Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân huyện ba tri, tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459 KB, 63 trang )

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐÒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN


MỤC LỤC

LỜI NÓIĐẰU................................................................................................................1

CHƯƠNG 1: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN CẤP HUYỆN.................................................................................................4

1.1 Khái quát chung về Viện kiểm sát nhân dân.....................................................4

1.1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân

qua các bản Hiến pháp.............................................................................................4

1.1.1.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959....................................................4

1.1.1.2 Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980....................................................6

1.1.1.3 Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992....................................................6

1.1.1.4 Giai đoạn từ năm 1992 đến nay..............................................................7

1.1.2 Vị trí pháp lý và vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy
16


1.2.2.1 Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự........16

1.2.2.2 Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự...........17



1.2.2.3 Kiếm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành

chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.........18

1.2.2.4 Kiểm sát việc thi hành án.....................................................................18

1.2.2.5 Kiếm sát việc giam giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người cấp hành

hình phạt tù.........................................................................................................19

CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỀM SÁT NHÂN
DÂN HUYỆN BA TRI, TỈNH BẾN TRE.............................................................21

2.1 Stf lược về lịch sử hình thành và phát triển của Yiện kiểm sát nhân dân

huyện Ba Tri, tỉnh Bên Tre.......................................................................................21


2.4.2 Với Ban chấp hành công đoàn cơ sở Viện kiếm sát...................................33

2.4.3 Với cơ quan điều tra - công an huyện Ba Tri..............................................33

2.4.4 Với Toà án nhân dân huyện Ba Tri.............................................................34

2.4.4.1 Trong lĩnh vực hình sự..........................................................................35

2.4.4.2................................................................................................................. Trong
lĩnh vực dân sự....................................................................................................35


2.4.5 Với cơ quan thi hành án huyện Ba Tri........................................................35

2.4.6 Với Hội đồng nhân dân huyện Ba Tri.........................................................36

2.4.7 Với Viện kiểm sát nhân dân cấp trên..........................................................36
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN HUYỆN BA TRI, TỈNH BẾN TRE TRONG NĂM 2008 - THÀNH
Tựu - HẠN CHÉ VÀ KIẾN NGHỊ HƯỚNG HOÀN THIỆN.........................37
3.1 Kết quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Trí, tỉnh
Bến Tre trong năm 2008........................................................................................37

3.1.1 Trong lĩnh vực hình sự...............................................................................37


3.2.2.3 về khiếu tố............................................................................................46

3.3 Những thành tựu đạt được của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri,

tỉnh Bến Tre trong thòi gian qua..............................................................................46

3.3.1 về vấn đề tổ chức cơ quan..........................................................................46

3.3.2....................................................................................................................... về vấn
đề thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan......................................................47

3.3.3....................................................................................................................... về vấn
đề đào tạo kỹ năng cho cán bộ - kiểm sát viên......................................................47

3.3.4 về điều kiện làm việc và sinh hoạt.............................................................47


3.3.5 về vấn đề chi tiêu tài chính nội bộ..............................................................48


LỜI NÓI ĐẰU

1. Sự cần thiết của đề tài

Trong hệ thống các cơ quan tư pháp nước ta, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan
tư pháp cỏ chức năng thực hành quyền công tố đồng thời kiểm sát hoạt động tư pháp của
các cơ quan tư pháp khác. Đây là chức năng riêng biệt của Viện kiểm sát nhân dân và
chức năng này được quy định trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như Luật tố chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc tập trung lãnh đạo
thống nhất trong ngành, độc lập không lệ thuộc vào bất kỳ một cơ quan nào ở địa phương
và được phân thành ba cấp: trưng ương, tỉnh và huyện. Theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn
của ba cấp kiểm sát được quy định cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm vụ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp ở trưng ương và các địa
phương và thực hành quyền công tố nhà nước; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp ở cấp m ình và thực
hành quyền công tố ở cấp mình; Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có nhiệm vụ như
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nhưng giới hạn ở địa phương mình. Như vậy, Viện kiếm
sát nhân dân cấp huyện là cấp cơ sở của ngành kiểm sát, là cơ quan nắm rõ nhất tình hình
chấp hành pháp luật ở địa phương, vì vậy hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện có vai trò rất quan trọng trong công tác kiểm sát.
Viện kiếm sát nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Ben Tre là cơ quan tư pháp trực thuộc
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre. Từ khi được thành lập và bắt đầu hoạt động đến
nay, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri đã đạt được những thành tích đáng kể trong
công tác, nổi bật là việc được Nhà nước trao tặng huân chương lao động hạng ba vào
năm 1997, bên cạnh đó, cũng có khá nhiều ý kiến phản ánh trên các phương tiện thông
tin đại chúng về tình hình vi phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp trên địa bàn huyện

dẫn tới tình trạng oan sai cho người dân. Đe tìm hiểu rõ hơn công tác kiểm sát ở huyện
Ba Tri, tỉnh Bến Tre, từ đó phát hiện ra những ưu, nhược điểm và đề xuất những kiến
nghị góp nhàn nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện
hiện nay, người viết xin chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trang 1


hiện nay. Có rất nhiều sách báo, tài liệu và các bài viết về vấn đề này, tuy nhiên các bài
viết này hàu hết đều đề cập đến một vấn đề nhất định về tổ chức và hoạt động của hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân nói chung, còn vấn đề tổ chức và hoạt động của một Viện
kiểm sát cụ thể thì ít được đề cập đến. Để nghiên cứu về vấn đề này, chủ yếu người viết
dựa vào các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, các tài liệu tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho
cán bộ - Kiếm sát viên Viện kiếm sát nhân dân cấp huyện, đồng thời dựa trên sự quan sát
những vấn đề thực tiễn phát sinh qua tìm hiểu về tình hình hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
3. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý luận về Viện kiểm sát nhân dân của các nhà
nghiên cứu, các tài liệu về nghiệp vụ kiểm sát và qua thực tiễn, người viết đánh giá được
thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện mà cụ thể là Viện
kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Ben Tre, nêu lên những thành tựu đạt được đồng
thời rút ra những hạn chế, vướng mắc từ đó kiến nghị phương hướng hoàn thiện nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiếm sát nhân dân.
4. Giói hạn nghiên cứu đề tài

Đề tài giới hạn trong việc phân tích cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về
vấn đề tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, đồng thời tìm hiểu

về tình hình hoạt động thực tế của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Ở
đây, người viết không đi sâu phân tích chức năng của Viện kiểm sát nhân dân huyện mà
chủ yếu tìm hiểu về vấn đề tổ chức và hoạt động của cơ quan, từ đó nêu lên một số hạn
chế, khỏ khăn trong quá trình hoạt động của cơ quan và đề xuất một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện hơn về vấn đề này.
5. Ý nghĩa của đề tài

Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên
cứu đề tài có thể được bổ sung vào những lý luận về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
Trang 2


6. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, người viết đã vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân tích tổng họp dựa trên cơ sở
đường lối chính sách của Đảng và các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện kết họp với việc tìm hiểu quá trình hoạt
động thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Ben Tre, từ đó so sánh đối
chiếu giữa lý luận và thực tiễn để làm rõ vấn đề tổ chức và hoạt động của cơ quan này.
7. Kết cấu đề tài

Nội dung đề tài được trình bày đi từ phần lý luận chung về Viện kiểm sát nhân
dân và những quy định của pháp luật về tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện đến vấn đề tổ chức thực tế của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri và cuối
cùng là vấn đề hoạt động thực tiễn. Theo đó, đề tài được kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.
- Chương 2: Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre.
- Chương 3: Kết quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri,

tỉnh Bến Tre trong năm 2008 - Thành tựu - Hạn chế và kiến nghị phương hướng
hoàn thiện.
Do tính phức tạp của đề tài cùng với những hạn chế về khả năng, trình độ và điều

Trang 3


1 Trích bài viết Tổ chức và hoạt động cùa Viện kiểm sát nhân dân _ Phó Chủ nhiệm ủy ban Pháp luật
của Quốc
hội Trần Thế Vượng
CHƯƠNG1
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VÈ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.1 Stf lược về lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân qua
các bản hiến pháp1
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời. Từ đó đến nay, trong quá trình xây dựng bộ máy nhà nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn quan tâm đến việc thành lập và kiện toàn các cơ quan tư pháp, trong đó
có Viện kiểm sát nhân dân. Có thể nói tổ chức cơ quan Viện kiểm sát nhân dân của nước
ta đã trải qua những bước phát triển khác nhau phù hợp với nhận thức, mức độ phát triển
của xã hội và đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đặt ra đối với từng giai đoạn lịch sử. Quá
trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân có thể được phân theo các giai
đoạn lịch sử khác nhau như sau:
l.l.l.l

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959

Ngày 14/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc lệnh số 33A quy định

mỗi khi bắt người phải thông báo ngay cho ông Biện lý (tức là Thẩm phán làm nhiệm vụ
công tố) biết.
Ngày 15/01/1946, trong sắc lệnh số 7/SL đã quy định: "Đứng buộc tội, tùy quyết
định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, sẽ là nhân viên của Công to viện do Chưởng ỉỷ Toà
thượng thẩm chỉ định Như vậy, Công tố viện đã bước đầu được hình thành dưới sự
quản lý, chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Ngày 24/01/1946, sắc lệnh số 13 về tổ chức Toà án và tổ chức các ngạch Thẩm
phán được ban hành. Theo sắc lệnh này, Thẩm phán Công tố viên (Thẩm phán buộc tội)
ra đời, họ là các Thẩm phán đệ nhị làm việc ở các Toà đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm.
Các Thẩm phán Công tố viên này do Chưởng lý đứng đầu.
Hiến pháp năm 1946 được ban hành, theo đó, Nhà nước ta không thành lập cơ
quan thực hành quyền công tố riêng mà quyền công tố và xét xử thuộc về cơ quan tư
pháp là Tòa án. Trong cơ cấu Toà án có Các Thẩm phán Công tố viên (Thẩm phán buộc

Trang 4


tội) hợp thành một đoàn thể độc lập (Công tố viện) do Chương lý đứng đầu. Các Thẩm
phán Công tố viên ở Toà án đệ nhị cấp gọi là Biện lý, Phó biện lý; ở Toà thượng thẩm
gọi là Chưởng lý, Phó chưởng lý, Tham lý. Họ có nhiệm vụ thực hành quyền công tố
trong việc hình và bảo vệ quyền lợi của những người ở tuổi vị thành niên, của các pháp
nhân hành chính và phải tham gia vào một số công việc khác theo quy định của pháp
luật. Đối với Tòa án quân sự, quyền công tố được thực hiện bởi một số Công cáo ủy viên
và Uỷ viên Ban Thanh tra đặc biệt do Chính phủ lập ra..
Năm 1950, thực hiện cuộc cải cách tư pháp, theo sắc lệnh số 85/SL ngày
22/5/1950, Thông tư số 21/TTg ngày 7/6/1950 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư
liên bộ số 18/BKT-TT ngày 8/6/1950 của Bộ Kinh tế và Bộ Tư pháp thì Viện công tố có
quyền kháng nghị cả bản án hay quyết định về dân sự của Toà án và các Viện công tố địa
phương phải chịu sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban kháng chiến hành chính.
Vào cuối những năm 1950, thực hiện Nghị quyết ngày 29/4/1958 của Quốc hội

khoá I và Nghị định số 256/TTg ngày 1/7/1959, Nghị định số 321/TTg ngày 2/7/1959 của
Chính phủ, các Viện công tố đã được tổ chức thành hệ thống gồm:
- Viện công tố Trung ương;
- Viện công tố thành phố, tỉnh;
- Viện công tố huyện và các đơn vị hành chính tương đương;
- Viện công tố quân sự các cấp.
Viện công tố Trung ương thuộc Chính phủ, có trách nhiệm và quyền hạn như một
bộ và các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Điều tra và truy tố trước Toà án những kẻ phạm pháp về hình sự;
- Giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của cơ quan điều
tra;
- Giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án về hình sự,
dân sự và trong hoạt động giam giữ, cải tạo;
- Khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng có liên quan
đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
Có thể nói, những quy định trên đây là bước phát triển quan trọng trong tổ chức
và hoạt động của Viện công tố, tiến tới việc thành lập Viện Kiểm sát nhân dân vào giữa
năm 1960.
1.1.1.2 Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980

Trang 5


Năm 1959, bản Hiến pháp thứ hai của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời,
Viện công tố được thay thế bằng Viện Kiểm sát nhân dân. Viện Kiểm sát nhân dân là cơ
quan tư pháp, chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội.
Năm 1960, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1960 được ban hành để cụ
thể hóa các quy định trong Hiến pháp năm 1959. Theo quy định tại Điều 4 của luật này
thì các Viện Kiểm sát nhân dân gồm có: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện Kiểm
sát nhân dân địa phương và các Viện Kiểm sát quân sự. Các Viện Kiểm sát nhân dân địa

phương gồm có: Viện Kiếm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn
vị hành chính tương đương; Viện Kiếm sát nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã
hoặc đơn vị hành chính tương đương, Viện Kiểm sát nhân dân ở các khu vực tự trị.
Viện Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư,
chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa
phương, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước và công dân;
- Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Toà án nhân dân
những người phạm pháp về hình sự;
- Kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an và của
cơ quan điều tra khác, trong việc xét xử của Toà án nhân dân và trong việc chấp hành các
bản án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của trại giam;
- Khởi tố hoặc tham gia tố tụng những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến
lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
1.1.13 Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm
1980. Hiến pháp năm 1980 quy định: “Viện Kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cẩp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân cẩp trên, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự
lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng, các
Phó Viện trưởng vò Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân toi cao bo nhiệm VÀ bãi nhiệm”. Như vậy, Hiến pháp năm 1980
đã nhấn mạnh đến chức năng “thực hành quyền công tố” của Viện Kiểm sát, đồng thời đã
đề cao vai trò và trách nhiệm của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong thời gian này, Quốc hội khoá VII đã thông qua Luật tổ chức Viện Kiểm sát
nhân dân năm 1981 và được sửa đổi, bổ sung vào năm 1989. Luật này đã quy định cụ thể,

Trang 6



chi tiết hơn rất nhiều về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc giải
quyết các vụ án hình sự, dân sự và khi thực hiện công tác kiểm sát chung. Những quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Kiểm sát là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng
được giữ nguyên so với Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
1.1.1.4 Giai đoạn từ năm 1992 đến nay
Năm 1992, bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới được ra đời, và để cụ thể hoá
những quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát
nhân dân, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1992 và Uỷ
ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về tổ chức Viện Kiểm sát quân sự, Pháp
lệnh về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân.
Theo đó, tố chức và hoạt động của Viện Kiếm sát nhân dân đã có những đối mới
cơ bản như sau:
- Uỷ ban Kiểm sát không còn là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng nữa. Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp tinh không
được quyền tự quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm
sát nhân dân mà những vấn đề quan trọng phải được Uỷ ban Kiểm sát thảo luận và quyết
định theo đa số.
- Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng
nhân dân cùng cấp; chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi
hành pháp luật ở địa phương; trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Viện Kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hậu quả của
các quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu do mình ban hành; nếu ra văn bản trái
pháp luật thì tuỳ theo tính chất và mức độ sai phạm mà người ra vãn bản bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Các tiêu chuẩn Kiểm sát viên đã được đổi mới và quy định cụ thể hơn bằng
Pháp lệnh kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 1992.
Cùng với việc thành lập Viện Kiểm sát nhân dân ở 3 cấp, Viện Kiểm sát quân sự
cũng được tổ chức ở 3 cấp là cấp khu vực; cấp quân khu và tương đương; cấp trung
ương.
Để phù họp với nội dung, yêu cầu và tiến trình của công cuộc đổi mới, ngày

2/4/2002 Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 thay thế
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992. Một nội dung quan trọng được đổi mới
đó là Viện kiểm sát nhân dân không còn thực hiện chức năng kiểm sát chung mà được

Trang 7


giới hạn lại ở chức năng kiếm sát các họat động tư pháp. Pháp lệnh kiếm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân năm 1992 cũng được thay thế bằng Pháp lệnh kiểm sát viên Viện kiếm
sát nhân dân năm 2002 quy định các tiêu chuẩn của kiểm sát viên.
Như vậy, về mặt cơ cấu tổ chức, sau khi ban hành Hiến pháp năm 1992, về cơ
bản, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã kiện toàn và đổi mới một bước quan trọng. Với
cơ cấu tổ chức như vậy, Viện kiểm sát nhân dân đã đạt được những kết quả nhất định, tạo
nên một số chuyển biến tích cực trong hoạt động tư pháp ở nước ta, cùng với các cơ quan
nhà nước khác thực hiện một cách có hiệu quả đường lối đối mới của Đảng và Nhà nước.
1.1.2 Vị trí pháp lý và vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà
nước
1.1.2.1 Vị trí pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân
Theo Hiến pháp năm 1992, Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận họp thành của
bộ máy nhà nước ta. Để tìm hiểu về vị trí pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân, ta có thể
tham khảo sơ đồ bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992:

Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992

Trang 8


Theo sơ đồ trên, ta thấy Viện kiếm sát nhân dân được tố chức và họat động theo
chế độ tập trưng thống nhất, lãnh đạo trong ngành, không thuộc bất cứ cơ quan nào, tồn
tại như một hệ thống độc lập có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước do

Quốc hội bàu ra và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Chính vị trí độc lập trong bộ máy
nhà nước là nhân tố đảm bảo cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng của mình
một cách có hiệu quả. Điều đó được thể hiện qua một số điểm sau:
- Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng thực hiện quyền công
tố. Đây là chức năng quan trọng mà luật đã quy định, cho phép phân biệt vị trí của Viện
kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước ta với các cơ quan khác của Nhà nước. Đó là
quyền truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa hay quyền phê chuẩn, thay đổi hoặc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn.
- Ngoài Viện kiểm sát nhân dân không có cơ quan chức năng nào thực hiện việc
kiểm sát các họat động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng đặc thù của
mình trong các trường hợp luật định như: kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm
sát giải quyết các vụ án dân sự, kiểm sát thi hành án, đồng thời cũng có một số thẩm
quyền khác nhu: kiến nghị, kháng nghị... mà hầu hết các cơ quan khác không có hoặc có
không đầy đủ.
- Họat động của Viện kiểm sát nhân dân luôn xuất phát từ luật, điều này có nghĩa
là trong khi thi hành nhiệm vụ, Viện kiểm sát nhân dân không làm theo mệnh lệnh của
bất kỳ người nào, cơ quan nào nếu không phải do pháp luật quy định hay trái với quy
định của pháp luật.
Do vị trí đặc thù nêu trên nên trong họat động của mình Viện kiếm sát nhân dân
luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan khác nhằm đảm bảo họat động của mình
đạt hiệu quả cao.
1.1.2.2 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dãn
Trong quá trình họat động, với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân đã được khẳng định trong thực
tiễn như sau:
- Góp phần phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm cũng như đại diện cho nhà nước phát
hiện làm rõ và tmy cứu trách nhiệm hình sự với người có hành vi phạm tội. Vai trò này
được thể hiện chủ yếu thông qua việc thực hiện chức năng công tố và kiểm sát họat động
tư pháp của Viện kiểm sát.


Trang 9


- Đảm bảo cho việc phát hiện tội phạm và người phạm tội một cách chính xác,
khách quan, đày đủ trong tất cả các giai đọan tố tụng. Vai trò này được thể hiện trong
việc Viện kiểm sát được quyền phê chuẩn việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp như tạm
giam, tạm giữ, khám xét tang vật...
1.1.3 Chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà
nước
1.1.3.1 Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện các chức năng sau:
- Thực hành quyền công tố: chức năng này chỉ thể hiện trong tố tụng hình sự,
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng
- Kiểm sát các họat động tư pháp: bao gồm kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trong việc xét xử các vụ án hình sự;
trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao
động và những việc khác theo quy định của pháp luật; trong việc thi hành bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân; trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù.
Khác với các Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trước đây (Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960, 1981, 1992), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 đã đặt chức năng thực hành quyền công tố - đây là chức năng đặc thù chỉ có ở Viện
kiếm sát nhân dân - lên trên chức năng kiếm sát họat động tư pháp và coi đó là chức năng
cơ bản nhất nhân danh công quyền của Viện kiểm sát nhân dân. Theo Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát nhân dân cũng không còn thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế xã
hội, các đơn vị lực lượng vũ trang và công dân trong lĩnh vực hành chính, kinh tế xã hội
(còn gọi là chức năng kiểm sát chung), mà thay vào đó là chức năng kiểm sát các họat

động tư pháp. Đây là chức năng quan trọng mà luật giao cho Viện kiểm sát nhân dân đảm
nhiệm, cho phép phân biệt vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước với
các cơ quan khác của Nhà nước.
1.1.3.2 Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
Theo Điều 126 Hiến pháp 1992 và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 quy định Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ sau đây:

Trang 10


- Bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa;
- Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân;
- Bảo vệ tài sản của nhà nuớc, tập thể;
- Bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do danh dự và nhân phẩm của công
dân.
Trong bốn nhiệm vụ nêu trên thì nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa được
đặt lên hàng đầu. Sở dĩ như vậy là vì xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân.
Mặt khác, pháp chế xã hội chủ nghĩa là phưong pháp, là công cụ thực hiện quyền lực nhà
nước, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì thế nhiệm vụ bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất bao giờ cũng là nhiệm vụ chủ yếu của
Viện kiểm sát nhân dân và là cơ sở để thực hiện chức năng và nhiệm vụ khác.
Viện kiểm sát nhân dân phải đảm bảo mọi hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà
nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích họp pháp của công dân đều bị phát hiện và xử
lý kịp thời, đúng pháp luật. Đây là nhiệm vụ đồng thời cũng là nguyên tắc họat động của
Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình.
Trên đây là những nhiệm vụ chung và cơ bản của Viện kiểm sát nhân dân được
quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, nó cần được thực hiện
đầy đủ ở các cấp kiểm sát và trong công tác kiểm sát cụ thể. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát
nhân dân còn thực hiện nhiệm vụ cụ thể (tức là nhiệm vụ trước mắt) đề ra đối với từng
cấp tố chức kiếm sát và tùy từng địa phương khác nhau, phù họp với nhiệm vụ trọng tâm

mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong từng thời kỳ.
1.1.4 Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Là một bộ phận họp thành của bộ máy nhà nước, hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân cũng tuân theo các nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước như: nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân dân lao động tổ chức nên bộ máy nhà nước và tham
gia quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát nhân dân cũng hoạt động theo những
nguyên tắc riêng phù họp với tính chất đặc thù của ngành.
Theo Điều 13 Hiến pháp 1992 và Điều 8 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân gồm hai
nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tập trung lãnh đạo thống nhất trong ngành;

Trang 11


- Nguyên tắc độc lập không lệ thuộc vào bất kỳ một cơ quan nào ở địa phương.
1.1.4.1 Nguyên tắc tập trung lãnh đạo thống nhất trong ngành
Theo nguyên tắc này thì toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung
phải đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiếm sát nhân dân tối cao và cơ quan này
phải chịu trách nhiệm về hoạt động của toàn ngành kiểm sát trước Quốc hội, Chủ tịch
nước, ủy ban thường vụ Quốc hội. Còn ở mỗi Viện kiểm sát nhân dân nói riêng phải đặt
dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng. Chính Viện trưởng là người có quyền và
trách nhiệm quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân và
chịu trách nhiệm cá nhân về mọi công việc của mình trước Viện kiểm sát nhân dân tối
cao. Nhưng Viện trưởng không quyết định vấn đề một cách độc đoán mà trên cơ sở bàn
bạc tập thể thông qua ủy ban kiểm sát để thảo luận những vấn đề quan trọng như:
phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác...
Nguyên tắc này không có nghĩa là hệ thống Viện kiểm sát nhân dân hoạt động
theo nguyên tắc riêng biệt, không liên quan đến nguyên tắc tổ chức và hoạt động chung

của bộ máy nhà nước ta mà nó nhằm đảm bảo hệ thống Viện kiểm sát nhân dân hoạt
động đồng bộ và có tính thống nhất cao ở tất cả các cấp kiểm sát nhằm nâng cao hiệu quả
công tác. Như đã biết, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có chức năng bảo vệ pháp luật,
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, do vậy đòi
hỏi cơ quan kiểm sát phải độc lập, không chịu sự chi phối của bất kỳ cơ quan nào khác.
Chẳng hạn, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của các cơ
quan tư pháp, ngược lại, nếu Viện kiểm sát nhân dân lại chịu sự lãnh đạo của các cơ quan
đó thì sẽ không đảm bảo được tính khách quan trong hoạt động của Viện kiểm sát.
1.1.4.2 Nguyên tắc độc lập không lệ thuộc vào bất kỳ một cơ quan nào ở diu
phương
Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở chỗ các Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối của các cơ quan
nhà nước khác ở địa phương mà chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, Viện kiểm sát nhân dân chỉ phụ thuộc vào Hiến
pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
Như vậy, khác với chính quyền và các cơ quan quản lý khác ở địa phương là một
mặt trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ chủ quản, mặt khác phải thuộc Hội đồng nhân dân
hoặc ủy ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân không tổ chức theo nguyên tắc phụ thuộc

Trang 12


hai chiều như vậy. Tuy nhiên, để tránh lạm dụng quyền lực, Điều 142 Hiến pháp năm
1992 và Điều 9 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã quy định “Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân địa phương phải báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân; trả
lời chất vấn kiến nghị, yêu cầu của Đại biểu Hội đồng nhân dân”.
về mặt tổ chức, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ máy
làm việc và biên chế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách

chức Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương. Sự độc lập trong tổ chức tạo điều kiện thuận lợi để các Viện kiểm sát nhân dân
độc lập trong hoạt động.
Nguyên tắc này cũng có ý nghĩa đảm bảo tính độc lập, khách quan trong hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân. Như đã biết, Kiểm sát viên được bổ nhiệm theo từng
nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ là 5 năm. Giả sử Viện kiếm sát nhân dân là cơ quan trực thuộc
Hội đồng nhân dân địa phương và Hội đồng nhân dân địa phương có quyền bổ nhiệm, bãi
nhiệm Kiểm sát viên thì trong hoạt động của Kiểm sát viên luôn chịu sự chi phối của Hội
đồng nhân dân và như vậy sẽ không đảm bảo được chức năng mà pháp luật đặt ra cho cơ
quan kiểm sát.
1.1.5 Hệ thống viện kiểm sát nhân dân
Viện kiếm sát nhân dân được thành lập hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương
theo 3 cấp: trung ương, tỉnh và huyện, phù họp với mô hình tổ chức bộ máy nhà nước ta.
Theo Điều 30, 31 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định hệ
thống Viện kiếm sát nhân dân bao gồm:
- Viện kiếm sát nhân dân tối cao;
- Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung
là Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh);
- Các Viện kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện);
- Các Viện kiểm sát quân sự.
1.1.5.1 Viện kiểm sát nhân dãn tối cao
Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: ủy ban kiểm sát, cục, vụ, viện, văn
phòng và Trường bồi dưỡng đào tạo nghiệp vụ kiểm sát.

Trang 13


Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan tư pháp ở trung ương và địa phương và thực hành quyền công tố Nhà

nước bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.1.5.2 Viện kiểm sát nhân dân cấp tính
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có: ủy ban
kiểm sát, các phòng và văn phòng.
Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan tư pháp ở cấp mình và thực hành quyền công tố ở cấp mình.
1.1.5.3 Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Viện kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh gồm có: các bộ phận
công tác và bộ máy giúp việc do Viện trưởng và các Phó Viện trưởng phụ trách.
Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện cũng thực hiện chức năng kiểm sát như Viện
Kiểm sát nhân dân cấp tình, nhưng chỉ trong phạm vi cấp huyện của mình.
1.1.5.4 Các Viện kiểm sát quân sự
Các Viện kiểm sát quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam, gồm
có Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương,
Viện kiểm sát quân sự khu vực.
Các Viện Kiểm sát quân sự được tổ chức trong quân đội, kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với các cơ quan tư pháp ừong hệ thống quân đội nhân dân và thực hành
quyền công tố Nhà nước theo quy định của pháp luật

1.2 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỀM SÁT NHÂN DÂN CẤP
HUYỆN
1.2.1 Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
1.2.1.1 Cơ cẩu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Viện kiểm sát nhân dân nhân dân quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi
chung là Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện) gồm có các bộ phận công tác do Viện
trưởng, các Phó Viện trưởng và một số kiểm sát viên phụ trách theo sự phân công của
Viện trưởng. Bộ máy làm việc và biên chế của Viện kiểm sát nhân dân cấp này do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định. Theo Điều 1 Quyết định

Trang 14



121/2003/QĐ-VTC ngày 19/4/2003 quy định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện gồm có các bộ phận công tác sau đây:
- Bộ phận thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm
sát vịêc tạm giữ, tạm giam;
- Bộ phận giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh tế,
lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, kiểm sát thi hành án;
- Bộ phận văn phòng tổng họp, thống kê tội phạm và khiếu tố.
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện không có ủy ban kiểm sát như đối với cấp tỉnh
và trung ưomg mà chỉ có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc do Viện trưởng và
Phó Viện trưởng phân công.
1.2.1.2 Cơ cẩu nhân sự của Viện kiểm sát nhăn dân cấp huyện
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện gồm có: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và
Kiểm sát viên.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện do Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; có trách nhiệm lãnh đạo họat động
của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình; chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; đồng thời chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân; trả lời chất vấn, kiến nghị,
yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện do Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Phó Viện trưởng giúp Viện trưởng
làm nhiệm vụ theo sự phân công của Viện trưởng. Khi Viện trưởng vắng mặt, một Phó
Viện trưởng được Viện trưởng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Viện kiểm sát.
Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện cũng do Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao bổ nhiệm và miễn nhiệm. Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ thực
hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền Viện kiểm sát cấp
mình theo phân công của Viện trưởng và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng. Khi thực

hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên phải tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
Viện trưởng Viện kiếm sát cấp mình, sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiếm
sát nhân dân tối cao.

Trang 15


1.2.2 Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện cũng giữ hai chức năng chung mà pháp luật đã
quy định cho Viện kiểm sát nhân dân đó là chức năng thục hành quyền công tố và kiểm
sát các họat động tư pháp. Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hiện các
chức năng này trong phạm vi thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình. Cụ thể,
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hiện các chức năng sau:
1.2.2.1 Thực hành quyển công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của cơ quan điều tra cấp huyện. Theo Điều 110
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Cơ quan điều tra cấp huyện điều tra những vụ án hình
sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình hoặc tội phạm được phát hiện trên địa phận
của mình hoặc bị can cư trú, bị bắt ừên địa phận huyện mình về những tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện. Cũng theo bộ luật này, Điều 170, Tòa
án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
- Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
- Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222,
223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự năm 1999.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay
đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;

- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật;
- Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của
pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các
biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều
tra theo quy định của pháp luật;
- Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra;

Trang 16


- Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra;
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Kiểm sát việc khởi tố; kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án
của cơ quan điều tra;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
- Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra theo quy định của pháp luật;
- Yêu càu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động
điều tra; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi
phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;
- Kiến nghị với cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
1.2.2.2 Thực hành quyển công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm
sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải
quyết vụ án tại phiên tòa;

- Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm;
- Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án tại
phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân
có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
- Kiểm sát các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của
pháp luật;

Trang 17


- Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án
hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.
1.2.2.3 Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dãn sự, hôn nhân và gia đinh, hành
chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng này đối với những vụ việc
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện mình, trừ những vụ việc có
đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự
của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài, về những vụ việc dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện được quy định trong Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004.
Khi thực hiện chức năng này, Viện kiếm sát nhân dân có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
- Kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án; yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc tự mình
xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;

- Khởi tố vụ án theo quy định của pháp luật;
- Tham gia các phiên Tòa và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân
về việc giải quyết vụ án;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
- Kiểm sát các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân;
- Yêu cầu Tòa án nhân dân áp dụng những biện pháp khẩn cấp tạm thời theo
quy định của pháp luật;
- Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án
dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy
định của pháp luật để xem xét, quyết định việc kháng nghị.
1.2.2.4 Kiểm sát việc thi hành án
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hiện việc kiểm sát thi hành án đối với
những bản án đã được Tòa án nhân dân huyện mình xét xử và đã ra quyết định thi hành.
Khi thực hiện công tác kiểm sát thi hành án, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:

Trang 18


- Yêu cầu Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới, Chấp
hành viên, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án:
+ Ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật;
+ Tự kiểm tra việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật và thông báo
kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát nhân dân;
+Thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án,
quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật;
+ Cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án;

- Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án của cơ quan
thi hành án cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá
nhân có liên quan và việc giải quyết kháng cáo, khiếu nại, tố cáo đối với việc thi hành án;
- Tham gia việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích;
- Đề nghị miễn chấp hành hình phạt theo quy định của pháp luật;
- Kháng nghị với Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp
dưới,chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm trong việc thi hành án; yêu
cầu đình chỉ việc thi hành án, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong
việc thi hành án, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật ừong việc thi hành án; nếu có dấu
hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; trong trường họp do pháp luật quy định thì khởi tố
về dân sự.
1.2.2.5 Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản ỉý và giáo dục người chấp hành
án phạt tù
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hiện công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù đối với những người đang chấp
hành hình phạt tù trên địa phận huyện mình.
Khi thực hiện chức năng này, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
- Thường kỳ và bất thường trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam và
trại giam;
- Kiểm tra hồ sơ, tài liệu của cơ quan cùng cấp và cấp dưới có trách nhiệm tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; gặp, hỏi người bị tạm
giữ, tạm giam và người chấp hành án phạt tù về việc giam, giữ;

Trang 19


- Tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc tạm giữ, tạm giam, quản lý
và giáo dục người chấp hành án phạt tù;
- Yêu cầu cơ quan cùng cấp và cấp dưới quản lý nơi tạm giữ, tạm giam, quản lý

và giáo dục người chấp hành án phạt tù kiểm tra những nơi đó và thông báo kết quả cho
Viện kiểm sát nhân dân;
- Yêu cầu cơ quan cùng cấp, cấp dưới và người có trách nhiệm thông báo tình
hình tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; trả lời về quyết
định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý
và giáo dục người chấp hành án phạt tù;
- Kháng nghị với cơ quan cùng cấp và cấp dưới yêu cầu đình chỉ việc thi hành,
sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản
lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và yêu
cầu xử lý người vi phạm pháp luật.
Đồng thời, trong quá trình thực hiện công tác này, Viện kiểm sát nhân dân có trách
nhiệm:
- Phát hiện và xử lý kịp thời các trường họp oan, sai trong tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; quyết định trả tự do ngay cho người bị
tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái pháp luật;
- Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và
giáo dục người chấp hành án phạt tù thì khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố về
hình sự.

Trang 20


×