xử lý hợp đồng vô hiệu, ví dụ như:
- Điều kiện vô hiệu của hợp đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự
hiện hành là quá rộng, còn chung chung;
- Quy định về điều kiện hình thức của hợp đồng còn chưa thống nhất nên
có những cách hiểu và vận dụng khác nhau;
17
- Các quy định về lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn được quy định trong Bộ luật
Dân sự 2005 nhìn chung là còn quá chung chung, mang tính hình thức, do
đó rất khó áp dụng trong thực tiễn.
- Hậu quả pháp lý khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu còn nhiều vướng mắc
khi áp dụng trong thực tiễn xét xử. Xử lý việc hoàn trả những gì đã nhận,
khôi phục tình trạng ban đầu khi hợp đồng bị tuyên là vô hiệu còn nhiều bất
cập.
III. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hợp
đồng dân sự vô hiệu.
1. Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp
đồng dân sự vô hiệu.
Đảm bảo sự tôn trọng tự do ý chí trong hợp đồng. Tự do hợp đồng ở đây
được hiểu là khi tham gia quan hệ hợp đồng, các bên được tự do lựa chọn
đối tác, tự do chọn loại hình hợp đồng thích hợp để đạt mục tiêu, tự do xác
lập các điều khoản và tự do quyết định có giao kết hợp đồng hay không. Vai
trò quản lý nhà nước rất quan trọng nhưng chúng ta vẫn phải đảm bảo
nguyên tắc hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào quyền tự do của các chủ
thể tham gia quan hệ hợp đồng. Do đó, những quy định pháp luật chỉ nên
hạn chế ở mức thích đáng quyền tự do hợp đồng nhằm bảo đảm trật tự công
cộng và đạo đức xã hội.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần đảm bảo tính khoa học, tính thống nhất,
đồng bộ giữa luật chung (luật dân sự) và luật riêng (các luật chuyên ngành);
tránh được sự trùng lặp trong việc điều chỉnh và khắc phục được sự mâu
thuẫn trong bản thân các quy định pháp luật về hợp đồng.
2. Những kiến nghị và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật về hợp đồng dân sự vô hiệu.
a, Về định nghĩa hợp đồng dân sự vô hiệu.
18
Điều 127 BLDS quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các
điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Theo
ngôn từ của Điều 127 BLDS và các điều khoản tiếp sau cũng như Điều
410 BLDS chúng ta có thể hiểu các điều kiện được quy định tại Điều 122
BLDS chính là những điều kiện cần và đủ để hợp đồng có hiệu lực. Nói
cách khác, chỉ khi một hợp đồng dân sự vi phạm một trong các điều kiên
trên thì mới có thể bị coi là vô hiệu, ngoài ra không còn bất cứ trường
hợp vô hiệu nào khác. Tuy nhiên, Điều 411 BLDS lại quy định trường
hợp hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.
Như vậy cho thấy sự thiếu bao trùm của Điều 127 BLDS hay sự thiếu
thống nhất trong quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu. Để tránh nhược
điểm này, Điều 127 cần được sửa lại theo hướng mềm dẻo hơn và bao
quát hơn, đó là thay cụm từ mang tính dân dã “không có” bằng cụm từ
mang tính pháp lí “vi phạm” tại Điều 127 BLDS, cụ thể là: “Giao dịch
dân sự vi phạm một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của
Bộ luật này thì vô hiệu”. Bên cạnh đó, chúng ta nhận thấy quy định tại
Điều 411 BLDS, khoản 1: “Trong trường hợp ngay từ khi kí kết hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lí do khách quan thì hợp
đồng này bị vô hiệu” là quy định chỉ rõ đối tượng của hợp đồng cũng là
một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tương tự như pháp luật
các nước (mặc dù không được quy định một cách minh thị). Nói cách
khác, nếu không có đối tượng của hợp đồng thì sẽ không thể có hợp
đồng. Tuy nhiên. Quy định này chỉ được đề cập đến trong từng chế định
cụ thể của giao dịch dân sự chứ không được quy định bao quát tại Điều
122 BLDS – điều luật quy định chung về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự (hợp đồng dân sự). Do đó nên bổ sung thêm điều kiện về đối
tượng vào các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực tại Điều 122
19
BLDS đồng thời lược bỏ các quy định tại Điều 411 khoản 1 và Điều 667
khoản 3 BLDS.
b, Sửa đổi về các trường hợp tuyên bố hợp đồng vô hiệu
+ Trường hợp hợp đồng vô hiệu do người giao kết hợp đồng bị hạn
chế năng lực hành vi, mất năng lực hành vi tại Điều 130. Có thể bổ sung
thêm qui định cho phép bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham
gia xác lập, thực hiện hợp đồng với người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi trong trường hợp
những người này không biết và không buộc phải biết đối tác của họ là
những người nêu trên. Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự cũng cần quy định bổ
sung về thời điểm bắt đầu mà người đại diện cho người mất năng lực
hành vi có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng được thiết lập kể từ thời
điểm xác định người mất năng lực hành vi, hạn chế năng lực hành vi trên
thực tế để thống nhất phương hướng xét xử của Tòa án các cấp. Điều đó
sẽ đảm bảo lợi ích hợp pháp của những đối tượng bị hạn chế năng lực
giao kết hợp đồng.
Mặt khác, cần bổ sung trong Bộ luật Dân sự 2005 chế tài áp dụng đối
với trường hợp rủi ro cho bên giao kết với người chưa thành niên từ đủ
15 tuổi đến đủ 18 tuổi có tài sản riêng mà sau thời điểm giao kết hợp
đồng, người chưa thành niên đó không còn tài sản riêng.
+ Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn tại Điều 131 Bộ luật Dân sự: Sửa
đổi bổ sung Điều 131 theo hướng như sau: Quy định rõ hơn về khái niệm
nhầm lẫn; bổ sung sự nhầm lẫn xuất phát từ các bên tham gia hợp đồng;
quy định nhầm lẫn ở đây bao gồm nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp
đồng và nhầm lẫn về chủ thể hợp đồng.
+ Hợp đồng vô hiệu do lừa dối tại Điều 132 Bộ luật Dân sự: Theo Bộ
luật Dân sự 2005 chưa quy định đầy đủ phạm vi hành vi được xem là lừa
20
dối. Chúng ta nên bổ sung sự biểu hiện của lừa dối không chỉ ở hành vi,
lời nói mà thừa nhận cả trường hợp một bên không cung cấp thông tin
hoặc im lặng khi xét một cách hợp lý là họ phải có nghĩa vụ thông báo.
+ Hợp đồng vô hiệu do đe dọa tại Điều 132 Bộ luật Dân sự: Có thể
sửa đổi ngôn từ tại Điều 132 theo hướng: thay thế cụm từ "phải thực hiện
giao dịch" bằng "…buộc phải giao kết giao dịch…". Về đối tượng của đe
dọa: Pháp luật bổ sung thêm đối tượng của sự đe dọa có thể là tài sản của
Nhà nước, tổ chức xã hội mà họ có trách nhiệm quản lý hay vì lợi ích
chung của xã hội, của cộng đồng.
+ Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức: Điều 134 được
sửa đổi theo hướng:Khi Tòa án có đủ căn cứ chứng minh các bên đã tự
do thỏa thuận hợp đồng đã xác lập nhưng chưa thỏa mãn quy định về
hình thức thì Tòa án buộc các bên thực hiện quy định về hình thức trong
một thời hạn, quá thời hạn đó mà các bên không thực hiện thì hợp đồng
được coi là tuân thủ về hình thức. Trong trường hợp này, Tòa án cũng có
thể ra một quyết định để công nhận hợp đồng đó và buộc các bên phải
tuân theo những nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng.
Sửa đổi Điều về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu như sau:
Đối với hợp đồng vô hiệu vì bản thân hợp đồng không đem lại lợi ích
cho ít nhất một bên chủ thể như mong muốn của họ như: hợp đồng vô
hiệu do lừa dối, nhầm lẫn thì giải quyết hậu quả sự vô hiệu là các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
21
C. KẾT LUẬN
Vấn đề xử lý hợp đồng vô hiệu được quy định trong Bộ luật Dân sự năm
2005 có ý nghĩa rất quan trọng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhằm đảm
bảo lợi ích hợp pháp của các chủ thể, lợi ích chung của xã hội, của Nhà
nước. Tuy nhiên, trong thực tế, các quy định về vấn đề này đã bộc lộ những
bất cập, đó là: có quy định còn chung chung, chưa bao quát được các trường
hợp hợp đồng vô hiệu, các quy định có phần cứng nhắc, có chỗ còn thiếu
không theo kịp cuộc sống.
Với thực trạng đó, các quy định về xử lý hợp đồng vô hiệu cần phải được
hoàn thiện để những quy định này mang tính khả thi hơn, phù hợp với thực
tế và quan trong hơn là tạo điều kiện để hợp đồng phát huy hết vai trò của
mình trong nền kinh tế thị trường.
22
Danh mục tài liệu tham khảo:
1.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập
2, Nxb. CAND,
2.
Lê Kim Quế, « Hợp đồng dân sự vô hiệu và giá trị của hợp đồng
dân sự với người thứ ba », Tạp chí Tòa án tháng 1/2006 (số 2);
3.
Đỗ Văn Hữu, ”Vi phạm hình thức có là căn cứ để xác định hợp
đồng vô hiệu ?”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp_Số HKLP tháng
3/2008;
4.
Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Tư pháp, 2007;
5.
Bộ luật dân sự năm 2005;
23
MỤC LỤC:
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Hợp đồng dân sự vô hiệu....................................................................2
1. Khái niệm hợp đồng.........................................................................2
2. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu................................................3
3. Mục đích của các quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu................4
4. Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu.................................................5
a, Phân loại dựa vào tính chất của hợp đồng dân sự...............................5
b, Phân loại dựa vào hiệu lực của hợp đồng............................................5
c, Phân loại dựa vào điều kiện có hiệu lực...............................................5
II. Các quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu theo Bộ
luật Dân sự 2005.....................................................................................6
1. Các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu......................................6
2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu..................11
a. Thời hiệu hai năm................................................................................11
b. Thời hiệu không bị hạn chế..................................................................12
3. Giải quyết hậu quả pháp lý hợp đồng vô hiệu................................13
4. Đánh giá chung các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về hợp đồng
dân sự vô hiệu.........................................................................................17
III. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng
dân sự vô hiệu.........................................................................................18
1. Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp
đồng dân sự vô hiệu...............................................................................18
2. Những kiến nghị và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật về hợp đồng dân sự vô hiệu.............................................................18
C. KẾT LUẬN.
24
25