Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.36 KB, 38 trang )

NHẢN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
—soCQca—


NHẢN XÉT CỦA HÔI ĐỒNG PHẢN BIÊN
•*•


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐÀU...................................................................................................................................1
CHƯƠNG

1:

KHẮT

QUÁT

CHUNG

VỀ

QUẢN





ĐỊNH


ĐOẠT

TÀI

SẢN

CHUNG CỦA yợ CHỒNG....................................................................................................3

1.1 Một số khái niệm chung............................................................................................................3
1.1.1 Khái niệm tài sản chung của vợ chồng ........................................................................3
1.1.2..................................................................................................................... Khái niệm
quản lý tài sản chung của vợ chồng.........................................................................................7
1.1.3... Khái niệm định đoạt tài sản chung của vợ chồng........................................................8

1.2 Nguyên tắc quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng...............................................9
1.3 Mục đích của việc quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng....................................12
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ VÀ ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN
CHUNG CỦA yợ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.........................................16

2.1 Quản lý tài sản chung của vợ chồng......................................................................................16
2.1.1 Quản lý tài sản chung theo thỏa thuận của vợ chồng ..................................................16
2.1.2 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc quản lý tài sản chung............................19
2.2 Định đoạt tài sản chung của vợ chồng...................................................................................23
2.2.1..................................................................................................................... Định đoạt tài
sản chung theo thỏa thuận của vợ chồng.................................................................................23

2.2.2..................................................................................................................... Định đoạt tài
sản chung theo di chúc chung của vợ chồng............................................................................25
CHƯƠNG 3: THựC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VÀ ĐỊNH
ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA vợ CHỒNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT.............................28


3.1 Thực tiễn và những bất cập của áp dụng pháp luật về quản lý và định đoạt tài
sản chung của vợ chồng...................................................................................................................28

3.1.1 Thực tiễn áp dụng việc quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng. 28
3.1.2 Những bất cập của áp dụng pháp luật về quản lý và định đoạt tài sản chung
của vợ chồng....................................................................................................................................29

3.2 Một sổ đề xuất nhằm đưa chế định về quản lý và định đoạt tài sản chung của


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, sự ổn định và phát triển lành mạnh của gia đình sẽ góp
phần vào sự phát triển chung của toàn bộ xã hội. Mỗi gia đình được xây dựng dựa trên
sợi dây liên kết của hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng trong đó quan hệ hôn nhân có
thể xem là quan hệ nền tảng của mỗi gia đình.
Trong quan hệ vợ chồng, bên cạnh đời sống tình cảm, tình yêu thương lẫn nhau không
thể quan tâm đến đời sống vật chất. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng là một vấn đề hết
sức quan trọng, nó là một trong những tiền đề giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống
hạnh phúc, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần cho gia đình.
Xuất phát từ bản chất quan hệ hôn nhân và gia đình là các yếu tố nhân thân và tài sản
gắn liền với các chủ thể nhất định, không thể tách rời và không có tính đền bù ngang
giá. Chính sự ràng buộc làm nảy sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ với nhau
mà quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng, là một vấn đề không thể thiếu
trong pháp luật hôn nhân nói riêng, pháp luật dân sự nói chung. Tuy nhiên, vấn đề này
cũng chưa được quy định rõ rang trong luật, nên áp dụng vào thực tế khó khăn. Bên
cạnh đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không có quy định cụ thể về các biện

pháp chế tài trong các trường hợp vợ, chồng thực hiện các hành vi quản lý tài sản vượt
quá quyền hạn của mình. Từ đó có những kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề quản lý và
định đoạt tài sản chung.

2. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Là sinh viên sau 4 năm được học tập tại trường, với mong muốn góp phần nhỏ vào việc
làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn của việc quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ
chồng cho nên đã chọn đề tài “Những quy định về quản lý và định đoạt tài sản

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

1

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
chung của vợ chồng theo pháp luật hiện hành” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của
mình.
Trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận của các quy định pháp luật về tài sản chung, quản lý và định đoạt
tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật hiện hành. Đồng thời qua thực tiễn áp dụng
luật, phát hiện những bất cập và đưa ra những kiến nghị nhằm bổ sung hoàn thiện các
quy định của pháp luật trong lĩnh vực này.

3. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn sẽ sử dụng những phương pháp sau đây: Phương pháp luận; phương
pháp phân tích, tổng hợp; và phương pháp thống kê; phương pháp so sánh,...

4. Cơ cấu của luận văn


Ngoài lời nói đầu, tài liệu tham khảo, kết luận, bố cục luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng
Chương 2: Những quy định về quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo
pháp luật Việt Nam hiện hành
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ
chồng và một số kiến nghị

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

2

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUẢN LÝ VÀ ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG

1.1 Một sổ khái niệm chung
1.1.1 Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Trước khi tìm hiểu khái niệm tài sản chung của vợ chồng thì phải hiểu nhu
thế nào là tài sản. Có nhiều cách để đưa ra khái niệm tài sản, nhưng nhìn chung có thể
hiểu theo hai cách:
Cách thứ nhất: Nếu hiểu theo cách thông dụng tài sản là của cải được con
người sử dụng, một vật cụ thể mà con người có thể nhận biết bằng các giác quan hay
tiếp xúc.
Cách thứ hai: Theo từ điển pháp luật thì tài sản là tất cả những gì có thể sở
hữu được với khía cạnh thì tài sản được hiểu theo nghĩa rộng hom và đã có sự phân biệt

giữa tài sản là động sản và bất động sản, tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Đây là hai
cách hiểu cơ bản và thong dụng về tài sản.
Tuy nhiên khái niệm tài sản sẽ được hiểu hơn trong Bộ Luật Dân Sự (BLDS).
Tại Điều 172 BLDS 1995 quy định như sau: “Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy
tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản Khái niệm này được sửa đổi tại Điều
163 BLDS 2005 “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ cỏ giá và các quyền tài sản
Tóm lại, khái niệm tài sản được quy định cụ thể tại Điều 163 BLDS 2005
“tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản Đe hiểu rõ khái niệm
tài sản qua cách phân tích sau:
- Vật: Vật là một bộ phận vật chất có thể đáp ứng nhu cầu nào đó về của
con người. Ngoài yếu tố đáp ứng trên, vật còn với tính cách là tài sản nằm trong sự
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

3

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
chiếm hữu của con người phải có đặc trưng giá trị và trở thành đối tượng của giao dịch
dân sự. Chính vì lẽ đó “vật” trong BLDS 2005 đã thay thế cho cụm từ “vật cỏ thực''’
BLDS 1995 là hoàn toàn phù hợp và phản ứng đầy đủ vấn đề khái niệm “vật'' sẽ hiểu
rộng hơn bao gồm vật đang có và vật sẽ hình thành trong tương lai. Quy định này làm
cho đối tượng của tài sản trở nên phong phú, phù hợp với thực tiễn và sự phát triển
kinh tế hiện nay.

- Tiền và giấy tờ có giá: cụm từ “giấy tờ có giá” trong BLDS 2005 đã
thay thế cho “giấy tờ trị giả bằng tiền” trong BLDS 1995, phù hợp với tình hình thực
tế hơn. Giấy tờ được coi là tài sản chuẩn hóa về tên gọi cũng như tính chất, các loại
giấy tờ này trị giá bằng tiền và được đưa vào giao dịch dân sự như: cổ phiếu, trái

phiếu,tấm séc... quy định như thế đã góp phần làm cho định nghĩa tài sản trở nên
phong phú và chính xác hơn về đối tượng. Mặt khác nó cũng có ý nghĩa quan trọng
trong nền kinh tế thị trường và giai đoạn hội nhập nước ta hiện nay.

- Quyền tài sản: Ngoài những vật, giấy tờ có giá thì quyền tài sản cũng
được coi là tài sản. Điều 181 BLDS 2005: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ
Qua cách phân tích khái niệm về tài sản ở trên ta có thể đưa ra khái niệm
về tài sản chưng của vợ chồng . “Tài sản chung của vợ chồng là tài sản của vợ chồng
cỏ trước hoặc sau kết hôn và đem nhập vào khối tài sản do hai vợ chồng tạo ra trong
thời kỳ hôn nhân Đe hiểu rõ thêm về tài sản chưng của vợ chồng thì theo quy định tại
Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tài sản chưng của vợ chồng bao gồm:
tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập hợp pháp do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản
mà vợ chồng được thừa ké chưng hoặc được tặng cho chưng và những tài sản khác mà
vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Đó là những căn cứ tạo lập tài sản chưng của vợ
chồng.

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

4

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành

Như vậy, tài sản chung của vợ chồng đã được xác định, căn cứ vào nguồn gốc
của tài sản. Nhằm cụ thể hóa quy định này, Nghị quyết số 02 của Hội Đồng Thẩm Phán
Tòa Án Nhân Dân Tối Cao (HĐTP-TANDTC) ngày 23/12/2000 có hướng dẫn: những

thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền
trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng xác lập
quyền sở hữu theo quy định tại Điều 247, 248, 250, 251, 252 Bộ Luật Dân Sự trong
thời kỳ hôn nhân.
Ngoài những quy định trên, theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2000/NQHĐTP-TANDTC thì: “trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu
phải có ghi tên của cả vợ chồng”. Thực tiễn cho thấy, chỉ những tài sản rất lớn, rất
quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi
tên của cả vợ chồng (như nhà ở, quyền sử dụng đất). Song nếu đối với các tài sản khác
phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận chỉ ghi tên của vợ hoặc
chồng (như xe môtô, tàu thuyền), nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của
vợ chồng. Nếu có tranh chấp tài sản riêng xảy ra thì người có tên trong giấy chứng
nhận quyền sở hữu phải chứng minh được đó là tài sản riêng của mình. Trong trường
hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản
riêng của mỗi bên thì đó là tài sản chung. Như vậy, khi có tranh chấp xảy ra thì yêu cầu
các bên phải có chứng cứ chứng minh được tài sản của riêng mình. Việc quy định như
vậy giúp xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ, chồng được dễ dàng
hom.
So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 đã có sự phát triển trong việc xác định tài sản chung của vợ, chồng. Nó đã
tiếp cận vấn đề này dưới góc độ mới, được thể hiện ở việc thừa nhận sự độc lập về tài
sản của mỗi người trong quan hệ hôn nhân. Nó cho phép có sự thể hiện tự do ý chí của
vợ chồng khi xác lập tài sản chung. Mặt khác, việc quy định tài sản chung của vợ
chồng đối với giá trị quyền sử dụng đất là điểm mới và tiến độ so với Luật Hôn nhân và
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

5

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn



Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
gia đình năm 1986. Quy định này là rất cần thiết và phù hợp với tình hình thực tế hiện
nay. Tuy vậy, trong cả hai đạo luật đều có sự thống nhất, đó là trong mọi tnrờng hợp,
tài sản chung của vợ chồng chỉ có thể là sở hữu chung hợp nhất và chế độ sở hữu chung
này là chế độ sở hữu pháp định.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam xác định tài sản chung của vợ chồng
căn cứ vào nguồn gốc tài sản đuợc hình thành, nó bao gồm rất nhiều khoản thu nhập
hợp pháp khác nhau đuợc phát sinh trong thời kỳ hôn nhân mà không phụ thuộc vào
việc ai trục tiếp tạo ra nó, quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000. Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP-TANDTC đã không đánh đồng tài sản có
trước thời kỳ hôn nhân của vợ chồng đều thuộc tài sản chung. Điều 15 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1959 cũng không bó hẹp phạm vi tài sản chung của vợ chồng như
Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, mà nó đã mở rộng ra đối với cả những
tài sản do vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung và tài sản là giá trị quyền sử dụng đất.
Đây là điểm mới tiến bộ hơn nó bảo đảm quyền định đoạt đối với tài sản riêng của công
dân, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc ngăn chặn hôn nhân không lành mạnh,
coi trong tiền bạc mà xem thường bản chất vốn có mang tính tốt đẹp của hôn nhân.
Như vậy, Luật xác định rõ phạm vi khối tài sản chung của vợ chồng, bao
gồm tất cả các tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân, không phân biệt
người nào tạo ra, ai có công nhiều hay ít trong việc hình thành khối tài sản chung. Việc
quy định phạm vi khối tài sản chung giúp vợ chồng hiểu và có trách nhiệm xây dựng,
duy trì và phát triển khối tài sản chung mà cùng nhau lao động vì lợi ích gia đình. Đồng
thời còn là cơ sở pháp lý giúp vợ chồng thực hiện quyền về mặt tài sản trong gia đình.
Tài sản chung của vợ chồng bao gồm:
* Tài sản chung do hoạt động tạo thu nhập: Tài sản tạo ra do thu nhập có thể có
nhiều loại thu nhập khác nhau, những khoản thu nhập có tính chất cơ bản quan trọng,
ổn định và chính đáng là các khoản thu nhập do lao động và hoạt động sản xuất kinh
doanh, đây là loại thu nhập xuất phát từ quyền cơ bản của công dân được ghi nhận
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang


6

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
trong Hiến Pháp là quyền được lao động và quyền có việc làm, quyền tự do sản xuất
kinh doanh.Vợ chồng có thể tạo ra thu nhập bằng con đường lao động trực tiếp như
trồng trọt, chăn nuôi, hoặc kinh doanh bằng cách đưa tài sản của mình tham gia vào các
giao dịch dân sự hoặc kinh tế để khai thác hoa lợi, lợi tức có thể đem tài sản của vợ,
chồng tham gia vào các hoạt động mua bán, góp vốn, tham gia trực tiếp hoặc thông qua
hùng hạp với người thứ ba. Ngoài việc trực tiếp lao động sản xuất kinh doanh vợ chồng
có thể tạo thu nhập bằng cách phổ biến hom từ quá trình phân công lao động hoặc các
hoạt động xã hội như tham gia vào các quan hệ lao động theo chế độ hợp đồng hoặc
các phưomg thức mang tính chất thời vụ.
Ngoài các khoản thu nhập trên, vợ chồng còn có các khoản thu nhập hợp pháp
khác, theo Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP-TANDTC ngày 23/12/2000 có quy định thu
nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là các khoản tiền lương,
tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng mà vợ chồng có được hoặc các tài sản mà vợ chồng xác
lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ (vật không xác định chủ sở hữu hoặc không biết
chủ sở hữu là ai), vật chôn giấu, chìm đấm (không tìm thấy), hoặc đối với vật do người
khác đánh rơi, bỏ quên (đối với gia súc gia cầm bị thất lạc mà các thời hạn mà chủ sở
hữu các vật nói trên không đến ghi nhận) thì thuộc tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân. Ngoài căn cứ nêu trên, Luật cũng quy định cụ thể để làm rõ chế độ
pháp lý đối với loại tài sản đặc biệt, có tính chất đặc thù đó là quyền sử dụng đất của vợ
chồng. Theo quy định của luật này thì quyền sử dụng đất của vợ chồng có được sau khi
kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, còn quyền sử dụng đất có trước khi kết hôn
được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.


1.1.2 Khái niệm quản lý tàỉ sản chung của vợ chồng
Vợ chồng là một khái niệm pháp lý gắn liền với nhân thân. Khi quan hệ hôn
nhân ra đời không chỉ hình thành nên quan hệ nhân thân mà còn hình thành nên quan
hệ tài sản chung của vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng là cơ sở quan trọng cho
việc đảm bảo đời sống vật chất của gia đình đây cũng là một trong những cái gốc quan
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

7

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


1 Bình luận khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt Nam, Tiến Sỹ Nguyễn Ngọc Điện, Nhà xuất
bản Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hànhtrẻ, Năm
xuất
bản
trọng xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc. Muốn đảm bảo những nhu cầu thiết
yếu và cả những nhu cầu tinh thần của gia đình, để thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, giúp
đỡ, thuơng yêu lẫn tinh thần thì cần phải có tài sản chung của vợ chồng mà vấn đề quản
lý tài sản chung của vợ chồng là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong khung cảnh của
luật định chua có quy định cụ thể về việc quản lý tài sản chung của vợ chồng cũng nhu
chua làm rõ đuợc khái niệm quản lý tài sản chung của vợ chồng. Nhung theo quy định
tại Điều 182 của BLDS 2005 “quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản” mà
“nắm giữ, quản lý” có thể bao hàm việc thực hiện quyền sử dụng (dùng và khai thác)
hoặc quyền không sử dụng (cất giữ)1. Trong chừng mực nào đó ta hiểu rằng quản lý tài
sản chung của vợ chồng là việc vợ chồng thực hiện quyền của mình để sử dụng, bảo
quản tài sản chung một cách hiệu quả không làm thiệt hại đến chúng. Mặt khác, quản lý
tức là quá trình tác động có ý thức và bằng quyền lực của chủ thể quản lý lên tài sản
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu của chủ thể đó mà chủ thể trong việc quản lý tài sản
chung là vợ chồng.

Trên thực tế thì vấn đề quản lý tài sản chung của vợ chồng chua đuợc quan tâm
nhiều nhung quan niệm của tôi về vấn đề này nhu sau: “Quản lý tài sản chung của vợ
chồng là việc vợ chồng thực hiện quyền của mình đổi với tài sản chung bao gồm:sử
dụng, bảo quản, cất giữ, tu bổ, nâng cấp hoặc sửa chừa lớn tài sản chung, cho mượn
và cho thuê tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại”.
Quản lý tài sản chung của vợ chồng được hiểu như trên không có một khái niệm
được ghi nhận trong hệ thống pháp luật, mà tùy thuộc vào mỗi nước về đặc điểm, hoàn
cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội, dặc biệt là tâm lý dân cư ... mà xây dựng nguyên tắc về
quản lý tài sản chung của vợ chồng cho hợp lý.

1.1.3 Khái niệm định đoạt tàỉ sản chung của vợ chồng
Theo từ điển pháp luật thì định đoạt là việc quyết định số phận pháp lý và số phận thực
2001 ,Trang 134,135

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

8

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


2 Nguyên lý và thực hành luật hôn nhân và gia đình, "ỉhsluật Nguyễn liến và Luật ga Quốc Tuấn, Tủ
sáchĐề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hànhkhoa học
pháp
dụng, định đoạt) của chủ sở hữu. Mà vợ chồng là chủ sở hữu tài sản nên vợ chồng có
quyền định đoạt tài sản. Tại Điều 195 của BLDS 2005 quy định: “Quyền định đoạt là
quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”. Quyền định đoạt
là một trong quyền vô cùng quan trọng đối với chủ sở hữu, đó là quyền của chủ sở hữu
trong việc xác lập các quan hệ pháp luật với nguời khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu của
mình. Việc thục hiện quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc quyền sở

hữu của mình phải thục hiện bằng một hành vi nhất định. Hành vi đó phải do một
nguời có năng lục pháp luật và năng lục hành vi xác lập, thục hiện, nếu không thì việc
định đoạt đó sẽ không có giá trị pháp lý. Do đó vợ chồng đủ điều kiện quy định của
pháp luật nên vợ chồng có quyền định đoạt tài sản chung. Tuy nhiên, vấn đề định đoạt
tài sản chung của vợ chồng chỉ có quy định về quyền định đoạt và căn cứ thực hiện
quyền đó cũng nhu chua làm rõ đuợc khái niệm định đoạt tài sản chung của vợ chồng
theo pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, vấn đề này đuợc hiểu nhu sau: “ Định đoạt tài sản
chung của vợ chồng là việc vợ, chồng quyết định số phận tài sản chung thông qua
phương thức tự thỏa thuận và theo di chúc chung của vợ chồng”. Do đó, việc định đoạt
tài sản chung ảnh huởng rất lớn đến đời sống gia đình cho nên định đoạt tài sản chung
phải có sụ đồng ý của vợ và chồng.

1.2 Nguyên tắc quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng
Nguyên tắc là những phuơng châm tu tuởng cần quán triệt trong nội dung của một
lĩnh vục nào đó còn nguyên tắc quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng là
những tu tuởng nguyên lý chỉ đạo, có ý nghĩa xuyên suốt trong việc quản lý và định
đoạt tài sản chung của vợ chồng2. Tài sản chung có thể có nguồn gốc từ công lao chung
của vợ chồng hoặc của vợ hoặc của chồng. Sụ đóng góp vật chất của mỗi nguời vào
việc tạo lập, phát triển khối tài sản chung có thể không ngang nhau. Tuy nhiên, một khi
đã là tài sản chung thì tài sản chịu sự quản lý chung của vợ và chồng. Đó là nguyên tắc
bình đẳng giữa vợ chồng mà vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý và định
lý, Trang 24

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

9

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn



Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
đoạt tài sản chung. Nguyên tắc này được ghi nhận trong BLDS 2005 và được nhắc lại
trong Luật Hôn nhân và gia đình 2000 với nội dung được liệt kê dưới đây:
Tại Điều 217 của BLDS 2005 quy định:
“1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đỏ phần quyền sở hữu của
mỗi chủ sở hữu chung không xác định đổi với tài sản chung.
Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất cỏ thể phân chia và sở chung
hợp nhất không thể phân chia.

2. Các chủ sở chung hợp nhất cỏ quyền, nghĩa vụ ngang nhau đổi với tài sản thuộc
sở hữu chung
Tại Điều 219 BLDS 2005 đã quy định:
“1 .Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.

2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi
người; cỏ quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung.

4. Tài sản chung của vợ chồng cỏ thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định
của Tòa án”.
Tại Khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã quy định:
“vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản chung”.

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

10


SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
Như vậy qua một số quy định cụ thể trên có thể cho thấy rằng nguyên tắc cơ bản,
xuyên suốt trong cả Luật Hôn nhân và gia đình và BLDS về quản lý và định đoạt tài
sản chung đó là vợ chồng luôn bình đẳng và có quyền ngang nhau trong việc quản lý và
định đoạt tài sản chung.
Trong thời kỳ hôn nhân về tài sản chung quyền hạn của vợ chồng theo nguyên tắc
bình đẳng, vợ chồng có quyền ngang nhau đối với tài sản chung, nhưng mỗi người
không thể tự mình thực hiện mà chỉ có thể cùng nhau thực hiện các quyền đó. Cả hai
vợ chồng cùng sử dụng, định đoạt tài sản có thể là sự thỏa thuận mặc nhiên hay rành
mạch. Tuy nhiên suy cho cùng thì việc sử dụng, định đoạt đó phải được vợ chồng thỏa
thuận. Đây mới là nguyên tắc cao nhất của việc quản lý và định đoạt tài sản chung của
vợ chồng. Việc thỏa thuận của vợ chồng đặc biệt quan trọng đối với những giao dịch
liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn, hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình.
Theo Khoản 4 Điều 4 của Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì nếu vợ chồng xác lập, thực
hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến tài sản chung mà không có sự đồng ý của
một bên tức giao dịch đó không có sự đồng ý của cả vợ chồng thì bên kia có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu theo quy định của pháp luật dân sự.
Tuy nhiên, nếu nói vợ chồng có quyền sử dụng, định đoạt tài sản chung hay một
trong hai người có độc quyền sử dụng, định đoạt tài sản chung hay một trong hai người
có độc quyền sử dụng, định đoạt tài sản chung ta có thể hiểu khi vợ chồng xác lập mặc
nhiên đã có sự đồng ý của người kia. Ngoại lệ có trường hợp vợ hoặc chồng lập di chúc
riêng để định đoạt tài sản chung, thật sự là việc định đoạt tài sản riêng có điều kiện.
Riêng ở đây có nghĩa là di chúc có hiệu lực sau khi người lập di chúc chết. Lúc này hôn
nhân đã chấm dứt và chế độ tài sản chung của vợ chồng chuyển thành chế độ sở hữu
chung theo phần. Nói tóm lại, sự thỏa thuận của vợ chồng luôn là điều kiện cần thiết
cho các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng có giá trị, tùy theo tính chất
và tầm quan trọng của tài sản liên quan so với khối tài sản chung mà ta có hình thức thể

hiện sự thỏa thuận khác nhau.

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

11

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
Nếu vợ hoặc chồng cùng một hoạt động kinh tế chung trong khuôn khổ của hộ
gia đình thì tài sản khai thác đuợc là tài sản của hộ gia đình và đuợc quản lý chung.
Nhung nếu vợ hoặc chồng hoạt động kinh tế riêng thì luật không nói rằng tài sản chung
dung cho hoạt động kinh tế riêng sẽ đuợc quản lý riêng. Thực tế khi vợ hoặc chồng
khai thác tài sản chung với tu cách là nguời hoạt động nghề nghiệp độc lập thì nguời
còn lại không can thiệp vào việc khai thác tài sản đó ngay cả khi tài sản đó có giá trị
lớn, tất cả các giao dịch liên quan đến tài sản đó đều do nguời khai thác tự mình xác
lập, thực hiện mà không cần sự đồng ý của nguời kia. Việc định đoạt tài sản, thực tế
cho thấy tùy theo tài sản liên quan đến động sản hay bất động sản mà có thể thực hiện
các giải pháp khác nhau. Định đoạt bất động sản luôn cần phải có sự đồng ý của vợ và
chồng, việc định đoạt tài sản chung có thể do nguời trục tiếp khai thác tài sản tụ mình
thực hiện, trừ trường hợp động sản thuộc loại phải đăng ký và người đăng ký lại là vợ
(chồng) của người khai thác tài sản. Nói tóm lại sự thỏa thuận của vợ chồng luôn là
điều kiện cần thiết cho nguyên tắc quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
Ngoài ra, Luật cho phép vợ hoặc chồng tự mình xác lập, thực hiện các giao
dịch liên quan đến tài sản chung mà không cần phải có sự đồng ý của người còn lại như
việc vợ chồng có thể tự mình xác lập các giao dịch nhằm bảo quản, sửa chữa những hư
hỏng thông thường xảy ra đối với tài sản chung. Đối với việc tu bổ, nâng cấp, sửa chữa
lớn tài sản chung của vợ chồng sẽ thực hiện theo nguyên tắc vợ hoặc chồng có thể xác
lập, thực hiện các giao dịch một cách hữu hiệu mà không cần sự đồng ý rành mạch của

chồng hoặc vợ; sự đồng ý này có thể mặc nhiên, thậm chí được hiểu ngầm. Tương tự
như vậy, vợ hoặc chồng có quyền tự mình cho mượn các động sản chung mà không cần
có sự đồng ý của người còn lại. Tuy nhiên, việc cho mượn tài sản trong một thời gian
dài, dù là tài sản có giá trị không lớn, phải được sự đồng ý của cả vợ và chồng. Như
vậy sự đồng ý của vợ chồng trong quản lý và định đoạt tài sản chung. Đó là thể hiện
nguyên tắc bình đẳng giữa vợ chồng trong việc quản lý và định đoạt tài sản chung của
vợ chồng.

1.3 Mục đích của việc quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

12

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
Trong xã hội có giai cấp, vấn đề quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng bị
chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị. Trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp
thống trị đều thông qua nhà nước, bằng pháp luật, tác động vào các quan hệ tài sản của
vợ chồng làm cho các mối quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với lợi
ích giai cấp đó.
Do pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nên trong nền lập pháp của
mỗi nhà nước, vấn đề quản lý và định đoạt tài sản chưng của vợ chồng đều theo ý chí
của nhà nước đó. Vì vậy, pháp luật Phong kiến quy định chế độ tài sản là bất bình đẳng
giữa vợ và chồng trong gia đình. Điều này nhằm bảo vệ tư tưởng gia trưởng của chế độ
Phong kiến, người vợ hoàn toàn không có quyền gì đối với tài sản chung mà tất cả tài
sản đều thuộc về người chồng quản lý và định đoạt.
Đối với, Nhà nước Tư sản, thì Hôn nhân được xem như một hợp đồng rất được coi

trọng. Có thể xem hợp đồng như là cơ sở để hình thành quan hệ hôn nhân. Pháp luật Tư
sản, pháp luật của nhà nước Phong kiến, pháp luật của nhà nước Xã hội chủ nghĩa đều
có quy định về vấn đề này vừa có tình lẫn có lý, vừa phù hợp với đạo đức xã hội và
nguyện vọng của nhân dân lao động xuất phát từ bản chất pháp luật luôn vì lợi ích của
nhân dân. Đối với pháp luật của nhà nước ta, việc quy định về quản lý và định đoạt tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có mục đích sau:
Mục đích quan trọng hàng đầu của chế định này là giúp cho vợ chồng quản lý và
định đoạt tài sản chung được tốt hơn, bên cạnh đó tạo điều kiện cho vợ chồng được tự
do kinh doanh, mặt khác nhằm khôi phục khối tài sản riêng của mỗi bên. Như ta đã biết
do không có lý thuyết về tài sản thay thế nên khối tài sản chung luôn có khuynh hướng
thu hút các khối tài sản riêng nhập vào nó. Do đó khi có quy định về quản lý và định
đoạt tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các
khối tài sản riêng được tồn tại. Quy định như vậy nhằm xóa bỏ sự bất bình đẳng về mặt
tài sản giữa vợ và chồng do pháp luật Phong kiến, Thực dân trước kia để lại và được
thay thế bằng những quy định mới. Trong đó, hệ thống pháp luật mới của ta đã quy
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

13

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
định một cách hợp tình hợp lý và bảo đảm được quyền bình đẳng giữa vợ và chồng.
Mục đích này đáp ứng được mong muốn của hàng triệu phụ nữ Việt Nam để có một vị
trí bình đẳng với người chồng trong gia đình. Điều này, trước kia đã bị pháp luật Phong
kiến phủ nhận. Do sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và lối sống phương Tây.
Cho nên hiện nay, tình trạng mâu thuẫn trong việc quản lý và định đoạt tài sản của vợ
chồng ở nước ta xảy ra khá nhiều và trở thành vấn đề cần quan tâm của xã hội. Chính
vì vậy để hạn chế bớt các trường hợp việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng thực

hiện không đúng các quy định pháp luật. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 không có quy định cụ thể về các biện pháp chế tài trong các trường hợp vợ, chồng
thực hiện các hành vi quản lý tài sản vượt quá quyền hạn của mình. Cho nên pháp luật
cần phải có quy định các chế tài để đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc
quản lý và định đoạt tài sản chung. Làm cho cuộc sống gia đình không có mâu thuẫn
tạo điều kiện phát triển kinh tế.
Một mục đích không kém phần quan trọng khác là nhằm tạo điều kiện để vợ
chồng có thể độc lập khi tham gia vào các quan hệ xã hội, vì khi các chủ thể có tài sản
độc lập có thể dễ dàng tham gia vào các hoạt động kinh doanh, hay là khi một bên có
nhu cầu trả nợ hoặc thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc người thân. Việc sử dụng
khối tài sản chung của vợ chồng sẽ phát sinh mâu thuẫn, do đó việc định đoạt tài sản
chung là giải pháp thỏa đáng. Mặt khác, việc đưa ra quy định quản lý và định đoạt tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn nhằm mục đích không kém phần
quan trọng đó là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người thứ ba, có quan hệ với một bên
vợ hoặc chồng. Bởi vì, trên cơ sở những quy định của pháp luật với người thứ ba sẽ xác
định được quyền hạn của người vợ, người chồng trong việc xác lập giao dịch làm cho
quyền lợi của họ được bảo đảm hơn. Ví dụ: Trong một số trường hợp nhất định pháp
luật buộc cả hai vợ chồng thể hiện sự đồng ý của mình trong giao dịch quan trọng, để
bảo đảm lợi ích của bên thứ ba tham gia.
Như vậy việc đưa ra quy định “quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân” có ý nghĩa hết sức to lớn đối với hệ thống pháp luật nói riêng
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

14

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
và đối với sự phát triển của xã hội nói chung. Nó không chỉ những ảnh hưởng trực tiếp

đến đời sống của gia đình, mà còn có ý nghĩa đối với sự phát triển nền kinh tế của nước
ta. Quy định này đã thể hiện sự bình đẳng giữa vợ chồng, xóa bỏ sự bất công mà xã hội
Phong Kiến đã tồn tại hàng ngàn năm và một khi muốn phát triển xã hội ta phải xóa bỏ
được định kiến bất công này.
Bên cạnh đó, việc có quy định trên còn tạo điều kiện để vợ chồng tự do tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh riêng, nhưng vẫn đảm bảo sự liên kết bền chặt giữa
vợ chồng bằng quan hệ hôn nhân, ổn định hạnh phúc gia đình. Gia đình tồn tại thì xã
hội mới phát triển được, một trong những chức năng chính của gia đình là chức năng
kinh tế. Theo triết học Mác-Lênin thì vật chất quyết định ý thức vì thế nếu kinh tế
không phát triển thì gia đình sẽ không hạnh phúc và xã hội không thể phồn thịnh được.
Vì vậy, khi mỗi công dân đều tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra thật
nhiều của cải, xây dựng gia đình hạnh phúc thì xã hội sẽ phồn thịnh và vững mạnh.
Quy định này cũng đã tạo điều kiện cho người phụ nữ có một chỗ đứng ngang bằng với
nam giới trong việc đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước .
Thực tế đã cho thấy phụ nữ có khả năng đóng góp rất nhiều trong sự nghiệp phát triển
đất nước. Đồng thời quy định này còn góp phần ổn định các mối quan hệ trong gia
đình, khi có mâu thuẫn phát sinh nhưng với những quy định rõ ràng về việc quản lý và
định đoạt tài sản chung của vợ chồng thì vấn đề tranh chấp tài sản giữa vợ chồng sẽ
được hạn chế bớt, tạo điều kiện cho kinh tế gia đình phát triển. Cho nên, chế định này
đã đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn xã hội hiện nay cho nên rất phù hợp với cơ chế
thị trường, phù hợp với Hiến Pháp, Bộ Luật Dân Sự, Luật Đất Đai và các văn bản khác
có liên quan. Tóm lại, việc quy định cụ thể căn cứ xác lập tài sản chung cũng như việc
quản lý và định đoạt chúng đã phần nào giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết các vụ việc trên một cách nhanh chóng, rõ ràng góp phần ổn định đời sống xã
hội.

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

15


SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
CHƯƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ VÀ ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

2.1 Quản lý tài sản chung của vợ chồng
Quản lý tài sản chung của vợ chồng theo thỏa thuận
Việc quản lý tài sản chung theo luật chung được thực hiện theo một hệ
thống các quy tắc hình thành xung quanh nguyên tắc nhất trí. Theo quy định tại
Điều 221 của BLDS 2005 “Các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản chung theo
nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp cỏ thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác”. Mà chủ sở hữu chung đó là vợ chồng trong quản lý tài sản chung do đó sự
thỏa thuận của vợ chồng là điều kiện cần thiết cho việc quản lý tài sản chung được
nhất quán. Làm cho việc quản lý được tốt hơn không làm thiệt hại và ảnh hưởng
đến lợi ích cuả Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác.

Quản lý tài sản chung của vợ chồng có hiểu là hai vợ chồng cùng nhau bàn
bạc, thỏa thuận đưa ra những hướng phát hiển tốt nhất cho khối tài sản chung và sử
dụng, định đoạt tài sản chung như thế nào cho hợp lý và hiệu quả nhất đồng thời cả hai
vợ chồng phải cùng nhau thực hiện tốt những mục tiêu đã được đề ra.
Bảo quản và sử dụng: Vợ chồng có quyền bình đẳng với nhau đối với tài
sản chung và đồng thời cũng bình đẳng với nhau về nghĩa vụ đối với tài sản chung, vì
vậy cả hai vợ chồng đều có quyền quản lý tài sản chung như bảo quản, tu bổ, nâng cấp,
cho mượn, cho thuê,...và để làm được việc đó,có thể tự mình xác lập tất cả các giao
dịch cần thiết mà không cần có sự đồng ý của người còn lại. Khi phát hiện thấy tài sản
chung có dấu hiệu bị hư hỏng thì vợ chồng có quyền đem sửa chữa lại, hoặc đối với

những vật đã cũ và hư hỏng thì có thể đem bán, ví dụ như trong nhà có một chiếc quạt
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

16

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


3 Bình luận khoa học luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000, Tập 2-Cácquan hệ tài sản gữa vợ
Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hànhchồng, Tiến

Nguyễn
đã cũ thì người YỢ có quyền tự mình đem đi sửa và nếu nó không sử dụng được nữa thì
có thể đem bán đi mà không cần hỏi ý kiến của chồng, ngoài ra thì một trong hai vợ
chồng cũng được quyền tự mình tiến hành các vụ kiện liên quan đến tài sản chung như
kiện yêu cầu chấm dứt sự quấy nhiễu đối với việc chiếm hữu tài sản chung, kiện đòi tài
sản, đòi bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm hại hoặc tiến hành các vụ kiện yêu cầu
buộc thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng liên quan đến tài sản chung3 . Có vẻ như
trong khung cảnh của luật thực định các quy tắc này được áp dụng đối với tất cả các
loại tài sản chung, kể cả những tài sản có giá trị lớn thì cả hai vợ chồng đều phải thực
hiện bảo quản tốt tất cả tài sản chung đó vì một mục đích chung là lợi ích của gia đình.
Khi tài sản chung là một chiếc xe chở khách do người chồng làm tài xế, nếu chiếc xe bị
hư thì người chồng có quyền tự mình đem xe đi sửa chữa lại. Nhìn chung thì việc bảo
quản, sử dụng tài sản chung gia đình có thể do vợ hoặc chồng tự mình quyết định thực
hiện.
Tu bổ, nâng cấp: Việc tu bổ, nâng cấp tài sản chung của vợ chồng là hết
sức cần thiết vì tu bổ có thể dẫn đến sự cải thiện chất lượng và công dụng của tài sản,
làm cho tài sản có hình thức bề ngoài đẹp hơn, cũng như có thể làm tang giá trị của tài
sản. Tuy nhiên, Luật không có quy định chi tiết về quyền của vợ, chồng trong việc xác
lập các giao dịch nhằm tu bổ tài sản chung. Hẳn, mọi chuyện tùy thuộc vào tầm quan

trọng của việc tu bổ tài sản cũng như của tài sản được tu bổ đối với gia đình. Trên thực
tế, vợ hoặc chồng có thể tự mình giao kết việc tu bổ cả một chiếc ôtô mà không cần có
sự đồng ý của người còn lại; trong khi việc tu bổ nhà ở chung phải được sự đồng ý của
cả vợ và chồng. Rất khó sử dụng phương pháp quy nạp để xây dựng một giải pháp tổng
quát từ các giải pháp cá biệt này: đối với người Việt Nam hiện nay, cả nhà ở và ôtô đều
là những tài sản rất quan trọng, mà theo luật thì khi thực hiện các giao dịch liên quan
đến tài sản có giá trị lớn trong gia đình thì phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận,
đồng thời việc tu bổ các tài sản này đều có thể cần những khoản đầu tư lớn, chính vì lý
do đó mà khi thực hiện việc tu bổ lại tài sản chung thì cả hai vợ chồng với nhau để đưa
ra những quyết định chung về việc nâng cấp, tu bổ tài sản chung. Như vậy, việc tu bổ,
Ngọc Điện, Nhà xuat bản trẻ TP. HCM 2004.

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

17

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
nâng cấp tài sản chung của vợ chồng phải có sự thỏa thuận giữa vợ chồng vì như vậy
thể hiện đúng nguyên tắc bình đẳng của vợ chồng trong việc quản lý tài sản chung.
Cho mượn, cho thuê: Vợ, chồng có quyền bình đẳng như nhau đối với tài
sản chung trong gia đình, họ có quyền tự mình cho người thứ ba mượn động sản là tài
sản chung, đặc biệt là những vật có thể đem đi một cách dễ dàng như công cụ lao động
trong nhà (cuốc, xẻng,...), đồ dùng sinh hoạt (bàn chải, chổi,...) hoặc những tài sản có
giá trị lớn hơn như xe máy, xe đạp,... mà không cần sự đồng ý của người còn lại, tuy
nhiên việc quyết định này cũng chỉ được thực hiện trong một mức độ và giới hạn nhất
định, thông thường thì các giao dịch này thường đối với người thân quen và có thời
gian rất ngắn là vài giờ hoặc vài ngày. Nếu muốn cho người thứ ba mượn tài sản chung

dù tài sản đó có giá trị nhỏ nhưng trong thời gian dài thì cũng đến sự đồng ý và thỏa
thuận của cả hai vợ chồng, hoặc là những tài sản mà gia đình sử dụng thường xuyên,
hằng ngày thì hai vợ chồng cũng cần phải ý kiến của nhau khi đưa ra quyết định cho
mượn. Mặc dù có nhiều tài sản cho mượn cần đến sự đồng ý và thỏa thuận của cả hai
vợ chồng nhưng như vậy không nhất thiết là cả hai cùng đứng ra xác lập giao dịch mà
với sự đồng ý của người vợ (chồng) thì người còn lại có thể tự mình xác lập giao dịch
cho mượn. Trong những tình trạng cấp thiết thì vợ hoặc chồng có thể cho mượn tài sản
trước sau đó sẽ thông báo lại sau cho người còn lại, ví dụ như một người có con bị
bệnh muốn chở con đi bệnh viện nhưng xe nhà bị hư nên phải qua mượn xe máy, đây là
tình trạng cấp thiết nên người vợ có thể cho mượn sau đó sẽ thông báo sau cho chồng
biết sau. Nói tóm lại, tài sản chung của vợ chồng khi cho mượn thì nhất thiết phải có sự
đồng ý và thỏa thuận của vợ chồng trừ trường hợp tình trạng cấp thiết.
Như đã nói thì vợ chồng phải có sự thỏa thuận với nhau trong việc cho
mượn tài sản chung và thể hiện nguyên tắc nhất trí trong xác lập giao dịch cho mượn
đối với người thứ ba. Nggoài ra thì vợ chồng bình đẳng, tự do trong hoạt động nghề
nghiệp, vì vậy vợ hoặc chồng không có quyền lấy tài sản dùng trong hoạt động nghề
nghiệp riêng giao dịch và ảnh hưởng đến nghề nghiệp của người còn lại để cho người
thứ ba mượn mà không cần có sự đồng ý của người đó. Tuy nhiên trong trường hợp mà
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

18

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
tài sản trong hoạt động nghề nghiệp riêng mà không sử dụng đến và cũng không liên
quan đến bí mật kinh doanh thì vợ hoặc chồng có thể cho người thứ ba mượn mà không
cần hỏi ý kiến của người có tài sản trong hoạt động nghề nghiệp riêng đó. Ví dụ người
vợ có một spa chăm sóc sắc đẹp nhưng hôm đó nghĩ làm một bữa, và có người hàng

xóm quen qua cắt và sấy tóc nhưng tiệm nghĩ làm nên tỏ ý muốn mượn máy sấy tóc để
tự sấy và người này lại tỏ ra rất thành thạo với những dụng cụ chăm sóc sắc đẹp thì
người chồng có quyền cho người hàng xóm mượn mà không cần phải chờ hỏi ý kiến
của vợ vì thời gian này người vợ không sử dụng tới máy sấy tóc, và nó cũng không ảnh
hưởng đến nghề nghiệp riêng của người vợ. Qua ví dụ cho thấy rằng thì vợ hoặc chồng
có quyền tự mình cho người khác mượn tài sản nếu việc mượn tài sản đó không ảnh
hưởng đến nghề nghiệp riêng của vợ hoặc chồng.
Đối với giao dịch cho thuê thì tùy vào tài sản đó là động sản hay bất
động sản và giá trị, tầm quan trọng của tài sản đó đối với gia đình mà vợ chồng có cần
hỏi ý kiến hay thỏa thuận bàn bạc với nhau hay không. Đối với bất động sản và các
động sản có giá trị và tầm quan trọng đối với gia đình thì chắc chắn khi cho thuê thì hai
vợ chồng phải cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận và đồng ý với nhau mới được phép cho
thuê “ Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung
có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để
đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận” (Khoản 3 Điều 28 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000). Trên thực tế thì đa số các giao dịch cho thuê đều là tài
sản có giá trị lớn như cho thuê nhà, thuê xe,..., nếu có các giao dịch cho thuê các tài
sản có giá trị nhỏ thì hầu như đó lại là tài sản trong hoạt động nghề nghiệp như cho
thuê sách, thuê băng, đĩa phim,... nếu trong hoạt động nghề nghiệp chung thì hai vợ
chồng có toàn quyền đối với tài sản đó, nên được quyền cho thuê mà không cần ý kiến
của người còn lại, còn nếu trong hoạt động nghề nghiệp riêng thì người hoạt động
nghiệp riêng này được quyền độc lập thực hiện giao dịch mà không càn hỏi ý kiến
người còn lại. Như vậy, việc cho thuê những tài sản chung có giá trị lớn phải có sự bàn
bạc, thỏa thuận và đồng ý của cả vợ và chồng.

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

19

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn



4 Bình luận khoa học luật hôn nhân gia đình, Đinh Thị Mai Phương, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2004
Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc quản lý tài sản chung
Khi hôn nhân ra đời nó sẽ hình thành nên mối quan hệ nhân thân và quan hệ
tài sản. Khi hôn nhân đang tồn tại thì mối quan hệ tài sản của vợ chồng cũng tồn tại,
mối quan hệ về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là các vấn đề liên quan đến
tài sản chung, việc quản lý và định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân, mặt khác nó còn là quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc quản lý tài sản
chung của vợ chồng.
Mọi tài sản đuợc gọi là tài sản chung của vợ chồng thì tài sản đó đuơng nhiên
phải có hai chủ sở hữu thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản đó trong việc quản
lý theo Khoản 1 Điều 219 BLDS 2005 “Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung
hợp nhất”, do đó mỗi chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền đối với toàn bộ tài sản
chung, nhu vậy mỗi nguời có quyền sử dụng, định đoạt đối với toàn bộ tài sản chung,
quy định này cũng tỏ ra khá phù hợp với nguyên tắc vợ chồng đều bình đẳng ngang
nhau trong mọi mặt của đời sống xã hội. Ngoài ra, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
cũng đã quy định tại Khoản 1 Điều 28 thì “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”. Nhu vậy, Quyền đối với tài
sản chung giữa vợ chồng đuợc xác định trên cơ sở bình đẳng, bao gồm các quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đối với khối tài sản chung, đồng thời vợ chồng
cũng bình đẳng về các nghĩa vụ như đóng góp chi phí duy trì, bảo quản, sửa chữa tài
sản chung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi tài sản chung gây thiệt hại cho người khác,
nghĩa vụ trả nợ vay, mượn để chi phí cho nhu cầu chung của gia đình.. .Ngoài ra, vấn
đề quản lý của vợ chồng đối với tài sản chung đã được cụ thể ở ba quyền năng: quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt phù hợp với BLDS 2005. Trong gia đình
vợ cũng như chồng đều có quyền nắm giữ, quản lý tài sản chung thuộc sở hữu chung,
đều có quyền khai thác công dụng, hưởng lợi ích từ tài sản cũng như quyền định đoạt
sản phẩm của tài sản đó và đồng thời có quyền chuyển giao hoặc từ bỏ quyền sở hữu4.


GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

20

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành

“Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản” (Điều 182 BLDS 2005),
quyền chiếm hữu tài sản chung của vợ chồng là quyền của vợ chồng nắm giữ, quản lý
tài sản chung với tu cách là đồng sở hữu nên vợ chồng có quyền nhang nhau trong việc
chiếm hữu khối tài sản ấy. Việc chiếm hữu tài sản chung của vợ chồng thể hiện một
cách đầy đủ cả về mặt vật chất lẫn pháp lý. về mặt vật chất, vợ, chồng có quyền trục
tiếp trong việc nắm giữ và quản lý tài sản. về mặt pháp lý, quyền chiếm hữu của vợ
chồng là như nhau và được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, do tài sản chung của vợ
chồng là tài sản thuộc sở hữu hợp nhất và khi một bên vợ hoặc chồng muốn chiếm hữu
tài sản chung thì cần có sự nhất trí của bên còn lại. Vợ hoặc chồng muốn chuyển giao
quyền chiếm hữu tài sản chung của mình cho người khác trong một số trường hợp thì
phải cần hỏi ý kiến của bên còn lại. Hơn nữa, do tính chất của tài sản chung là dùng để
đáp ứng các nhu cầu chung của gia đình, nên giữa vợ và chồng cần phải phối hợp hài
hòa, thỏa thuận, bàn bạc với nhau khi chiếm hữu tài sản chung. Tuy nhiên, với nếp
sống truyền thống của gia đình Việt Nam thì việc chiếm hữu tài sản chung có khi chỉ
do một bên thực hiện trên thực tế. Đó là quyền chiếm hữu của vợ chồng trong việc
quản lý tài sản chung.
Quyền sử dụng là một trong những quyền quan trọng của việc quản lý tài
sản chung, theo Điều 192 BLDS 2005 quy định “Quyền sử dụng là quyền khai thác
công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Từ đó có thể suy ra, quyền sử dụng tài
sản chung của vợ chồng là quyền của vợ, chồng cùng nhau khai thác công dụng, hưởng

hoa lợi, lợi ích từ tài sản chung đó. Mà quyền sử dụng tài sản chung đó nằm trong việc
quản lý khối tài sản chung của vợ chồng.Tài sản chung của vợ chồng chỉ được sử dụng
với hai mục đích: chi dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình và thực hiện các nghĩa vụ
chung của vợ chồng. Cách thức sử dụng tài sản chung do vợ, chồng quyết định sao cho
công dụng của tài sản chung được khai thác tối ưu nhất để thực hiện tốt các nhu càu
của gia đình nhưng không được gây hại làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của cộng đồng. Quyền sử dụng tài sản chung của vợ, chồng là ngang nhau, họ có quyền
sử dụng tài sản theo ý mình nhưng phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của gia đình và
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

21

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


Đề tài: Quản lý và định đoạt tài sản chung của vự chồng thep pháp luật hiện hành
tùy từng trường hợp mà vợ, chồng nên thống nhất ý chí với nhau khi sử dụng khối tài
sản chưng, khi việc khai thác, sử dụng có thể dẫn đến rủi ro làm mất mác, hư hỏng đối
với tài sản chung đó thì cần phải có sự đồng ý giữa hai vợ chồng.
Tài sản chưng được sử dụng để đảm bảo các nhu cầu gia đình, đó là nhu cầu
chính đáng của vợ, chồng, con cái và các thành viên khác trong gia đình, nhu cầu này
chỉ gắn liền với nhân thân của mỗi bên, nhưng có thể xem đó là nhu cầu chung của vợ
chồng. Pháp luật hôn nhân ghi nhận tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân từ hoạt
động sản xuất kinh doanh, lao động của mỗi bên là tài sản chung. Do đó, những nhu
cầu cần thiết để tạo lập nên khối tài sản chung phải được coi là nhu cầu chung của gia
đình. Sự chi dùng hợp lý ở đây còn căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của gia
đình và phù hợp với quy định pháp luật.
Bên cạnh việc dùng tài sản chung để nhằm phục vụ nhu cầu chung của gia
đình, tài sản chung của vợ chồng còn được dùng để thực hiện các nghĩa vụ chung phát
sinh khi một hoặc cả hai bên vợ, chồng thực hiện hành vi vì lợi ích gia đình hoặc nghĩa

vụ phát sinh theo thỏa thuận của vợ chồng.
Pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam chưa có điều khoản cụ thể nào quy
định nghĩa vụ tài sản chung của vợ, chồng cũng như nghĩa vụ của vợ chồng trong việc
quản lý khối tài sản chung. Tuy nhiên, căn cứ vào mục đích của việc thực hiện hành vi
làm phát sinh nghĩa vụ tài sản và căn cứ vào thỏa thuận của vợ chồng có thể xác định
được nghĩa vụ chung của vợ chồng gồm các nghĩa vụ sau:
-Nợ phát sinh trong chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ con cái,
nghĩa vụ này bao gồm cả việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do con gây ra.
-Nợ phát sinh có liên quan đến những công việc do vợ, chồng cùng tiến
hành bao gồm những khoản nợ do một bên làm phát sinh không vì lợi ích gia đình
nhưng được bên kia đồng ý dùng tài sản chung để thanh toán.

GVHD: Huỳnh Thị Trúc Gang

22

SVTH: Nguyễn Đặng Toàn


×