Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.1 KB, 67 trang )

Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHồALUẬT
Bộ MÔN LUẬT KINH DOANH THƯƠNG MẠI
EO CŨI ca

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP cử NHÂN LUẬT
KHÓA 33 (2007 -2011)
Đầ tài:

THỰC TIỄN VÈ HOẠT ĐỘNG KHUYÊN MẠI
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CUNG CẤP MẠNG
THÔNG TIN DI ĐỘNG

Giáo viên hướng dẫn:
Ths. Nguyễn Mai Hân

Sinh viên thực hiện:
Phạm Mỹ Anh
MSSV: 5075086
Lóp: Luật Thương mại 1 - K33

Thơ, 04/2011
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

SVTH: Phạm Mỹ Anh


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động



NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

SVTH: Phạm Mỹ Anh


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐÀU..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI YÀ
DOANH NGHIỆP CUNG CẮP MẠNG THÔNG TIN DI ĐỘNG.....................3
1.1...........................................................................................................................Khái
quát chung về hoạt động khuyến mại.......................................................... 3
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm....................................................................................3
1.1.1.1. Khái niệm...................................................................................................4
1.1.1.2. Đặc điểm....................................................................................................4
1.1.2. Ý nghĩa của hoạt động khuyến mại................................................................6
1.1.3. Sự hình thành, phát triển của hoạt động khuyến mại và pháp luật về hoạt
động khuyến mại............................................................................................................7
1.2.

Khái quát về những doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động
trên

thị trường Yiệt Nam hiện nay...................................................................................10
1.3.


Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối vói hoạt động khuyến
mại

của các mạng thông tin di động................................................................................14
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH ĐÓI VỚI HOẠT ĐỘNG KHUYẾN
MẠI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CUNG CẮP MẠNG THÔNG TIN DI
ĐỘNG.....................................................................................................................18
2.1...........................................................................Chủ thể thực hiện khuyến mại
......................................................................................................................... 18
2.2...........................................................................................................................Quy
ền và nghĩa vụ của chủ thể thực hiện khuyến mại......................................19
2.2.1. Quyền của chủ thể thực hiện khuyến mại......................................................19
2.2.2. Nghĩa vụ của chủ thể thực hiện khuyến mại..................................................21
2.3.

Hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng để

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

SVTH: Phạm Mỹ Anh


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

dịch vụ thấp hơn trước đó........................................................................................33
2.6.4. Bán hàng hóa, cung ủng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng,
phiếu sử dụng vụ.......................................................................................................36
2.6.5. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng
để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bổ..........................37

2.6.6. Bản hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo việc tham dự các chương
trình khuyến mại mang tỉnh may rủi........................................................................37
2.6.7. Tố chức chương trình khách hàng thường xuyên.........................................39
2.6.8. Tố chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa,
nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại.............................40
2.7.................................................................................................................... C
ác hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại....................................40
2.8.................................................................................................................... Tr
ình tự, thủ tục thông báo và đăng ký thực hiện khuyến mại...............42
2.9.

Xử lý vi phạm trong hoạt động khuyến mại đối vói các doanh
nghiệp

di động.........................................................................................................................44
2.9.1. Xử /ý vị phạm hành chỉnh.............................................................................44
2.9.2. Xử lý vi phạm hình sự trong hoạt động khuyến mại.....................................49
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN VÈ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP CUNG CẮP MẠNG THÔNG TIN DI ĐỘNG YÀ MỘT

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

SVTH: Phạm Mỹ Anh


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

LỜI NÓI ĐẦU

1.1.

Lý do chọn đề tài
Ở bất kỳ thời nào thì nhu cầu trao đổi thông tin giữa các cá nhân trong xã hội
với nhau là một điều cần thiết. Hom nữa, trong thời đại ngày nay nhu cầu, trao đổi,
giao lum, học tập, nghiên cứu, tiến hành các hoạt động thưcmg mại của con người diễn
ra một cách thường xuyên và mạnh mẽ không phải trong phạm vi quốc gia mà còn
vượt ra ngoài phạm vi khu vực và quốc tế. Ngày nay, do sự phát triển của khoa họccông nghệ, mọi người có thể trao đổi, liên lạc với nhau bằng những phưomg tiện hiện
đại, trong đỏ hình thức trao đổi thông tin bằng điện thoại di động là một phưomg thức
trao đổi hiệu quả được rất nhiều người sử dụng. Nếu như trước đây, số người sử dụng
điện thoại di động ở Việt Nam rất ít, đa số chỉ có giới kinh doanh và người giàu có thì
ngày nay hầu hết mọi người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể sử dụng điện
thoại di động. Do đó, số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực viễn thông chuyên về
cung cấp mạng thông tin di động cũng tăng lên. Từ năm 1993, ở Việt Nam chỉ có duy
nhất một công ty hoạt động chuyên về lĩnh vực này là MobiFone, thì đến thời điểm
hiện tại Việt Nam đã có đến 7 doanh nghiệp chính thức được cấp phép cung cấp các
dịch vụ về thông tin di động. Điều này cho thấy tính cạnh tranh trong lĩnh vực này
ngày một tăng lên. Trong một thời gian dài, thị trường viễn thông Việt Nam chứng
kiến những cuộc đua tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin
di động với nhau bằng những hình thức khuyến mại hấp dẫn, rầm rộ, nhằm lôi kéo
khách hàng về phía mình và làm tăng thị phàn của những doanh nghiệp trên thị
trường.
Đề cập đến hoạt động khuyến mại thì đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề này, tuy nhiên hoạt động khuyến mại trong lĩnh vực cung cấp mạng thông tin di
động thì chưa được quan tâm nhiều. Thêm vào đó, cùng với sự phát triển của ngành
thông tin di động và sự bùng nổ của những chương trình khuyến mại của các doanh
nghiệp cung cấp mạng thông tin di động trong thời gian qua, dẫn đến tình trạng cạnh
tranh quyết liệt giữa những doanh nghiệp với nhau trong lĩnh vực này mang biểu hiện
không lành mạnh. Với mong muốn tìm hiểu những quy định của pháp luật về hoạt
động khuyến mại trong lĩnh vực thông tin di động, cũng như việc vận dụng những quy
định này trong thực tiễn như thế nào. Chính vì những 11 do này, người viết đã chọn đề
tài “Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng

thông tin di động” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

1

SVTH: Phạm Mỹ Anh


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

1.2.

Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu, lảm sáng tỏ những quy định của pháp

luật hiện hành về hoạt động khuyến mại trong lĩnh vực thông tin di động, tình hình
khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động trên thị trường.
Từ đó, đưa ra những biện pháp đề xuất hoàn thiện nhằm góp phàn mang lại lợi ích
thật sự cho người sử dụng dịch vụ cũng như thị trường thông tin di động Việt Nam,
giúp hoạt động khuyến mại đặc biệt là hoạt động khuyến mại trong lĩnh vực thông tin
di động diễn ra ổn định và trật tự hom.
1.3.

Phạm vi nghiên cứu
Đe tài tập trung nghiên cứu lý luận về hoạt động khuyến mại cũng như pháp

luật điều chỉnh đối với hoạt động khuyến mại trong lĩnh vực mạng thông tin di động.
Những chế tài xử lý vi phạm hành chính và hình sự khi thương nhân vi phạm các quy
định pháp luật về hoạt động khuyến mại. Tình hình khuyến mại của các doanh nghiệp

mà chủ yếu là các chương trình khuyến mại dành cho đối tượng khách hàng là các thuê
bao trả trước, thuê bao trả sau sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp di động.
1.4.

Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, người viết đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu:

phương pháp phân tích luật viết, phương pháp so sánh, sưu tầm, tổng họp, phân tích tài
liệu.
1.5.

Kết cấu của luận văn
Ngoài lời đầu, phần kết luận thì nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về hoạt động khuyến mại và các doanh nghiệp cung

cấp mạng thông tin di động trên thị trường Việt Nam. Tập trung nghiên cứu những cơ
sở lý luận chung về hoạt động khuyến mại và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp
luật đối với hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di
động.
Chương 2: Đi sâu vào phân tích các quy định của pháp luật hiện hành điều
chỉnh đối với hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di
động.
Chương 3: Tìm hiểu về tinh hình khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp
mạng thông tin di động trên thị trường trong thời gian qua và đưa ra một số đề xuất
nhằm góp phần hoàn thiện hơn về hoạt động này.
Do đây là một đề tài tương đối rộng và khá mới cùng với sự ảnh hưởng của
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

2


SVTH: Phạm Mỹ Anh


1

2

3

Minh Tân, Thanh
điển tiếng việt,Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng
tr. 808.
TS. Nguyễn Thi Dung, Pháp luật về xúc tiến thương mại ở Việt Nam những vẩn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tì-. 45.
Hoàng Trọng và Hoàng Thị Phưorng Thảo, Quản trị chiêu thị, Nxb. Thống kê, 1999, te. 330.

Nghi, Xuân Lãm, Từ
Thanh Hóa, 1998,

thông tin di động Nxb.

CHƯƠNG1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI
VÀ DOANH NGHIỆP CUNG CẤP MẠNG THÔNG TIN DI ĐỘNG
1.1.
Khái quát chung về hoạt động khuyến mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
l.l.l.l. Khái niệm
Theo từ điển tiếng việt “mãi” là mua, “mại” là bán 1 khuyến mãi có ý nghĩa là
khuyến khích mua hàng, còn khuyến mại có nghĩa là khuyến khích bán ra. Xét trên hai

phưong diện: đom vị kinh doanh (người bán) và người tiêu dùng (người mua), khi đom
vị kinh doanh muốn gia tăng doanh số bán hàng (hoặc gia tăng thị phần) họ có thể
dùng một chưomg trình khuyến khích bán hàng hóa, dịch vụ, chưcmg trình đó đứng về
phía đom vị kinh doanh được gọi là chưcmg trình khuyến mại (chưcmg trình kích thích
bán hàng), về phía người tiêu dùng khi đom vị kinh doanh tung ra chưcmg trình kích
thích người tiêu dùng mua nhiều sản phẩm và sử dụng dịch vụ nhiều hom sẽ được gọi
là chưomg trình khuyến mãi (chưcmg trình kích thích người tiêu dùng mua hàng).
Đứng về phía người bán thì gọi là khuyến mại, đứng về phía người mua thì gọi là
khuyến mãi. Do việc mua bán được tiến hành đồng thời nên cả hai thuật ngữ này đều
có thể sử dụng được2. Thông tin khuyến mãi hay khuyến mại giúp cho khách hàng
(người tiêu dùng) hiểu rằng doanh nghiệp đang có chính sách ưu đãi nào đó dành cho
khách hàng.
Theo Hiệp hội tiếp thị Mỹ định nghĩa “khuyến mãi là hoạt động tiếp thị khác
với hoạt động bán hàng trực tiếp, quảng cáo và tuyên truyền nhằm kích thích người
tiêu dùng mua hàng và làm tăng hiệu quả các đại lý”. Trong khi đó hiệp hội các công
ty quảng cáo của Mỹ lại đưa ra định nghĩa “khuyến mãi là bất kỳ hoạt động nào tạo ra
một động cơ để mua sản phẩm ngoài các lợi ích vốn có của sản phẩm”.3
Dưới góc độ pháp lý, các nhà làm luật không gọi là “khuyến mãi” mà là
“khuyến mại” và từ này được dùng ở hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật. Theo
khoản 1 Điều 88 Luật Thương mại năm 2005 định nghĩa “khuyến mại là hoạt động xúc
tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”.
Tại Điều 108 Luật Thương mại năm 1997 định nghĩa “ khuyến mại là hành vi

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

3

SVTH: Phạm Mỹ Anh



Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

xúc tiến thưomg mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc bán hàng, cung ứng dịch vụ
trong phạm vi kinh doanh của thương nhân bằng cách dành những lợi ích nhất định
cho khách hàng”. Như vậy so với Luật Thương mại 1997, Luật Thương mại hiện hành
khi định nghĩa về hoạt động khuyến mại có bổ sung thêm về mục đích khuyến mại.
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bên cạnh mục đích tìm kiếm cơ hội để
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, tiêu thụ hết số lượng sản phẩm làm ra nhằm đem lại
lợi nhuận cho doanh nghiệp và làm tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường.
Một mục đích khác cũng không kém phần quan trọng, là một trong những yếu tố đầu
tiên tạo nên sản phẩm, đó là quá trình tìm kiếm, thu mua nguyên nhiên liệu. Hoạt động
khuyến mại trong giai đoạn thu mua hàng hóa, nguyên liệu cũng là một trong những
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần tạo ra một sản phẩm có chất lượng,
tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Đây là quá trình tất yếu không thể tách rời từ khâu
tìm nguồn nguyên liệu cho đến khi sản phẩm, dịch vụ đến được với khách hàng. Để
kịp thời điều chỉnh vấn đề này, Luật Thương mại năm 2005 đã bổ sung thêm hoạt động
khuyến mại không chỉ là xúc tiến việc bán hàng, cung ứng dịch vụ mà khuyến mại còn
nhằm xúc tiến cho việc mua hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Ở bất kỳ khía cạnh nào, dưới những cách tiếp cận khác nhau, thì trong hoạt
động kinh doanh thương mại khuyến mại là một hoạt động không thể thiếu với mục
đích khuyến khích và lôi kéo khách hàng về phía mình mang lại lợi nhuận tối đa cho
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đứng vững và ngày càng phát triển.
1.1.1.2. Đặc điểm
Hoạt động khuyến mại là một bộ phận của hoạt động xúc tiến thương mại của
thương nhân, hay nói cách khác khuyến mại là một trong những cách thức để thương
nhân tiến hành xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ. Do đó khuyến mại mang đầy đủ bản chất của hoạt động xúc tiến thương
mại. Tuy nhiên, tùy theo tình hình, chiến lược, từng giai đoạn trong quá trình kinh
doanh mà thương nhân có thể lựa chọn những hình thức xúc tiến thương mại phù họp

với doanh nghiệp mình. Ngoài những đặc điểm chung của hoạt động xúc tiến thương
mại, khuyến mại còn mang những đặc điểm riêng biệt mà thương nhân có thể lựa chọn
lảm một biện pháp xúc tiến thương mại hiệu quả phù họp với chiến lược kinh doanh
của doanh nghiệp mình. Khuyến mại mang những đặc điểm cơ bản sau:
- về bản chất: khuyến mại cũng như những hoạt động xúc tiến thương mại khác
là hoạt động thương mại có tác dụng thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội thực hiện các hoạt động
thương mại khác như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm hoạt động sinh lời trực tiếp và hoạt động
không có tác dụng sinh lời trực tiếp. Với tác dụng thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, các hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

4

SVTH: Phạm Mỹ Anh


4

TS. Nguyễn Thi
tiến thương mại ở Thực tiễn về
lý luận và thực tiễn,
Chính trị quốc bày,
gia, giới thiệu
tì". 34.

Dung, Pháp luật về xúc

hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động Việt Nam những vẩn đề
Nxb.


hàng hóa và dịch vụ, hội chợ, triển lãm thương mại là những hoạt động Hà Nội, 2007,

thương mại không có tác dụng sinh lời trực tiếp. Giá trị thương mại của những hành vi
này thể hiện ở tác dụng kích thích nhu cầu của khách hàng, tác động tới thái độ và
hành vi mua sắm của khách hàng để thông qua đó, thỏa mãn nhu cầu lợi nhuận của
thương nhân4
- Chủ thể hành vi khuyến mại: là thương nhân và các tổ chức, cá nhân khác hoạt
động liên quan đến thương mại. Thương nhân có thể tự mình thực hiện khuyến mại
cho hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh, hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch
vụ khuyến mại thực hiện việc khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của mình. Trước đây
Luật Thương mại năm 1997 không quy định về dịch vụ khuyến mại là một thiếu sót,
thực tế quan hệ thương mại rất đa dạng, việc một thương nhân thuê một thương nhân
khác chuyên cung cấp dịch vụ khuyến mại mang tính chuyên nghiệp hơn thực hiện
chiến lược khuyến mại cho sản phẩm của mình, qua đó hiệu quả của hoạt động khuyến
mại sẽ tốt hơn, hình ảnh của sản phẩm và tên tuổi của doanh nghiệp sẽ được nâng lên.
Đáp ứng được yêu cầu thực tế đó, Luật Thương mại năm 2005 đã kịp thời điều chỉnh
những quan hệ kinh tế mới phát sinh, làm cơ sở cho hình thức kinh doanh dịch vụ
khuyến mại và thương nhân chuyên kinh doanh về dịch vụ này hoạt động theo một
khuôn khổ nhất định và ổn định hơn, quyền và lợi ích được đảm bảo hơn.
- Cách thức xúc tiến khuyến mại: là dành cho khách hàng những lợi ích nhất
định, những lợi ích này có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử, được giảm giá, tham
gia các chương trình may rủi, tham gia các chương trình văn hóa nghệ thuật....
- Mục đích của khuyến mại: là xúc tiến việc bán hàng và cung ứng dịch vụ
nhằm làm tăng doanh số bán hàng, sử dụng dịch vụ, thông qua đó tăng thị phần của
doanh nghiệp trên thị trường.
Khuyến mại là một trong những công cụ xúc tiến thương mại hiệu quả nhất
được rất nhiều thương nhân lựa chọn. Chính việc mang đến cho khách hàng những lợi
ích nhất định thông qua đó tác động đến hành vi mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ
của khách hàng lảm cho hoạt động này dễ dàng phân biệt với những hình thức xúc tiến

thương mại còn lại như quảng cáo, hội chợ, triễn lãm hay trưng bày giới thiệu hàng
hóa, dịch vụ. Điều 105 Luật Thương mại năm 2005 định nghĩa “quảng cáo thương mại
là hoạt đông xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về
hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình”. Neu như hình thức quảng cáo chỉ
mang tính chất giới thiệu về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp
mình đến khách hàng, hay nói cách khác quảng cáo chỉ mang tính chất thông tin một
chiều từ phía doanh nghiệp đến với khách hàng, khách hàng có thể tham khảo về hàng

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

5

SVTH: Phạm Mỹ Anh


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mà không cần một sự đáp lại nào từ phía khách hàng.
Còn đối với hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hay hoạt động hội chợ,
triển lãm thương mại cũng là hình thức thông tin, giới thiệu đến khách hàng về hàng
hóa, dịch vụ của doanh nghiệp vì theo quy định tại Điều 117 Luật Thương mại năm
2005 thì “trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động xúc tiến thương mại của
thương nhân dùng hàng hóa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa, dịch vụ để giới thiệu với
khách hàng về hàng hóa, dịch vụ đó” và ở Điều 129 Luật Thương mại năm 2005 định
nghĩa “hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại được thực hiện
tập trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định để thương nhân trưng bày,
giới thiệu hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết họp
đồng mua bán hàng hóa, họp đồng dịch vụ”. Ở hình thức khuyến mại khách hàng sẽ
tìm thấy những lợi ích nhất định từ sản phẩm, dịch vụ mà mình sử dụng. Giữa doanh
nghiệp và khách hàng có sự trao đổi qua lại với nhau thông qua đó khách hàng có thể

đánh giá được chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Từ đó tác
động đến hành vi tiêu dùng, sử dụng hàng hóa, dịch vụ của họ, giúp họ tìm ra những
hàng hóa, dịch vụ vừa mang lại lợi ích nhất định, vừa đảm bảo chất lượng tốt nhất.
1.1.2. Ỹ nghĩa của hoạt động khuyến mại
Trong nền kinh tế thị trường nhất là trong môi trường kinh doanh đày cạnh
tranh, người tiêu dùng ngày càng có nhiều sự lựa chọn về hàng hóa, dịch vụ với những
tính năng, giá cả, mẫu mã tương tự nhau. Việc thúc đẩy và tìm kiếm cơ hội bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ là việc cần thiết quyết định sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh thương mại cũng như hoạt động xúc tiến thương
mại của thương nhân, khuyến mại là một trong những công cụ kích thích bán hàng tốt
nhất, nó mang lại những ý nghĩa to lớn đối với thương nhân, khách hàng sử dụng hàng
hóa, dịch vụ:
- Khuyến mại đã và đang ừở thành xu hướng phổ biến, được áp dụng thường
xuyên trên thị trường nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán, cung ứng dịch của
thương nhân.
- Khuyến mại giúp thương nhân phát triển nhu cầu bán hàng và nâng cao doanh
số bán hàng, dịch vụ cung ứng trong khoảng thời gian ngắn hạn. Giới thiệu sản phẩm
mới hoặc những cải tiến sắp có mặt trên thị trường. Mở rộng và tăng cường hệ thống
hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường, giúp thương nhân có thêm nhiều cơ hội và
họp đồng mới.
- Khuyến mại tạo nên sự thích thú, lòng ham muốn và dẫn đến quyết định mua
hàng của người tiêu dùng. Từ đó hình thành nhu cầu tiêu dùng và tăng cường mức độ
tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ.
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

6

SVTH: Phạm Mỹ Anh



5
6

TS. Phan Trung Hiền, Để hoàn thành tốt luận văn ngành luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, te. 47.
TS. Huỳnh VănThực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng
cào, Nxb. TP. Hồ

thông tin di động Tòng,

Kỹ thuật quảng
Chí Minh, te. 120.

- Khuyến mại còn đóng vai trò tiết kiệm trong tiêu dùng và hình thành nhu cầu
trong lĩnh vực dịch vụ.
- Khuyến mại nếu biết kết hợp với các biện pháp khác sẽ tạo điều kiện cho quá
trình lưu thông hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế thị trường được liên tục, tốc độ chu
chuyển của đồng vốn sẽ tăng lên góp phàn làm ra nhiều của cải xã hội.
Ngoài ra, đối với nền kinh tế quốc gia khuyến mại còn góp phàn nâng cao
nâng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường, tạo động lực thúc đẩy cải
tiến kỹ thuật, phát triển công nghệ, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra cơ hội và điều kiện
cho nền kinh tế tăng trưởng, phát triển và mở rộng việc giao lưu kinh tế với các nước,
nâng cao vị thế của quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
1.1.3. Sự hình thành, phát triển của hoạt động khuyến mại và pháp luật về khuyến
mại
Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong xã hội đều là kết quả của quá
trình hình thành, đấu tranh và phát ừiển từ rất lâu đời. Theo phương pháp khoa học
lịch sử, tất cả các hiện tượng diễn ra hiện tại, đều là sự tiến lên của những gì diễn ra
trước đó và là cơ sở cho những gì diễn ra sau này 5. Hoạt động khuyến mại cũng không
nằm ngoài quy luật đó.

Hoa kỳ là quốc gia đầu tiên phát minh ra chiến lược khuyến mại. Tại đây sau
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1932) và những cuộc khủng hoảng kinh tế và
xã hội kế tiếp mà những xí nghiệp có nền sản xuất lớn cảm thấy cần phải phát minh ra
một loại kinh doanh mới để làm gia tăng thêm sự bán hàng của họ đang bị trì truệ vì
những cơn khủng hoảng, sự phát triển nhanh chóng của những phương tiện kỹ nghệ tối
tân, sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ giữa các xí nghiệp, nhu cầu thị trường ngày
càng đòi hỏi những phát minh mới mẽ.... Để gần gũi với giới tiêu thụ hơn, các kỹ nghệ
gia đã tìm ra những kỹ thuật mới có khả năng đưa một món hàng hay một dịch vụ
thương mại đến gần với khách hàng của họ hơn. Qua những món hàng mẫu, những sự
chứng minh cụ thể, sự giảm giá bán, tiền thưởng, giới tiêu thụ mới có dịp khám phá ra
những lợi ích mới cũng như có lý do để mua sắm6.
Ở Việt Nam, trước năm 1986 quan niệm về xúc tiến thương mại nói chung cũng
như khái niệm về khuyến mại ít được nói đến. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều do Nhà nước hoạch định, sản xuất ra cái
gì, phân phối cho ai, phân phối như thế nào, đều nằm trong kế hoạch của Nhà nước.
Yếu tố cạnh tranh trên thị trường hầu như không tồn tại, các doanh nghiệp sản xuất ra
sản phẩm đều biết chắc rằng sản phẩm của mình sẽ được tiêu thụ hết. Trong điều kiện
này mọi hoạt động tìm kiếm cơ hội, tìm kiếm thị trường để tiêu thụ hàng hóa, sản

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

7

SVTH: Phạm Mỹ Anh


7

TS. Nguyễn Thi Dung,
thương mại ở Việt Thực tiễn

luận và thực tiễn,
Chính trị quốc phẩm,
gia,
dịch
tì". 62.

Pháp luật về xúc tiến

về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động Nam những vẩn đề lý
Nxb.

vụ làm ra dường như không có ý nghĩa, vấn đề xúc tiến thương mại có Hà Nội, 2007,

chăng chỉ được đặt ra ở tầm quốc gia, khi Nhà nước thực hiện hỗ trợ các hoạt động tổ
chức hội trợ, triển lãm thương mại trong nước và ở nước ngoài, cùng với các nổ lực
nhằm mở rộng quan hệ họp tác chính trị, kinh tế với các nước Xã hội chủ nghĩa. Dĩ
nhiên các hoạt động này diễn ra rất “yếu ớt” do nền kinh tế không có yếu tố cạnh tranh
và hội nhập kinh tế quốc tế chưa phải là chính sách trọng yếu của Đảng và Nhà nước
ta trong thời kỳ đó7.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đánh dấu một bước chuyển đổi
mạnh mẽ, Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới kinh tế, phát
triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo. Từ
một nền kinh tế kế hoạch hỏa tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa. Từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ, tập trung chuyển sang
nền kinh tế lớn sản xuất hàng hóa đa dạng, phong phú đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của xã hội. Yếu tố cạnh tranh bắt đầu xuất hiện. Trong một nền kinh tế vận hành theo
cơ chế thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng vận động thì mới có thể
tồn tại và đứng vững. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, đời sống của người dân
không ngừng được nâng lên, do đó nhu cầu về tiêu dùng sản phẩm, cũng như sử dụng

dịch vụ cũng tăng lên đòi hỏi chất lượng hàng hóa, dịch vụ ngày càng cao. Doanh
nghiệp phải có những chiến lược kinh doanh đúng đắn, tìm hiểu và nghiên cứu thị
trường, tìm hiểu tâm lý khách hàng. Nhu cầu của người tiêu dùng thì ngày càng tăng
lên trong khi đó có rất nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất ra những sản phẩm, cung ứng
những dịch vụ giống nhau. Trong môi trường kinh doanh đầy cạnh tranh đó, để lôi kéo
khách hàng về phía mình các doanh nghiệp phải tìm cách hạ giá thành sản phẩm, dịch
vụ, tặng hàng mẫu để người tiêu dùng dùng thử, mua hàng có thưởng.... Xúc tiến
thương mại nói chung, hoạt động khuyến mại nói riêng trở thành công cụ kích thích
bán hàng hiệu quả và tất yếu của các doanh nghiệp.
Trước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các khái niệm khuyến mại, quảng
cáo thương mại, hội trợ, triển lãm, trưng bày, giới thiệu hàng hóa... ít được nói đến, do
các hiện tượng kinh tế này chưa hình thành trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và
cũng chưa có nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật. Những hình thức xúc tiến thương mại
nói chung chỉ hình thành trong nền kinh tế thị trường, khi mà có những chủ thể kinh
doanh cùng có khả năng cung cấp những loại hàng hóa, dịch vụ giống nhau trong khi
đó thì người tiêu dùng có khả năng lựa chọn những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phù
hcrp với nhu cầu của mình nhất. Tất nhiên trong nền kinh tế thị trường khi có nhiều

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

8

SVTH: Phạm Mỹ Anh


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

doanh nghiệp cùng kinh doanh trên một lĩnh vực, cùng có những sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ giống nhau, yếu tố cạnh tranh sẽ xuất hiện. Không phải bất cứ một doanh
nghiệp nào hoạt động thưomg mại đều có những chiến lược kinh doanh để cạnh tranh

một cách công bằng và tiến bộ. Đe tạo điều kiện cho các thương nhân hoạt động
thương mại một cách tốt nhất, tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lảnh mạnh cũng
như để hoạt động xúc tiến thương mại nói chung, hoạt động khuyến mại nói riêng diễn
ra một cách ổn định và trật tự hơn, Nhà nước đã ban hành ra nhiều văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh về vấn đề này.
Văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh về hoạt động xúc tiến thương mại được
ban hành ngày 01/8/1994 là Quyết định số 390/TTg ban hành quy chế về hội chợ, triển
lãm thương mại. Tiếp đó là Nghị định số 194/CP ngày 31/12/1994 quy định về hoạt
động quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, những văn bản này đều là những
văn bản dưới luật và điều chỉnh chưa đầy đủ về các hành vi xúc tiến thương mại đang
diễn ra rất đa dạng trong môi trường kinh doanh thương mại. Luật Thương mại năm
1997 ra đời, đã bổ sung thêm nhiều hình thức xúc tiến thương mại, đặc biệt là hĩnh
thức khuyến mại được đưa vào điều chỉnh ở một văn bản có giá trị pháp lý cao hơn và
mang tính ổn định hơn. Bên cạnh đó ngày 05/5/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số
32/1999/NĐ-CP về khuyến mại, quảng cáo thương mại và hội trợ triển lãm thương
mại. Khi các quan hệ thương mại diễn ra sôi động và phức tạp hơn, các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành không còn phù hợp để điều chỉnh các vấn đề mới phát sinh
thì nó sẽ được thay thế bằng những văn bản mới phù họp hơn. Luật Thương mại năm
2005 được ban hành để thay thế cho luật Thương mại năm 1997 đã không còn phù họp
nữa, hoạt động khuyến mại tiếp tục được ghi nhận trong Luật Thương mại năm 2005
bởi tính quan ừọng và cần thiết của nó trong hoạt động thương mại.
Ngoài ra để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này nhiều văn bản pháp luật có liên
quan cũng được ban hành để điều chỉnh về vấn đề này. Cụ thể như Luật Cạnh tranh
năm 2004, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, sắp được thay thế
bằng Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, sẽ chính thức có hiệu lực vào ngày
01/7/2011. Nghị định số 175/2004/NĐ-CP ngày 10/10/2004 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thương mại, đã được thay thế bằng Nghị định số 06/2008/NĐ-CP
ngày 16/01/2008 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại.

Kể từ khi văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên điều chỉnh về hoạt động xúc tiến
thương mại ra đời, đến nay đã có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan điều
chỉnh về hoạt động xúc tiến thương mại nói chung, cũng như hoạt động khuyến mại
nói riêng. Nhiều hình thức xúc tiến thương mại được ghi nhận một cách đầy đủ và đa
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

9

SVTH: Phạm Mỹ Anh


8

Trang thông tin điện từ của Mobitonc, lịch sử phát triển,

Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

dạng hom đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của các quan hệ thưcmg mại. Nếu như
văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh về xúc tiến thưomg mại chỉ quy định về hội chợ,
triển lãm thưcmg mại, thì trong các văn bản pháp luật sau này đã ghi nhận thêm hình
thức khuyến mại. Đây là hình thức được rất nhiều thưcmg nhân lựa chọn, vì nó đem lại
nhiều lợi ích to lớn, thu hút được nhiều khách hàng tiêu dùng sản phẩm, sử dụng dịch
vụ của doanh nghiệp. Đây cũng là hình thức dễ nảy sinh nhiều gian lận thưcmg mại,
khuyến mại cạnh tranh không lành mạnh, ảnh hưởng xấu đến người tiêu dùng cũng
như làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp khác, vì vậy mà việc điều chỉnh bằng
pháp luật đối với hoạt động này là rất cần thiết. Bên cạnh đó Luật Thưomg mại năm
2005 và các văn bản sau này ghi nhận thêm loại hình dịch vụ khuyến mại là một bước
phát triển, vì các văn bản đàu tiên điều chỉnh về xúc tiến thưomg mại chỉ ghi nhận hình
thức dịch vụ quảng cáo thưomg mại và dịch vụ hội trợ triển lãm thưomg mại. Sự phát
triển về pháp luật điều chỉnh hoạt động xúc tiến thưcmg mại, cũng như hoạt động

khuyến mại nói riêng tuy chưa hoàn chỉnh, đầy đủ, nhưng cũng đã góp phần điều
chỉnh được những quan hệ thưomg mại mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường, góp
phần làm trong sạch môi trường kinh doanh thương mại, từng bước đưa nền kinh tế
phát triển.
1.2.

Khái quát về những doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di dộng
trên

thị

trường Việt Nam hiện nay
Hiện nay trên thị trường dịch vụ viễn thông của Việt Nam có 7 doanh nghiệp
tham gia cung cấp các dịch vụ về thông tin di động với những cái tên quen thuộc:
Viettel, Mobiíbne, Vinaphone, S-fone, EVNTelecome, Vietnamobibe và Beeline.
Trong đó 3 mạng di động Viettel, Mobiíòne và Vinaphone chiếm đa số thị phần trên
thị trường thông tin di động Việt Nam.
❖ MOBIFONE
Mobiíòne là nhà cung cấp mạng thông tin di động đầu tiên tại Việt Nam, được
thành lập vào ngày 16/04/1993 với tên gọi Công ty Thông tin di động (VMS), là doanh
nghiệp Nhà nước trực thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) 8. VSM
trở thành doanh nghiệp đầu tiên khai thác dịch vụ thông tin di động GMS với thương
hiệu Mobiíòne, đánh dấu cho sự khởi đầu ngành thông tin di động của Việt Nam. Từ
khi thành lập cho đến nay Mobiíòne nhiều năm liền được bình chọn là “mạng điện
thoại di động được ưa chuộng nhất” do báo điện tử VietnamNet và tạp chí
Echipmobile tố chức bình chọn. Năm 2009, Mobiíòne vinh dự được nhận giải thưởng
historv.isp. [truy cập ngày 26-12-2010].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân


10

SVTH: Phạm Mỹ Anh


10

Trang thông tin
Viettel, Giới thiệu Thực

điện

tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động chung,

từ

của

ưa chuộng nhất năm 2010” dành cho lĩnh vực mạng điện thoại di động do tạp chí PC
World bình chọn. Với sản phẩm dịch vụ đa dạng, cung cấp và hỗ trợ đầy đủ mọi nhu
cầu thông tin của khách hàng từ các sản phẩm thuê bao trả sau, thuê bao trả trước đến
các sản phấm dịch vụ giá trị gia tăng.... Tính đến tháng 4/2008, Mobiíbne đang chiếm
lĩnh vị ừí số 1 về thị phần thuê bao di động tại Việt Nam.
❖ VINAPHONE
Vinaphone là tên thưomg mại của Công ty Dịch vụ Viễn thông - trực thuộc Tập
đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) 9, hoạt động trong lĩnh vực thông tin di
động, cung cấp các dịch vụ GMS, nhắn tin, điện thoại rẻ. Tính đến cuối năm 2008,
Vinaphone là mạng di động lớn thứ 3 Việt Nam chiếm 20% thị trường thông tin di
động. Cùng với những sản phẩm đa dạng: Vinacard, Vinadaily, Vinatext, Vinaxtra... và
với câu khẩu hiệu quen thuộc “không ngừng vươn xa” công ty Dịch vụ Viễn thông

quyết tâm xây dựng Vinaphone thành mạng di động số 1 tại Việt Nam, hướng đến hội
nhập và họp tác quốc tế.
❖ VIETTEL TELECOM
Viettel Telecome là doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty Viễn thông Quân đội
Viettel được thành lập ngày 05/4/2007 trên cơ sở sáp nhập các công ty Internet Viettel,
Điện thoại cố định Viettel và Điện thoai di động Viettel 10. Viettel là nhà cung cấp viễn
thông thứ 2 tại Việt Nam sau Mobiíòne. Từ khi thành lập Viettel đã có những chiến
lược kinh doanh đúng đắn và hiệu quả, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc và
rộng khắp “Viettel đã dựng lên một mạng di động có vùng phủ sóng lớn nhất tại Việt
Nam với 3000 trạm phát sóng trên khắp 64 tỉnh, thành phố. Có gần 2000 cửa hàng,
trên 1000 nhân viên giải đáp và chăm sóc khách hàng” 11. Với tốc độ phát triển vượt
bậc, đến nay Viettel Telecom đã ghi nhận được những dấu ấn rất quan trọng và có một
vị thế lớn trên thị trường thông tin di động cũng như trong sự lựa chọn của khách
hàng. Với mục tiêu trở thành nhà cung cấp dịch vụ viễn thông hàng đầu Việt Nam,
Viettel hiện nay là một trong 3 nhà cung cấp dịch vụ thông tin di động chiếm thị phần
lớn nhất Việt Nam.
❖ S-FONE
S-fone là tên tên thương hiệu của S-Telecom. S-Telecom là đơn vị trực thuộc
Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT), được hình thành để

11

/>[truy cập ngày 14Trang thông tin điện từ của VLnaphonc, Giới thiệu chung vê Vinaphone,
Nguyễn
Manh
[Truy cập ngày 14-3lập pháp, số 20,
2011].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân


11

3-2011].
Hùng, Tạp chí Hiển ké
tháng 2/2007, te. 15.

SVTH: Phạm Mỹ Anh


12

13

Trang thông tin
điện từ của S-fone, giới
Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động
thiệu chung,
Trang thông tin
điện
từ
dicủađộng Việt Nam, phá vỡ thế độc quyền, kích thích sự phát triển chung, và quan trọng
EVNTelecom, Giới
thiệu
về nhất đem lại cho khách hàng một sự lựa chọn hoàn toàn mới, sự ra đời của của mạng
EVNTelecom,

S-fone được bình chọn là 1 trong 10 sự kiện Công nghệ Thông tin và Truyền thông nổi

bật của năm 200312. Với sản phẩm, dịch vụ đa dạng, gói cước linh hoạt, S-fone đã
chiếm được lòng tin của khách hàng và đạt được những thành tích trên thị trường

mạng thông tin di động. Năm 2004 đoạt “cúp vàng thưomg hiệu năm 2004” trong cuộc
bình chọn thương hiệu uy tín chất lượng qua mạng Thương hiệu Việt Nam. Năm 2005
S-fone đựơc tạp chí e-Chip bình chọn là mạng di động chiếm đựơc sự hài lòng nhất
năm 2005”. Năm 2009 S-fone đạt danh hiệu “50 thương hiệu nổi tiếng năm 2008”.
Trong tương lai, mục tiêu của S-fone là trở thành nhà khai thác mạng điện thoại di
động hàng đàu của Việt Nam, thống lĩnh vị trí thứ nhất trên tất cả các chỉ tiêu. Với
những gì đã đạt đựơc theo đánh giá của giới chuyên môn trong tương lai S-fone sẽ có
bước phát triển mạnh mẽ.
❖ EVNTELECOM
EVNTelecom là một doanh nghiệp trực thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam,
thành lập vào tháng 7/1995 với tên gọi “Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực (EVN
Telecom)” EVNTelecome được phép cung cấp đầy đủ các dịch vụ viễn thông tại Việt
Nam13. Sau 15 năm xây dựng và phát triển, dựa trên cơ sở hạ tầng vững mạnh, ứng
dụng nhiều công nghệ tiên tiến, kênh phân phối rộng khắp, đội ngũ nhân viên năng
động và chuyên nghiệp. EVNTelecom đã liên tục có những bước đi vững chắc, luôn nổ
lực cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích, chất lượng ổng định giá cả cạnh tranh để khách
hàng thoải mái lựa chọn và hài lòng khi sử dụng dịch vụ. Sự ghi nhận và hài lòng của
khách hàng đến nay để phục vụ, đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của khách hàng, EVN
Telecom đã trở thành một công ty lớn với 9 trung tâm thành viên, 1 ban quản lý dự án
viễn thông điện lực. Các đơn vị thành viên của EVNTelecom hoạt động trên tất cả các
lĩnh vực: kinh doanh, cung cấp các dịch vụ viễn thông công cộng, công ngệ thông tin
trong nước và quốc tế.... Từ một đơn vị chuyên phục vụ cho lĩnh vực điện năng, bước
sang hoạt động trên một lĩnh vực hoàn toàn mới - mạng thông tin di động đầy rẫy
cạnh ừanh và thử thách, EVNTelecom bước đầu đã có những thành công đáng kể.
Cùng với phương châm “gần gũi với khách hàng” mục tiêu của EVNTelecom là trở
thành một doanh nghiệp chiếm thị phần viễn thông lớn nhất của Việt nam vào năm
2015.

1097&Stvle= 1. [truy cập ngày 16-01-2011].


http://www. sfone.com. vn/webportal/profíleO 1 vi.htmr?pageNum=
&subNum=
1
&ỉdxNum=
[truy cập ngày 14-3-2011].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

12

1
1.

SVTH: Phạm Mỹ Anh


14

15

HT mobile tham gia
ngày
15/01/2007,Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp
đạt
đạt
1
triệu
trong năm 2007. Tuy nhiên, sau 1 năm hoạt động mạng di động này đã không đạt mục tiêu đề ra.
Trang thông tin
điện

tủ
của
Vietnamobile, Giá
❖ VIETNAMOBILE
thiệu
về
Vìetnamobiỉe,

thị trường viễn thông

mạng thông tin di động HT mobile đặt mục tiêu
thuê

bao

Vietnamobile ra đời ngày 08/4/2009, là mạng thông tin di động được hình thành

trên cơ sở kế thừa của mạng HT mobile trước đây 14. Vietnamobile được triển khai theo
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) giữa Công ty cổ phần Hà Nội Telecom
và Công ty Huchison Telecommunication International Limited (Bao gồm các nhà
cung cấp viễn thông di động tại các thị trường đang nổi như Indonesia, Việt Nam, Sri
Lanka và Thái Lan)15. Tham vọng mà Vietnamobile hướng tới là trở thành mạng di
động thuận tiện nhất Việt Nam, mang đến cho khách hàng những trải nghiệm của một
mạng di động tiên tiến, hiện đại, gói cước giản tiện, giá cả họp lý, chất lượng mạng
cao và dịch vụ chăm sóc khách hàng chuyên nghiệp. Bằng những gói cước hấp dẫn,
cùng với các dịch vụ giá trị gia tăng tiện ích, những chương trình khuyến mại rầm rộ,
Vietnam mobile đã đánh dấu sự trở lại thị trường thông tin di động một cách đầy ấn
tượng và đột phá.
❖ BEELINE
Giữa tháng 7/2008 mạng di động Beeline Việt Nam của Gtel Mobile với đầu số

0199 chính thức ra mắt thị trường. Beeline là mạng điện thoại di động thứ 7 tại Việt
Nam, được thành lập ngày 08/7/2008 trên cơ sở thỏa thuận họp tác giữa Tổng công ty
di động Toàn cầu và Tập đoàn Vimpelcom - một tập đoàn viễn thông hàng đầu ở
Đông Âu và Trung Á. GTEL mobile sử dụng thương hiệu “Beeline Việt Nam” để ra
mắt trên thị trường viễn thông Việt Nam. Trên thế giới Beeline là một thương hiệu
mạng viễn thông di động lớn hoạt động tại 9 quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Âu và
Trung Á. Hiện nay Beeline đã phủ sóng tới các địa bàn với tổng số dân lên tới 340
triệu người và có hơn 63 triệu thuê bao thực 16. Tính đến thời điểm hiện tại Beeline là
mạng di động được thành lập bởi một liên doanh quốc tế đầu tiên tại Việt nam, sự kết
họp giữa một tập đoàn viễn thông hàng đầu Đông Âu vốn đã dày dặn kinh nghiệm và
tiềm lực tài chính mạnh với một Tổng công ty Viễn thông Toàn cầu GTEL am hiểu về
thị trường, tập quán, nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam được kỳ vọng sẽ mang lại
nhiều ưu thế vượt trội. Bên cạnh đó hình thức liên doanh còn tạo điều kiện để các đối
tác nước ngoài có thể mạnh tay đầu tư vào việc phát triển chất lượng dịch vụ, gia tăng
sự cạnh ừanh trên thị trường.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và xu thế hội nhập quốc tế, thị

16

[truy cập ngày 25-10-2010].
Trang
thông
tin
điện
từ
của
Beeline,
Tổng
quan,
/>cập ngày 25-10-2010].


GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

13

Beeline.aspx?id=4.

SVTH: Phạm Mỹ Anh

rtruv


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

bối cảnh có nhiều doanh nghiệp tham gia cung cấp mạng thông tin di động như hiện
nay, với những thế mạnh và mục tiêu kinh doanh riêng của mình chắc chắn sẽ có
những cuộc cạnh tranh gay gắt giữa những doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di
động với nhau để giành lấy thị phần ừên thị trường.
1.3.

Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối vói hoạt động khuyến
mại
của các mạng thông tin di động

Khuyến mại là một hình thức không thể thiếu của bất kỳ một doanh nghiệp nào
khi muốn gia nhập, tồn tại và đứng vững trên thị trường. Đặc biệt trong thời đại ngày
nay, thời đại của “Khoa học, công nghệ, thông tin và dịch vụ”, việc các doanh nghiệp
cạnh tranh nhau đế tồn tại và phát triển là một điều tất yếu. Neu như trước đây việc
trao đổi thông tin, liên lạc với nhau chủ yếu thông qua: thư từ, điện thọai cố định,
fax... thi ngày nay điện thoại di động là một phưomg tiện thông dụng và hiệu quả nhất

giúp mọi người có thể trao đổi thông tin liên lạc với nhau ở bất cứ nơi đâu và vào bất
cứ thời điểm nào. Cùng với yêu cầu phát triển của xã hội, xu thế phát triển của thòi
đại, nhu cầu trao đổi thông tin giữa các cá nhân với nhau trong xã hội, dịch vụ viễn
thông đặc biệt là dịch vụ thông tin di động sẽ có cơ hội bùng nổ và phát triển mạnh
mẽ.
Neu như vào những năm chín mươi của thế kỷ trước Mobiíòne là nhà cung cấp
mạng thông tin di động đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam, thì tính đến thời điểm hiện
tại đã có 7 mạng di động tham gia cung cấp dịch vụ về thông tin di động với những
thương hiệu rất nổi tiếng như: Viettel, Vinaphone, S-fone, Vietnamobile, EVN
Telecome và Beeline. Theo đánh giá của giới chuyên môn thì thị trường Việt Nam vẫn
còn tiềm năng phát triển. Do đó, để có thể đứng vững trên thị trường các doanh nghiệp
cung cấp mạng thông tin di động phải có những chiến lược kinh doanh thích hcrp, chất
lượng dịch vụ cao và những chương trình xúc tiến thương mại hiệu quả.
Một biện pháp mà các doanh nghiệp di động sử dụng một cách phổ biến nhất
hiện nay để có thể lôi kéo khách hàng về phía mình là tung ra những chương trình
khuyến mại rầm rộ và hấp dẫn. Phải thừa nhận rằng hoạt động khuyến mại là một công
cụ xúc tiến thương mại hiệu quả, không những mang lại lợi ích cho thương nhân mà
còn khuyến khích cạnh tranh, khuyến khích cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lượng dịch
vụ có lợi cho người tiêu dùng. Với 7 nhà cung cấp mạng thông tin di động trên thị
trường, trong thời gian qua các mạng di động cạnh tranh nhau hết sức khốc liệt, thông
qua hàng loạt các chương trình khuyến mại và giảm giá dịch vụ. Từ các mạng chiếm
đa số thị phàn trên thị trường thông tin di động như Mobiíbne, Viettel, Vinaphone đến
các mạng nhỏ chỉ chiếm số ít thị phàn như Vietnamobile hay Beeline đều có những
chương trình khuyến mại rầm rộ và hấp dẫn. Từ các đợt tặng tin nhắn miễn phí, tặng
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

14

SVTH: Phạm Mỹ Anh



17

Trang thông tin điện từ Mobiíòne, Tin khuyển mại và chăm sóc khách hàng,

Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

động đều làm cho đa số khách hàng hài lòng và thích thú. Ở hầu hết các sản phẩm dịch
vụ, từ các thuê bao trả trước, trả sau, đến các dịch vụ giá trị gia tăng của các mạng đều
có những chính sách khuyến mại ưu đãi đặc biệt dành cho khách hàng. Mobiíbne thì
có những đợt tặng tin nhắn miễn phí cho khách hàng vào những ngày đặc biệt như
ngày 8/3, 14/2, 20/10.... Bằng những chiến lược cạnh tranh về giá, Viettel liên tục tung
ra những gói cước giá rẻ, thu hút được không ít giới trẻ đặc biệt là học sinh, sinh viên
sử dụng dịch vụ làm cho số lượng thuê bao của doanh nghiệp này tăng lên đáng kể. Sfone cũng có những chương trình tặng tiền vào tài khoản cho các thuê bao trong những
đợt khuyến mại đặc biệt, đến gói cước một đồng cung cấp các cuộc gọi nội mạng giá
rẻ, hay gói cước trả trước Eco 999 đột phá với cuộc gọi ngoại mạng hấp dẫn chỉ 999
đồng/phút. Ngay từ khi trở lại thị trường, Vietnamobile đã giới thiệu gói cước bổ trợ
VN24, theo đỏ người sử dụng chỉ cần đăng ký một tin nhắn 5000 đồng, thì có thể gọi
và nhắn tin nội mạng thoải mái hết cả ngày. Đánh dấu sự xuất hiện trên thị trường
thông tin di động, Beeline cũng đưa ra gói cước “Big Zero” cực kỳ hấp dẫn, theo đó
Beeline sẽ tính giá 0 đồng sau phút đầu tiên cho tất cả các cuộc gọi nội mạng (tức là từ
phút thứ 2 trở đi các cuộc gọi nội mạng khách hàng sẽ không chịu bất kỳ một loại cước
phí nào)... và còn rất nhiều những chương trình khuyến mại của các mạng di động đem
lại những lợi ích vô cùng to lớn đối với khách hàng.
Tuy nhiên, bên cạnh những chương trình khuyến mại đem lại lợi ích thật sự cho
khách hàng, cũng có không ít những chương trình khuyến mại mập mờ, gian lận làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng, ảnh hưởng không tốt đến thị trường thông
tin di động. Trong tháng 4/2010 (từ ngày 15/4 đến ngày 17/4/2010) Mobiíbne thực
hiện chương trình khuyến mại tặng đến 170% giái trị các thẻ nạp cho khách hàng 17,
khi nhận được thông tin này rất nhiều khách hàng đã mua thẻ nạp, trông đợi được

hưởng khuyến mại lớn, thậm chí có người mua đến hàng triệu đồng. Tuy nhiên do việc
thông báo không rõ nên đã gây hiểu nhầm, đồng thời việc thực hiện cam kết tặng
170% giá trị đã không diễn ra ngay nên khiến nhiều khách hàng rất bất bình. Theo sự
giải thích của doanh nghiệp này, từ ngày 15/4 đến 17/4/2010, Mobiíbne thực hiện
chương trình khuyến mại cho tất cả các khách hàng trong đó khách hàng thuộc
“chương trình kết nối dài lâu” khi nạp thẻ mệnh giá trên 200.000 đồng sẽ được tặng
170% giá trị thẻ nạp, dưới 200.000 đồng được tặng 100% giá trị, khách hàng không
thuộc chương trình “kết nối dài lâu” chỉ được nhận mức khuyến mại 50% giá trị thẻ
nạp. Nội dung chương trình khuyến mại được mạng này gửi đến cho tất cả khách hàng
thông qua tin nhắn, nhưng do giới hạn về ký tự tin nhắn gửi đi không truyền tải hết
thông tin ừên nên dẫn đến hiếu nhằm cho khách hàng. Hay như Viettel, trong năm
[Truy cập ngày 29-11 -2010].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

15

SVTH: Phạm Mỹ Anh


18

Trang thông tin điện từ của Viettel, Tin khuyến mại,

Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

2009 có đợt khuyến mại doanh nghiệp này tặng đến 150% giá trị cho các thẻ cào 18,
nhiều thuê bao di động của Viettel đã vô tư nạp tiền vào tài khoản nhưng sau mới vỡ
ra, số tiền khuyến mại bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện, số tiền được tặng không trực
tiếp chuyển vào tài khoản của khách hàng mà được quy ra thành số phút gọi và tin

nhắn.
Đứng về phía các doanh nghiệp những chương trình khuyến mại như vậy có thể
mang lại doanh số và lợi nhuận trong thời gian ngắn, nhưng về tổng thể sẽ tác động
không tốt đến chính sách của doanh nghiệp. Một mặt uy tín và quan hệ với khách hàng
sẽ bị phá vỡ, gieo vào tâm lý người tiêu dùng sự nghi ngờ đối với các chương trình
khuyến mại nói chung, khi người tiêu dùng thiếu niềm tin vào các chương trình
khuyến mại thì hiệu quả từng chương trình của doanh nghiệp đều bị ảnh hưởng, mặt
khác những chương trình khuyến mại này còn có thể bị đối thủ lợi dụng để bôi nhọ uy
tín của doanh nghiệp. Việt Nam đã là thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), sự kiện này có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế
của Việt Nam nói chung, đặc biệt là của ngành Bưu chính Viễn thông nói riêng. Gia
nhập WTO, đồng nghĩa với việc Nhà nước ta sẽ mở cửa cho các doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam, viễn thông sẽ là lĩnh vực được các đối tác nước ngoài đặc
biệt quan tâm, trong đó cạnh tranh trong lĩnh vực thông tin di động sẽ hết sức gay gắt.
Chính vì vậy, thách thức đầu tiên mà các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam phải đối
mặt là vấn đề thị trường. Thị phần của các doanh nghiệp viễn thông sẽ bị chia sẽ đáng
kể khi các tập đoàn viễn thông quốc tế đầu tư vào Việt Nam. Do đó, tạo lập một môi
trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh là việc làm hết sức cần thiết đứng về phía các
cơ quan quản lý. Đe tránh việc các doanh nghiệp lợi dụng hoạt động khuyến mại để
bán phá giá, cạnh tranh không lành mạnh, tạo vị trí thống lĩnh thị trường gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp hợp pháp của khách hàng và của các
doanh nghiệp khác thì cần phải đưa hoạt động này vào một khuôn khổ, trật tự nhất
định.
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt
động này như Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Thương mại năm 2005 là văn bản pháp
lý cơ bản và trực tiếp nhất điều chỉnh về hoạt động này, để hướng dẫn cụ thể và chi tiết
hơn về hoạt động xúc tiến thương mại trong đó có hoạt động khuyến mại Chính phủ đã
ban hành Nghị định 37/2006/NĐ-CP ngày 04/4/2006 quy định chi tiết Luật Thương
mại về hoạt động xúc tiến thương mại. Tiếp đó là Luật Viễn thông được Quốc hội
thông qua ngày 23/11/2009, chính thức có hiệu lực vào ngày 01/7/2010. Đặc biệt trong

lĩnh vực thông tin di động Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã ban hành Thông tư
[Truy cập ngày 29-11-2010].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

16

SVTH: Phạm Mỹ Anh


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

số 11/2010/TT-BTTTT ngày 14/5/2010 chính thức có hiệu lực ngày 01/7/2010 điều
chỉnh hoạt động khuyến mại đối với dịch vụ thông tin di động.
Hoạt động khuyến mại thật sự là cần thiết đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp vì nó mang lại những lợi ích to lớn cho người tiêu dùng, cho doanh
nghiệp và cả nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên tổ chức khuyến mại như thế nào để hoạt
động này mang lại hiệu quả tích cực, không quá lạm dụng gây ảnh hưởng xấu đến nền
kinh tế là vấn đề cần được quan tâm. Trước hết thương nhân muốn tổ chức khuyến mại
cần phải tìm hiểu những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động này và khi tiến
hành các hoạt động khuyến mại thì phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các quy định của
phápluật.

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

17

SVTH: Phạm Mỹ Anh



19

Khoản 2, Điều 88 Luật Thưorng mại năm 2005.

Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

CHƯƠNG2
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CUNG CẤP MẠNG THÔNG TIN DI ĐỘNG
2.1.

Chủ thể thực hiện khuyến mại

Trong kinh doanh thưomg mại nhu cầu tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ là nhu cầu cần thiết của bất cứ ai tham gia vào thị trường mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ. Vậy ai là những người tiến hành xúc tiến thương mại, thực hiện
các hoạt động khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của mình. Những người không trực
tiếp sản xuất hàng hóa, làm ra dịch vụ có được quyền tiến hành các hoạt động thúc đẩy
cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho người khác không. Đây là những vấn
đề cần được quan tâm.
Theo quy định của pháp luật thì chủ thể thực hiện các hoạt động khuyến mại là
thương nhân bao gồm thương nhân trực tiếp khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ mà
mình kinh doanh và thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện khuyến
mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác theo thỏa thuận của thương nhân
đó19. Như vậy, không chỉ có thương nhân trực tiếp sản xuất hàng hóa, làm ra dịch vụ
thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của mình mà cả những thương nhân
không trực tiếp sản xuất hàng hóa, lảm ra dịch vụ cũng được quyền thực hiện các hoạt
động khuyến mại cho những thương nhân khác trên cơ sở họp đồng dịch vụ khuyến
mại.
Vậy thương nhân là ai? thương nhân là tố chức, cá nhân hoạt động thương mại

một cách thường xuyên và mang tính nghề nghiệp. Theo Điều 6 Luật Thương mại năm
2005, thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập họp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Như vậy, để
được xác định có tư cách thương nhân thì chủ thể kinh doanh phải hội đủ cả 3 điều
kiện. Thứ nhất, là cá nhân hoặc tổ chức thành lập hợp pháp. Thứ hai, cá nhân hoặc tổ
chức đó phải hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và mang tính
nghề nghiệp. Thứ ba, cá nhân hoặc tổ chức đó phải có đăng ký kinh doanh khi tiến
hành các hoạt động thương mại.
Khác với thương nhân, một chủ thể kinh doanh nữa cũng được quyền thực hiện
các hoạt động xúc tiến thương mại, tiến hành các hình thức khuyến mại nhưng bị hạn
chế hơn so với thương nhân đó là cá nhân - những người hoạt động thương mại độc
lập, thường xuyên nhưng không phải đăng ký kinh doanh. Những chủ thể này được

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

18

SVTH: Phạm Mỹ Anh


20

21

Thường được gọi
tắt là doanh nghiệp di
Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động
động.
Giấy phép thiết lập
mạng và cung

cấp dịch vụ thông
quyền thực hiện các hình thức khuyến mại: bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo tin di động được
thực hiện theo quy
định của Luật
Viễn
phiếu dụ thi cho khách hàng để chọn nguời trao thuởng theo thể lệ và giải thuởng đã
thông.

công bố; bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dụ các chuomg trình khuyến
mại mang tính may rủi và tổ chức chuomg trình khách hàng thuờng xuyên.
Trong lĩnh vục thông tin di động, chủ thế thục hiện khuyến mại phải là những
thuomg nhân đuợc cấp giấy phép thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ thông tin di

động20, những thuomg nhân kinh doanh hàng hóa chuyên dùng thông tin di động trên
cơ sở ký họp đồng với doanh nghiệp di động 21. Đây là những điều kiện bắt buộc,
những thuơng nhân nào đáp ứng đuợc đều kiện này thì mới đuợc phép tiến hành các
hoạt động khuyến mại trong lĩnh vục thông tin di động.
2.2.
Quyền và nghĩa vụ của chủ thể thực hiện khuyến mại
2.2.1. Quyền của chủ thể thực hiện khuyến mại
Quyền tụ do kinh doanh là một quyền Hiến định đuợc ghi nhận tại Điều 57
Hiến pháp năm 1992 “mọi tổ chức cá nhân đuợc quyền kinh doanh theo quy định của
pháp luật”. Quyền hoạt động thuơng mại của thuơng nhân tiếp tục đuợc xác định trên
cơ sở tôn trọng và phát huy quyền tự do kinh doanh và đuợc Nhà nuớc bảo hộ.
Thuơng nhân đuợc quyền hoạt động tại mọi lĩnh vực và địa bàn chỉ trừ một số lĩnh vục
và địa bàn bị cấm, đuợc tụ do thỏa thuận tiến hành các hoạt động xúc tiến thuơng mại.
Bên cạnh đó, cùng với xu thế hội nhập quốc tế, việc mở cửa thị truờng cho thuơng
nhân nuớc ngoài vào hoạt động thuơng mại ở Việt Nam là một nhu cầu tất yếu. Nhằm
khuyến khích đầu tu và tạo điều kiện cho thuơng nhân nuớc ngoài hoạt động thuơng
mại tại Việt Nam, Nhà nuớc ta luôn cố gắng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thuơng

nhân nuớc ngoài hoạt động thuơng mại ừên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, đối tuợng thục
hiện hoạt động khuyến mại không chỉ là thuơng nhân Việt Nam mà còn có cả thuơng
nhân nuớc ngoài. Điều 91 Luật Thuơng mại năm 2005 xác định rõ ràng và cụ thể
quyền khuyến mại của thuơng nhân:
- Thuơng nhân Việt Nam, chi nhánh của thuơng nhân Việt Nam, Chi nhánh của
thuơng nhân nuớc ngoài tại Việt Nam có quyền tụ tổ chức khuyến mại hoặc thuê
thuơng nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc khuyến mại cho mình.
- Văn phòng đại diện của thuơng nhân không đuợc khuyến mại hoặc thuê
thuơng nhân khác thục hiện khuyến mại tại Việt Nam cho thuơng nhân mà mình đại
diện. Việc pháp luật quy định văn phòng đại diện của thuơng nhân không đuợc thục
hiện các hoạt động khuyến mại xuất phát từ đặc điểm văn phòng đại diện chỉ làm chức
năng đại diện cho thuơng nhân, không cỏ chức năng hoạt động kinh doanh nên không
đuợc quyền thục hiện các hoạt động khuyến mại hoặc thuê thuơng nhân khác thục

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

19

SVTH: Phạm Mỹ Anh


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

hiện khuyến mại cho thưomg nhân mà mình đại diện. Khác với văn phòng đại diện, chi
nhánh của thưomg nhân có chức năng hoạt động kinh doanh, nên trong phạm vi, quyền
hạn của mình chi nhánh được quyền thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, tiến
hành các hoạt động khuyến mại theo sự ủy quyền của thương nhân.
Thương nhân có quyền thực hiện hoạt động khuyến mại bất kể đó là thương
nhân Việt Nam hay thương nhân nước ngoài và khi tiến hành hoạt động xúc tiến cho
việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ này thương nhân cũng có những quyền nhất

định. Các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động tham gia trên trên thị trường
khi thực hiện các hoạt động khuyến mại cũng không là một ngoại lệ. Theo Điều 95
Luật Thương mại năm 2005 khi thực hiện các hoạt động khuyến mại thương nhân có
quyền:
- Lựa chọn hình thức, thời gian, địa điểm khuyến mại, hàng hóa, dịch vụ dùng
để khuyến mại. Việc thực hiện khuyến mại như thế nào, thời gian, địa điểm ra sao, đó
là quyền của thương nhân và pháp luật không can thiệp. Tuy nhiên khi thực hiện các
hoạt động khuyến mại thương nhân phải đảm bảo cho các chương trình khuyến mại
của mình được thực hiện theo đứng các quy định của pháp luật, không xâm phạm đến
quyền và lợi ích của khách hàng và của những thương nhân khác.
- Quy định các lợi ích cụ thế mà khách hàng đựơc hưởng. Các lợi ích này có thể
là hàng mẫu, quà tặng, phiếu mua hàng hay khách hàng được giảm giá hàng hóa, dịch
vụ.... Việc quy định cho thương nhân được quyền quy định các lợi ích cụ thể mà khách
hàng được hưởng là để cho thương nhân chủ động hơn trong chiến lược kinh doanh
của mình, có thể tranh thủ được thời gian, cũng như chất lượng của những lợi ích mà
thương nhân dành tặng cho khách hàng trong chương trình khuyến mại.
- Thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại thực hiện việc khuyến mại
cho minh. Tùy theo mục đích của chương trình khuyến mại thương nhân có thể tự
mình thực hiện khuyến mại hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ khuyến mại
thực hiện việc khuyến mại cho mình. Xuất phát từ các quan hệ kinh tế mới phát sinh,
đây là quyền mới được bổ sung vào Luật Thương mại năm 2005, nhằm tạo điều kiện
tốt nhất cho các thương nhân được tự do hoạt động thương mại theo mục đích và chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp mình để đem lại hiệu quả tốt nhất.
- Tố chức thực hiện các hình thức khuyến mại theo quy định của pháp luật.
Pháp luật cho phép các thương nhân quyền tổ chức các hoạt động khuyến mại để xúc
tiến cho việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp mình, các hình
thức khuyến mại phải được thực hiện theo đúng các hình thức mà pháp luật cho phép,
nếu tiến hành các hoạt động khuyến mại dưới các hình thức khác thì phải được sự
đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.


GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

20

SVTH: Phạm Mỹ Anh


Thực tiễn về hoạt động khuyến mại của các doanh nghiệp cung cấp mạng thông tin di động

2.2.2. Nghĩa vụ của chủ thể thực hiện khuyến mại
Bên cạnh các quyền khi thưcmg nhân thực hiện khuyến mại được hưởng, để
đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
tiêu dùng và của thương nhân khác, thương nhân khi thực hiện hoạt động khuyến mại
phải tuân thủ theo các nghĩa vụ:
- Thực hiện đày đủ các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật hiện hành
khi thực hiện các hình thức khuyến mại. Trước khi thực hiện các hình thức khuyến mại
thương nhân phải thông báo hoặc đăng ký tại cơ quan quản lý Nhà nước về thương
mại nơi tổ chức chương trình khuyến mại và sau khi kết thúc đợt khuyến mại thương
nhân phải thông báo về kết quả của đợt khuyến mại với cơ quan quản lý Nhà nước có
thẩm quyền. Đối với những hình thức mà pháp luật quy định phải xin phép, thương
nhân chỉ được thực hiện hình thức khuyến mại đó khi được sự chấp nhận của cơ quan
quản lý Nhà nước có thẩm quyền về thương mại.
- Thông báo công khai các nội dung thông tin về họat động khuyến mại cho
khách hàng theo quy định. Khi áp dụng các hình thức khuyến mại, để tránh gian lận,
lừa dối khách hàng, pháp luật đòi hỏi sự minh bạch của thương nhân. Thương nhân có
thể thông báo công khai các vấn đề liên quan đến hoạt động khuyến mại tại nơi bán
hàng hóa, nơi cung ứng dịch vụ, trên hàng hóa hoặc trên bao bì hàng hóa hoặc dưới bất
kỳ hình thức nào, nhưng phải được đính kèm theo hàng hóa khi được bán, cung cấp
kèm với dịch vụ khi dịch vụ đó được cung ứng. Theo Điều 97 Luật Thương mại năm
2005, thông tin phải thông báo công khai liên quan đến hoạt động khuyến mại bao

gồm: tên của hoạt động khuyến mại; giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ khuyến
mại và các chi phí có liên quan đế giao hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại cho khách
hàng; tên, địa chỉ, số điện thoại của thương nhân thực hiện khuyến mại; thời gian
khuyến mại, ngày bắt đầu, ngày kết thúc và địa bàn hoạt động khuyến mại; trường họp
lợi ích của việc tham gia khuyến mại gắn với các điều kiện cụ thể thì trong thông báo
phải nêu rõ hoạt động khuyến mại đó có kèm theo điều kiện và nội dung cụ thể của các
điều kiện. Ngoài các thông tin quy định trên thương nhân thực hiện hoạt động khuyến
mại, còn phải thông báo các thông tin sau: giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ
được tặng cho khách hàng; trị giá tuyệt đối hoặc phần trăm thấp hơn giá bán hàng hóa,
giá cung ứng dịch vụ bình thường trước thời gian thực hiện khuyến mại; giá trị bằng
tiền hoặc lợi ích cụ thể mà khách hàng được hưởng từ phiếu mua hàng, phiếu sử dụng
dịch vụ; địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ và các loại hàng hóa, dịch vụ mà khách
hàng có thể nhận được từ phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ; loại giải thưởng và
giá trị từng loại giải thưởng; thể lệ tham gia chương trình khuyến mại, cách thức lựa
chọn người trúng thưởng; các chi phí mà khách hàng phải tự chịu.
- Thực hiện đúng chương trình khuyến mại đã thông báo và cam kết với khách

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

21

SVTH: Phạm Mỹ Anh


×