Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân thị xã bạc liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.82 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẰN THƠ
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
KHÒA LUẬT
0

LUẬN VĂN TÓT NGHIỆP cử NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2005-2009

Đề tài:

ĐỔI MỚI TỘ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỊ XÃ
BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

Giảo Viên Hướns Dan
Phạm Thị Diệu Hiền

Sinh Viên ThưcHiên:
Lê Thị Mộng Thi
MSSV: 50*54931
Lớp: Luật Thương Mại 2 - K31

=1 -_
_-__f=
Cần Thơ, 4/2009


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN


MỤC LUC


Trang
LỜI
NÓI
ĐÀU
...............................................
1. Tính cấp thiết của đề
tài.
2. Phạm vi nghiên cứu.....
3 .Phương pháp nghiên cứu
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VÈ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

.......1
.......1
.......1
.....2
......2

.................................................................................................................................3
1.1 Cơ sở lý luận về Viện kiểm sát nhân dân........................................................3
1.1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân....
................................................................................................................................3
1.1.1.1 Giai đoạn từ năm 1945-1959 ..............................................................3
1.1.1.2 Giai đoạn từ năm 1959-1980...............................................................4
1.1.1.3 Giai đoạn từ năm 1980-1992...............................................................4
1.1.1.4................................................................................................................ G
iai đoạn từ năm 1992-nay..................................................................................5
1.1.2 Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân....................................................5
1.1.2.1 Chức năng công tố...............................................................................6
1.1.2.2 Chức năng kiểm sát..............................................................................6
1.1.3 Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân......7

1.1.3.1 Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành.......................8
1.1.3.2 Nguyên tắc độc lập không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan Nhà nước nào
ở địa phương...........................................................................................................8
1.1.3.3 Nguyên tắc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân chịu sự giám sát của
Cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp..................................................................9
1.2 Cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân..............10
1.2.1 Tổ chức của Viện kiếm sát nhân dân theo quy định của pháp luật hiện
hành......................................................................................................................10
1.2.2 Hoạt động của Viện kiếm sát nhân dân theo quy định của pháp luật hiện
hành......................................................................................................................11
1.2.2.1 Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự .... 11
1.2.2.2 Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.........14
1.2.2.3 Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.................
15


1.2.2.4.............................................................................................................. Kiể
m sát việc thi hành án......................................................................................17
1.2.2.5 Kiểm sát việc tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù......................................................................................................18
1.3 Viện kiểm sát nhân dân trong công cuộc cải cách tư pháp............................19
1.4 Các mô hình cơ quan công tố đang tồn tại trên thế giới...............................25
CHƯƠNG 2: THựC TIỄN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIẾM
SÁT NHÂN DÂN THỊ XÃ BẠC LIÊU.................................................27
2.1 Sơ lược về Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu......................................27
2.2 Kết quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu...................28
2.2.1. về tình hình tội phạm................................................................................28
2.2.2 về các mặt công tác của ngành................................................................30

2.3 Chương trình công tác kiếm sát năm 2009 của Viện kiếm sát nhân dân thị xã
Bạc Liêu................................................................................................................37
2.3.1 Nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo, kiểm sát viên; tạo sự chuyển biến
manh mẽ trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực hình sự...........................................................................................38
2.3.1.1 Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra....................38
2.3.1.2 Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử......................38
2.3.1.3. Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù.............................................................................................39
2.3.2 Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, vụ án hành chính; kiểm sát thi hành
án, giải quyết khiếu nại, tố cáo.............................................................................39
2.3.2.1 Công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, kinh doanh thương
mại, lao động, vụ án hành chính...........................................................................39
2.3.2.2Công tác kiểm sát thi hành án...............................................................39
2.3.2.3 Công tác kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo.................................40
2.3.3 Tiếp thu thực hiện tốt các nhiệm vụ về cải cách tư pháp và đẩy mạnh
công tác xây dựng ngành......................................................................................40
2.3.3.1 Chú trọng công tác tổ chức cán bộ, nâng cao năng lực, tinh thần trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên; tăng cường kỷ cương, kỷ luật nhằm đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới..........................................................40
2.3.3.2 Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quản 11, chỉ đạo, điều hành ..
.........................................................................................................................41
2.4 Những khó khăn vướng mắc đang tồn tại trong quá trình tổ chức và hoạt


2.4.1 Vê cơ câu tô chức....................................................................................41
2.4.2.................................................................................................................... về
hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện...........................................42
2.4.2.1.............................................................................................................. Tr

ong công tác thực hành quyền công tố............................................................42
2.4.2.2 Trong công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp................................45
2.5 Những kiến nghị nhằm hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu nói riêng và Viện kiếm sát nhân dân nói chung..
............................................................................................................................ 46
2.5.1 về cơ cấu tổ chức....................................................................................47
2.5.2 về hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ..........................................49
2.5.2.1 Trong công tác thực hành quyền tư pháp.............................................49
2.5.2.2................................................................................................................. Tr


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Bạc Liêu là một tỉnh thuộc bán đảo Cà Mau - Việt Nam, miền đất cực Nam
của tổ quốc. Bạc Liêu có 6 huyện là: Hòa Bình, Vĩnh Lợi, Hồng Dân, Giá Rai,
Phước Long, Đông Hải và một thị xã Bạc Liêu - trung tâm hành chính, kinh tế,
chính trị của tỉnh. Thị xã Bạc Liêu có tổng diện tích 17.184 ha, với tổng số dân là
134.714 người. Thị xã Bạc Liêu đã được Bộ trưởng Bộ xây dựng Nguyễn Hồng
Quân ra Quyết định số 1779/QĐ-BXD ngày 26/12/2006 công nhận là đô thị loại
m, thị xã trực thuộc tỉnh.
Sau gàn 12 năm đổi mới (1997 - 2009), cùng với sự phát triển về kinh tế,
văn hoá, chính trị, xã hội của tỉnh, theo đó là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các
loại tội phạm, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội. Diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm đã và đang đặt ra yêu cầu
đối với các Cơ quan nhà nước nói chung, hệ thống Cơ quan tư pháp ở Bạc Liêu
càn phải được kiện toàn hơn nữa về tổ chức và hoạt động, nhất là cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân ở địa phương, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc

Liêu. Với mục tiêu là xây dựng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu ngày càng
vững manh theo tinh thần cải cách Tư pháp mà Nghị quyết số 08/2002-NQ/TW
ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/2005-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
chính trị đã đề ra đến năm 2020.
Như vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị
xã Bạc Liêu trong tình hình mới là một vấn đề cấp thiết đang được đặt ra không
chỉ đối với các cấp lãnh đạo tỉnh mà còn là sự chung tay của mỗi người con s inh ra
và lớn lên ở Bạc Liêu, góp phần xây dựng thị xã ngày càng phát triển không chỉ về
kinh tế mà còn trong lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự, chính trị trên địa bàn. Đó
chính là 11 do để tác giả đã chọn đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu”.

2. Phạm vi nghiên cứu.
Do thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp cũng như kiến thức còn hạn chế. Nên
trong nội dung của Luận văn này, tác giả chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu về tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu, một số vướng mắc, khó
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền
SVTILLê Thị Mộng Thi
1


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.

3. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên một số phương pháp như là đi tìm hiểu
thâm nhập thực tế, thống kê, so sánh những số liệu trên thực tế. Đặc biệt là sử
dụng phương pháp đặc trưng của sinh viên Luật - phương pháp phân tích luật viết.

4. Bố cục luận văn.
Bên cạnh lời mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo và kết luận chung. Luận

văn được chia thành hai phàn tương ứng với hai chương, hai vấn đề được người
viết quan tâm phân tích. Đó là:
Chương 1 Khái quát chung về Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2 Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
Thực tiễn và một số kiến nghị.
Do chỉ dừng lại ở trình độ của một Cử nhân Luật nên trong quá trình nghiên
cứu, luận văn không tránh khỏi có những sai sót. Kính mong quý thầy cô và các
bạn thông cảm bỏ qua và đóng góp ý kiến để luận văn có thể hoàn thiện hơn, cũng

GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

2

SV TILLê Thị Mộng Thi


1 Trường Đại học Luật Hà Nội - Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam - Nxb Công an nhân dân 2004. Trang
530.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1 Ctf sở lý luận về Viện kiểm sát nhân dân.

1.1.1 Stf lược về lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân

dân.
1.1.1.1 Giai đoạn từ năm 1945 -1959.
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Nhà nước ta đã chú ý

đến việc ban hành các văn bản pháp luật và thành lập ra các cơ quan chuyên trách
bảo vệ pháp luật như tòa án, thanh tra, công an.... Cùng với tòa án, thanh tra,
Chính phủ cũng như ủy ban kháng chiến hành chính liên khu đều có trách nhiệm
bảo vệ pháp luật và thực hành quyền công tố. Cụ thể, theo sắc lệnh số 64 ngày
23/11/1945 về thành lập một ban thanh tra đặc biệt tại Điều 4 có quy định: “Tòa án
đặc biệt có Chủ tịch Chỉnh phủ lâm thời làm Chánh án, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và
Bộ trưởng Bộ tư pháp làm hội thắm. Một ủy viên trong ban thanh tra đứng buộc
tộf\ Ngày 21/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh số 13 về tổ chức
các tòa án và các ngạch thẩm phán, theo sắc lệnh thì, tại các phiên tòa, Chưởng lý,
Phó Chưởng lý, Biện lý ngồi ghế công tố viên. Ngày 19/11/1948, Chủ tịch Chính
phủ ra Sắc lệnh số 254 về tổ chức lại chính quyền nhân dân trong thời kỳ kháng
chiến, tại Điều 22 có quy định: “ủy ban kháng chiến hành chỉnh liên khu được sử
dụng quyền công tố tại tòa án thường và tòa án quân sự, sau khi hỏi ỷ kiến Giảm
đốc tư pháp liên khu ”l. Như vậy, trong thời gian này, Nhà nước ta không thành lập
cơ quan thực hành quyền công tố riêng, quyền công tố được giao cho các cơ quan
nhà nước khác nhau.
Sau cải cách tư pháp năm 1950, tổ chức của Viện công tố được kiện toàn và
tăng cường một bước quan trọng. Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính Phủ ra
Nghị định số 256 quy định nhiệm vụ và tổ chức của Viện Công tố. Ngày
27/8/1959, Thủ tướng Chính Phủ ra tiếp Nghị định số 234 về thành lập các Viện
công tố phúc thẩm. Theo các Nghị định trên, các công tố viên tách khỏi Tòa án và

GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

3

SVTH:Lể Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.

Chính phủ, có trách nhiệm và quyền hạn như một Bộ. Nhiệm vụ của Viện công tố
lúc này là:


Điều tra và truy tố những kẻ phạm pháp về hình sự;


Giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của cơ
quan điều tra;



Giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án về
hình sự, dân sự và trong hoạt động giam giữ, cải tạo;



Khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng có
liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.

1.1.1.2 Giai đoạn từ năm 1959 -1980.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và cùng
với việc xây dựng miền Bắc sau ngày giải phóng, Hiến pháp 1959 của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Theo Hiến pháp 1959, Viện công tố được đổi
thành Viện Kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân cùng với Tòa án nhân
dân là cơ quan tư pháp, không còn trực thuộc Hội đồng Chính phủ mà chịu trách
nhiệm báo cáo trước Quốc hội.
Ngày 15/7/1960, Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ I đã thông qua Luật tổ chức
Viện Kiểm sát nhân dân gồm: 06 chương, 25 điều; đánh dấu bước ngoặc lớn về tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Theo quy định tại Điều 4 của Luật

này thì các Viện kiểm sát nhân dân gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các
Viện kiểm sát nhân dân địa phương và các Viện kiểm sát quân sự.
Ngày 16/4/1962, ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành “Pháp lệnh quy
định cụ thể về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ”.
Như vậy, trong giai đoạn này, Viện kiểm sát nhân dân đã được tổ chức
thành một hệ thống nhất từ Trung ương đến các đơn vị hành chính cấp huyện; có
chức năng mới: Kiểm sát và thực hành quyền công tố; hoạt động theo nguyên tắc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
1.1.1.3 Giai đoạn từ năm 1980 -1992.
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, ngày 18/12/1980, Quốc hội khóa
VI, kỳ họp thứ 7 đã thông qua bản Hiến pháp 1980. So với Hiến pháp 1959 thì vai
trò và vị trí của Viện kiểm sát nhân dân được khẳng định rõ hơn và có những điểm
bổ sung mới trong Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1980 đã nhấn mạnh đến chức
năng “thực hành quyền công tố” của Viện kiểm sát nhân dân, đồng thời đề cao
vai trò và trách nhiệm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 140
Hiến pháp 1980).

GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

4

SV TILLê Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
Để cụ thể hóa những quy định về VKSND trong Hiến pháp 1980, ngày
4/7/1981, Quốc hội khóa VII, kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân. Lần đàu tiên trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, chức
năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận. Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 được sửa đổi, bổ sung vào năm 1989.

Cũng như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1981 vẫn giữ nguyên những quy định về nhiệm vụ và
quyền hạn của ủy ban kiểm sát là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng.
1.1.1.4 Giai đoạn từ năm 1992 - đến nay.
Để thực hiện đường lối đổi mới ừong Đại hội lần thứ VI của Đảng, ngày
15/4/1992, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 11 đã thông qua bản Hiến pháp 1992bản Hiến pháp của thời kỳ đối mới đất nước. Đe cụ thế hóa những quy định của
Hiến pháp 1992 về tổ chức và họat động của Viện kiểm sát nhân dân, ngày
08/10/1992, Quốc hội khóa IX tại kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân 1992. Theo các quy định của Hiến Pháp 1992 và Luật tổ chức
Viện kiếm sát nhân dân năm 1992, thì tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân có những điểm đổi mới sau: uủy ban kiểm sát không còn là cơ quan tư
vấn cho Viện trưởng nữa; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự
giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Do đất nước ngày càng đổi mới, xã hội có nhiều biến đổi, một yêu cầu cấp
thiết đặt ra là phải cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp để đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X đã
thông qua Nghị quyết số 51/2001/QH.10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp 1992. Trên cơ sở này, ngày 02/04/2002, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ
11 đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Theo đó, Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện hai chức năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp.

1.1.2 Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân.
Nói đến chức năng của Viện kiểm sát nhân dân cũng như chức năng của các
cơ quan nhà nước khác là xác định những phương hướng hoạt động chủ yếu của cơ
quan nhà nước đó. Theo các Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 1981 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992
thì các Viện kiểm sát nhân dân hoạt động với hai chức năng:
^Kiểm sát việc tuân theo pháp luật: bao gồm kiểm sát việc tuân theo pháp


GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

5

SVTILLê Thị Mộng Thi


2 Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời
gian tói. Trang 3.
3 Trần Văn Độ -Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu. Một số vấn đề về
quyền công tố - Tạp chí luật học số 3/2001. Trang 8.
4 Đại học Luật
Hà Nội - Giáo
trình
Luậtthông qua kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi hành án và kiểm sát giam Hiến
pháp
Việt Nam -giữ cải tạo.
Nxb Công an
nhân
dân
2004. Trang
533
^Thực hành quyền công tố trong quá trình điều tra và xét xử.
Tuy nhiên, để thực hiện chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước
ta, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân đã được Quốc Hội điều chỉnh thể hiện rõ
trong Hiến pháp 1992 sửa đối bố sung và Luật tố chức Viện kiếm sát nhân dân
năm 2002. Theo Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 thì, VKSND
sẽ thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, các đơn vị lực lượng vũ trang, của công dân

trong lĩnh vực hành chính mà chỉ thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp “Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiếm sát
các hoạt động tư pháp2”. Riêng chức năng thực hành quyền công tố thì được đặt
lên chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp và đây là chức năng đặc thù chỉ có ở
ngành Kiểm sát.
1.1.2.1 Chức năng công tố.
Công tố là nhân danh Nhà nước để truy tố và buộc tội trước tòa đối với
người đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội (mà Bộ luật hình sự đã quy định) trên
cơ sở các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Ở nước ta, thuật ngữ “quyền công tố” lần đầu tiên được đề cập đến tại Điều
138 Hiến pháp 1980 và Điều 1, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1981, cần khẳng định rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho một cơ
quan cụ thể (ở nước ta là Viện kiểm sát nhân dân) thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm đưa vụ án ra tòa xét xử để bảo vệ lợi
ích cho Nhà nước, lợi ích chung, được thực hiện trong tố tụng hình sự3 4. Quyền
công tố được thực hiện trong quá trình tố tụng hình sự, từ khi có quyết định khởi tố
vụ án hình sự và kết thúc khi bản án của tòa án có hiệu lực thi hành.
1.1.2.2 Chức năng kiểm sáf
Kiểm tra và giám sát là những hoạt động chủ yếu của ngành Kiểm sát. Hoạt
động kiểm tra và giám sát của các cơ quan kiểm sát khác với hoạt động kiểm tra và
giám sát của các cơ quan nhà nước khác ở những điểm chủ yếu sau:
• Kiểm tra và giám sát là hoạt động chủ yếu, quan trọng nhất của
VKSND. Tất cả các cơ quan nhà nước khác trong hoạt động của mình đều phải

GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

6

SV TILLê Thị Mộng Thi



Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
kiểm tra và giám sát đối với các cơ quan nhà nước thuộc quyền mình. Tuy nhiên,
bên cạnh hoạt động kiểm tra và giám sát, các cơ quan nhà nước khác còn có những
hoạt động khác quan trọng hơn. Ví dụ: Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động
quan trọng nhất so với các hoạt động khác, trong đó có hoạt động kiểm tra và giám
sát xét xử của tòa án cấp dưới.
• Phạm vi kiểm tra và giám sát của VKSND rất rộng. VKSND có
quyền kiểm tra và giám sát hoạt động của nhiều cơ quan nhà nước như các cơ quan
điều tra thuộc Bộ công an, Bộ kiểm lâm; hoạt động xét xử của tòa án, các cơ quan
giam giữ cải tạo. Trong khi đó, hoạt động kiểm tra và giám sát của các cơ quan nhà
nước khác chỉ bó hẹp trong một phạm vi nhất định. Ví dụ: Tòa án cấp trên chỉ có
quyền kiểm tra và giám sát hoạt động xét xử của tòa án cấp dưới.
• Trong hoạt động kiểm tra và giám sát, nếu phát hiện những sự vi
phạm pháp luật, các VKSND thường không trực tiếp giải quyết, chỉ kiến nghị,
kháng nghị hoặc ra quyết định truy tố để các cơ quan nhà nước khác trực tiếp giải
quyết. Ví dụ khi phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của công dân có dấu
hiệu tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định truy tố để giao cho tòa án xét
xử. Tuy nhiên trong một số trường họp, Viện kiểm sát nhân dân cũng trực tiếp giải
quyết khi phát hiện sự vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, trong kiểm sát điều tra, nếu
phát hiện các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân
dân có quyền hủy bỏ các quyết định đó (Điều 13 điểm 3 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân 2002).

1.1.3 Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân

dân.
Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống trong cấu trúc của bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nên nguyên tắc tố chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung về tổ chức và

hoạt động của bộ máy nhà nước như: nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa,
nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc bình đẳng dân tộc, nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, xuất phát
từ hoạt động đặc thù của các cơ quan kiểm sát là những cơ quan chuyên trách bảo
vệ pháp luật bằng công tác kiểm sát và công tố. Do đó, tổ chức và hoạt động của
các cơ quan kiểm sát còn có những nguyên tắc đặc thù. Theo Điều 138 Hiến pháp
1992 sửa đổi bổ sung và Điều 8 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 thì
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

7

SV TILLê Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
vào bất kỳ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương, và nguyên tắc Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cùng
cấp.
1.1.3.1 Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Theo nguyên tắc này thì toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói
chung phải đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Còn hoạt động của từng Viện kiếm sát nhân dân nói riêng phải đặt dưới sự lãnh
đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Viện đó.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương là người chỉ đạo và chịu
hách nhiệm cá nhân về hoạt động của Viện mình trước Viện trưởng cấp trên trực
tiếp; đồng thời chịu trách nhiệm trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
cùng cấp. Còn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải chịu trách nhiệm
cá nhân về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng như hoạt động của
toàn ngành Kiểm sát trước Quốc hội, Chủ tịch nước và ủy ban thường vụ Quốc
hội; đồng thời phải báo cáo về hoạt động của toàn ngành Kiểm sát trước Quốc hội,

Chủ tịch nước và ủy ban thường vụ Quốc hội. Các Kiểm sát viên phải hoạt động
theo đúng sự phân công và ủy quyền của Viện trưởng.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành bảo
đảm cho các cấp kiểm sát hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện nâng cao
hiệu quả công tác. Mặt khác, nhấn mạnh nguyên tắc này nhằm đề cao trách nhiệm
cá nhân của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Phải thấy rằng Viện trưởng
không quyết định các vấn đề một cách độc đoán, mà trên cơ sở bàn bạc tập thể
thông qua ủy ban kiểm sát (có ở cấp Tỉnh trở lên) để thảo luận những vấn đề quan
trọng như: phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác....Trong trường họp ủy
ban kiểm sát thảo luận và biểu quyết ngang nhau thì theo quyết định về phía Viện
trưởng (Điều 32, 35 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
1.1.3.2 Nguyên tắc độc lập không lệ thuộc vào bất kỳ một cơ quan nào ở
dĩa phương.
Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: các Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối của
các cơ quan nhà nước ở địa phương mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, Viện kiểm sát nhân dân chỉ tuân theo
Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc
hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều này cũng có nghĩa là cơ quan

GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

8

SVTH:Lể Thị Mộng Thi


5 Điều 140 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung, Điều 9 Luật tổ chức VKSND 2002.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.

nhà nước ở địa phương không có quyền can thiệp vào hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân.
Như vậy, khác với các cấp chính quyền và các cơ quan quản lý khác ở địa
phương là một mặt trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ chủ quản; mặt khác phải trực
thuộc Hội đồng nhân dân hoặc ủy ban nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân không tổ
chức theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều như vậy. Tuy nhiên, để tránh sự lạm
dụng quyền lực, Quốc hội đã quy định: “Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa
phương phải báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, hả lời chất vấn, kiến nghị,
yêu cầu của Đại biểu Hội đồng nhân dân5 ”.về mặt tổ chức, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ máy làm việc và biên chế của Viện kiểm
sát nhân dân các cấp, bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh Viện trưởng, Phó viện
trưởng, Kiếm sát viên Viện kiếm sát nhân dân đại phương. Sự độc lập trong tố
chức tạo điều kiện thuận lợi để các Viện kiểm sát nhân dân độc lập trong hoạt
động của mình.
1.1.3.3 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân chịu sự giám sát của cơ quan
quyền ỉực nhà nước cùng cấp.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân”. Nguyên tắc này đã được quy định từ Hiến pháp 1959 và Hiến pháp
1980, nhưng chỉ đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đến Hiến pháp 1992Điều 140, nguyên tắc này còn được xác định với tất cả Viện kiểm sát nhân dân địa
phương.
Thứ nhất, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu
càu của đại biểu Quốc hội và có thể bị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm.
Thứ hai, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát
của Hội đồng nhân dân cùng cấp; chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân
dân.
Tóm lại, các nguyên tắc đặc thù trên càn được quán triệt sâu sắc trong toàn

ngành, việc kết họp giữa chế độ thủ trưởng và tập thể bảo đảm sự độc lập của
ngành nhằm phát huy trí tuệ tập thể, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân trong cơ
quan Kiểm sát. Có như vậy mới ngăn ngừa được tình trạng các kiểm sát viên làm

GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

9

SVTH:Lể Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
việc một cách máy móc hoặc tùy tiện sử dụng các quyền ở các khâu công tác kiểm
sát khác nhau. Chỉ có tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc đặc thù này thì
Viện kiểm sát nhân dân mới thực hiện đày đủ các chức năng nhiệm vụ của mình
góp phần xây dựng nền tư pháp của nước nhà công bằng, dân chủ, văn minh theo
chủ trưomg của Đảng và Nhà nước ta.
1.2 Ctf sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
1.2.1 Tẻ chức của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật
hiện hành.
Điều 30 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, hệ thống và cơ cấu
các Viện kiếm sát nhân dân hiện nay gồm có:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Các Viện kiếm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Các Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Các Viện kiểm sát quân sự,
về cơ cấu, các Viện kiểm sát nhân dân gồm có: Viện trưởng, Phó viện
trưởng, các kiểm sát viên và các Điều ừa viên.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra từ trong số
các đại biểu Quốc hội, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước và

làm việc theo nhiệm kỳ của Quốc hội; chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ
tịch nước. Còn Viện trưởng của các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao. Còn các Phó viện trưởng của các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện
kiểm sát quân sự từ cấp quân khu trở xuống do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Còn Kiểm sát viên của các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và
Viện kiểm sát quân sự từ cấp quân khu trở xuống do Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức.
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

10

SVTH:Lể Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
Tổng biên chế của Viện kiếm sát nhân dân do Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định biên chế của Viện kiểm sát nhân dân địa
phưomg và các đon vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

1.2.2 Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật
hiện hành.
1.2.2.1 Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự.
Thực hành quyền công tố là việc thực hiện các hành vi tố tụng càn thiết
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người
phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. Đây
chính là quá trình truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với bị can, bị cáo trước tòa. Đe
có được quyết định khởi tố bị can, cơ quan khởi tố vụ án phải điều tra, xác minh vì
thế không nên coi giai đoạn này chỉ là giai đoạn chuẩn bị của giai đoạn thực hành
quyền công tố mà thực hành quyền công tố có trong giai đoạn điều tra và giai đoạn
xét xử hình sự, bắt đầu từ việc khởi tố bị can và chấm dứt khi có phán quyết có
hiệu lực pháp luật của cơ quan xét xử. Điều này đã từng được ông Hà Mạnh Trí Nguyên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao khẳng định tại hội nghị của
ngành Kiểm sát được tổ chức tại Hà Nội tháng 6/2002: ”Việc thực hành quyển
công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tổ, xét
xử”. Thêm vào đỏ trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị suốt từ năm 2002 đến
2005 cũng đã không ngừng khẳng định đều này.
Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
được Quốc hội quy định trong chương II (từ Điều 12 đến Điều 15) Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
Đối với công tác này, các Viện kiểm sát nhân dân tập trung vào hoạt động
điều tra của các cơ quan thuộc Bộ công an, Bộ quốc phòng, hải quan, kiểm lâm....
nhằm bảo đảm:
Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố điều tra và xử lý kịp thời,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội;
Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giam, tạm giữ, bị hạn chế các
quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm một cách trái pháp luật;
Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật.
Vì vậy, trong quá trình điều tra phải làm sáng tỏ nguyên nhân vi phạm pháp luật,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, những chứng cứ buộc tội cũng như những chứng

cứ gỡ tội. Những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện,
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

11

SVTH:Lể Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh;
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng
pháp luật.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra thì, theo Điều 13
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát nhân dân tiến hành
những hoạt động sau đây:
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố
hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra, điều
tra lại, điều tra bổ sung nhưng phải thể hiện bằng văn bản theo quy định tại
Điềul53 điểm a, Điều 154 của Bộ luật tố tụng hình sự và được thực hiện ngay từ
khi có tin báo tố giác về hành vi vi phạm pháp luật để thu thập tài liệu chứng cứ
nhằm làm rõ có tội phạm xãy ra hay không hoặc làm rõ các tình tiết của vụ án như:
động cơ, mục đích phạm tội, mức độ thiệt hại....
Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo
quy định của pháp luật như: hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm
chứng.. ..nhưng chỉ trong trường họp Cơ quan điều tra kết thúc điều tra chuyển hồ
sơ sang Viện kiểm sát nhân dân xét cần phải thu thập thêm tài liệu chứng cứ để
làm rõ thêm nội dung vụ án nhằm đảm bảo việc truy tố có căn cứ; hay khi Tòa án
trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu xét thấy không cần trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra
mà Viện kiểm sát nhân dân có thể tự mình khắc phục được.

- Yêu cầu thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên theo quy định
của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về
hình sự;
- Quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết
định của Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Viện kiểm sát
nhân dân còn có thể hủy bỏ các quyết định ừái pháp luật của Cơ quan điều tra. Đây
là một trong những nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội
phạm thể hiện trách nhiệm rất nặng nề của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực
này. Nếu xãy ra oan, sai thì Viện kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm về
những oan, sai thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình bởi vì bắt, tạm giữ,
tạm giam trực tiếp tác động đến các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp
bảo vệ.
Đối vổỉ công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, theo Điều 14 Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, khi thực hiện công tác kiểm sát điều
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

12

SV TILLê Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
tra, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
-Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ
án của Cơ quan điều ưa;
-Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
-Giải quyết ưanh chấp về thẩm quyền điều ưa theo quy định của pháp luật;
-Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật ưong hoạt động
điều tra; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều ưa viên đã

vi phạm pháp luật ưong quá trình điều ưa;
-Kiến nghị với cơ quan tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng biện pháp phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Ở giai đoạn điều ưa, Viện kiểm sát nhân dân giữ vị trí đặc biệt quan ưọng
có tính quyết định xuyên suốt quá trình điều ưa, truy tố và là người chụi ưách
nhiệm chính trước Nhà nước và toàn xã hội. Tính quyết định này bắt nguồn từ
chức năng độc quyền truy tố của Viện kiểm sát. Trước hết, Viện kiểm sát nhân dân
phải kiểm sát việc khởi tố của các Cơ quan điều ưa có căn cứ hay không? Mọi
hành vi phạm tội có được khởi tố hay không, có bỏ lọt tội phạm và người phạm tội
hay không, hoạt động điều ưa có đúng pháp luật hay không, quyền và lợi ích họp
pháp của công dân, của bị can, và của những người tham gia tố tụng có được tôn
ưọng và bảo đảm hay không đều thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân.
Chúng ta thấy, tuy việc thực hành quyền công tố và kiểm sát điều ưa thuộc
hai phạm trù khác nhau, nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau và hỗ ượ nhau. Mối quan hệ này song song tồn tại từ khi phát hiện có sự
việc phạm tội xãy ra cho đến khi kết thúc việc điều ưa, Cơ quan điều ưa ra quyết
định đình chỉ vụ án hoặc ra quyết định truy tố bị can ra trước tòa. Mục đích của
hoạt động thực hành quyền công tố là nhằm chứng minh tội phạm và xác định
người phạm tội; mục đích của hoạt động kiểm sát điều ưa là bảo đảm hoạt động
điều ưa được đầy đủ, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Như vậy, công tác
kiểm sát điều ưa có hiệu quả sẽ là điều kiện để đảm bảo cho hoạt động thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát được đúng đắn. Ngược lại, công tác thực hành
quyền công tố có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho công tác kiểm sát điều tra phát hiện
kịp thời những vi phạm pháp luật ưong khi tiến hành điều ưa. Do đó, nếu Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
ưa thì mới hoàn thành được nhiệm vụ của Viện kiểm sát bảo đảm không để người
nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; không để lọt tội phạm và không
lảm oan người vô tội.
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền


13

SVTH:Lể Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.

1.2.2.2 Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
Công tác này được quy định trong chương m (từ Điều 16 đến Điều 19)
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
Theo quy định tại Điều 17 thì, khi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn này trên cơ sở của việc điều tra vụ án, Viện kiếm sát nhân dân chứng minh
được người phạm tội để truy tố bị can bằng bản cáo trạng. Đại diện của Viện kiểm
sát nhân dân với tư cách là công tố viên tự mình đọc cáo trạng, quyết định của
Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. Bản cáo
trạng là sự thể hiện đậm nét chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử của Viện kiểm sát.
Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; tranh luận với người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm , phúc thẩm để từ đó phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án.
Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 còn quy định: ”Khi
thực hành quyển công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân
dân có quyền khảng nghị theo thủ tục phúc thắm, giảm đốc tham, tái tham các bản
án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật; kiến nghị với
Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục vi phạm trong việc xét xử; kiến
nghị với cơ quan, to chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm và vi phạm pháp luật; nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi to về hình sự”.
Theo quy định này thì quyền công tố chỉ có ở giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử

vụ án hình sự. Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa thực hiện đồng thời hai chức
năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đối với các vụ án hình sự. Trong
đó việc xét hỏi tại phiên tòa là một trong những hoạt động của công tác công tố tại
phiên tòa. Đây là quyền thồng thời cũng là nghĩa vụ của Kiểm sát viên khi tham
gia phiên tòa.
Như vậy, việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không đế lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo vệ các
lợi ích chính đáng của công dân của Nhà nước góp phần tạo ra bản án có căn cứ,
đúng pháp luật và công minh. Đề cao trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
bong thực hành quyền công tố cũng là quan điểm nhất quán của Đảng ta đặt ra
trong các Nghị quyết của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm cũng như
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

14

SV TILLê Thị Mộng Thi


6 Điều 319 BLTTHS:Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian sắp tới.
Theo Điều 18 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, khỉ tham
gia xét xử các vụ án hình sự, cùng vời công tác thực hành quyền công tố Viện
kiểm sát nhân dân còn thực hiện công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự với
những hoạt động sau:
■Kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân;
■Kiếm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
■Kiếm sát các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của

pháp luật;
■Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án
hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.
Giai đoạn kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự được bắt đầu từ khi
Viện kiểm sát nhân dân chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục
rút gọn6 sang Tòa án và kết thúc khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc khi
Viện kiểm sát nhân dân có kháng nghị, bị cáo có kháng cáo bản án sơ thẩm và hồ
sơ của vụ án lên cơ quan có thẩm quyền cấp trên.
Hoạt động kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát nhân dân là điều kiện để Tòa
án xét xử đúng pháp luật, đúng người, đúng tội. Hoạt động kiểm sát xét xử của
Viện kiểm sát nhân dân không can thiệp vào công việc xét xử của Tòa án, không
làm trở ngại cho việc thực hiện những quyền năng tố tụng của những người tham
gia tố tụng. Hoạt động kiểm sát xét xử nhằm bảo đảm có hiệu quả cho hoạt động
xét xử của Tòa án đúng thủ tục tố tụng hình sự, bảo đảm cho bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ các quyền năng tố tụng của họ. Xuất
phát từ ý nghĩa quan trọng này, pháp luật tố tụng quy định sự có mặt của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa là điều kiện bắt buộc để Tòa án tiến hành
xét xử, nếu kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án phải hoãn phiên tòa (Điều 189 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003).
1.2.2.3 Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 chỉ có một điều luật
Nguôi thực hiện hành vi phạm tội bị
bắt quả tang;
2. Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ
rõ rang;
3. Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít
nghiêm trọng;
1.


GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

15

SVTILLê Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
duy nhất quy định về công tác này (Điều 17). Trong khi Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2002 đã quy định về công tác này thành một chương (chương
IV) từ Điều 20 đến Điều 22. Đối tượng kiểm sát của các Viện kiểm sát nhân dân ở
đây là các Tòa án trong việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành
chính, hôn nhân-gia đình và các vụ án khác mà pháp luật quy định.
Mục đích của hoạt động kiểm sát đối với các vụ án nói trên nhằm bảo đảm
cho việc giải quyết các vụ án đó được kịp thời, theo đúng thủ tục tố tụng đối với
từng loại án và bảo đảm áp dụng đúng điều luật để bảo vệ quyền và lợi ích họp
pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Đe thực hiện được những mục đích đó,
theo Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, các Viện kiểm sát
nhân dân có quyền:
-Kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án; yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc tự
mình xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;
-Khởi tố vụ án theo quy định của pháp luật;
-Tham gia các phiên tòa và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân
về việc giải quyết vụ án;
-Kiểm sát việc tuân theo pháp luật ừong hoạt động xét xử của Tòa án;
-Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
-Kiểm sát các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân;
-Yêu cầu Tòa án nhân dân áp dụng những biện pháp khẩn cấp tạm thời theo
quy định của pháp luật;
-Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án

dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác
theo quy định của pháp luật để xem xét, quyết định việc kháng nghị. Trong lĩnh
vực này cỏ quy định mới nhằm mở rộng và tăng cường hoạt động kiểm sát đó là
kiểm sát việc thụ lý. Vì vậy yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân phải tham gia các vụ
kiện dân sự, hành chính, lao động......từ rất sớm.
Theo quy định tại Chỉ thị 02/2003/CT - VKSTC ngày 09/01/2003 về kiểm
sát các hoạt động tư pháp quy định Kiểm sát viên phải tham gia 100% phiên tòa
xét xử từ sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc thẩm và tái thẩm các vụ kiện này. Tuy
nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì Viện
Kiểm sát nhân dân không tham gia tất cả các phiên tòa xét xử các vụ kiện dân sự
này mà chỉ tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ
mà đương sự có khiếu nại; các việc dân sự và các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát
kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án. Đồng thời Bộ luật tố tụng dân sự cũng
không quy định Viện kiểm sát có quyền khởi tố đối với một số vụ việc về dân sự,
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

16

SVTILLê Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
hôn nhân và gia đình, lao động như hước đây mà giao cho cơ quan, tổ chức, đoàn
thể khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thành viên của mình, về
quyền của Viện kiểm sát được yêu càu Tòa án hoặc tự mình xác minh những vấn
đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án và quyền yêu cầu Tòa án áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như quy định tại Điều 21 Luật tổ chức viện
kiểm sát nhân dân năm 2002 cũng không được quy định trong Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004.
Như vậy, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, thẩm quyền

của Viện kiểm sát nhân dân trong việc kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh
vực tố tụng dân sự đã thu hẹp hơn so với Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002.
1.2.2.4 Kiểm sát việc thi hành án.
Thi hành án là giai đoạn kết thúc quá trình tố tụng, là khâu cuối cùng kết
thúc vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa án có hiệu lực thi hành
trên thực tế. Vì vậy, bản án sau khi có hiệu lực pháp luật thì cần phải được thi hành
nghiêm chỉnh, đúng pháp luật, mới có tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối
với người phạm tội và những người khác. Do đó, việc kiểm sát thi hành án là điều
rất cần thiết.
Công tác kiểm sát thi hành án được quy định tại chương V từ Điều 23 đến
Điều 25 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Khi thực hiện công tác
kiểm sát thi hành án, theo Điều 24 Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau:
•"Yêu cầu Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới,
Chấp hành viên, các cơ quan, tố chức, đơn vị và cá nhân có liên quan đến việc thi
hành án:
- Ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật;
- Tự kiểm tra việc thi hành án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những
bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật và thông báo
kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát nhân dân;
- Thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án,
quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật;
- Cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án;
Việc thực hiện các yêu cầu này trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày
nhận được yêu cầu.
•"Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án của Cơ
quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, các cơ quan, tổ chức, đơn
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền


17

SV TILLê Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
vị và cá nhân có liên quan và việc giải quyết kháng cáo, khiếu nại, tố cáo đối với
việc thi hành án;
•"Tham gia việc xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích;
•"Đề nghị miễn chấp hành hình phạt theo quy định của pháp luật;
•"Kháng nghị với Tòa án nhân dân, Cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp
dưới, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm trong việc thi hành
án; yêu cầu đình chỉ việc thi hành án, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm
pháp luật trong việc thi hành án, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật trong việc
thi hành án; nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; trong trường họp do
pháp luật quy định thì khởi tố về dân sự. Tòa án nhân dân, Cơ quan thi hành án,
Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan có trách nhiệm
trả lời trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị.
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa
án nhân dân, Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá
nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật
nhằm bảo đảm các bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp
thời.
1.2.2.5 Kiểm sát việc tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù.
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự để đảm bảo cho việc điều tra
tội phạm, theo quy định của pháp luật, cơ quan tiến hánh tố tụng được áp dụng một
số biện pháo ngăn chặn như biện pháp tạm giam, tạm giữ. Đây là hai biện pháp rất
nghiêm khắc. Nó tạm thời tước bỏ và hạn chế một số quyền cơ bản của công dân

khi chưa cỏ phán quyết của Tòa án. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân phải kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong
việc tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù nhằm bảo
đảm:
•Việc tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù
theo đúng quy định của pháp luật;
•Chế độ tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù
được chấp hành nghiêm chỉnh;
•Tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giam, tạm giữ,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và các quyền khác của họ không bị
pháp luật tước được tôn trọng.
Đe thực hiện nhiệm vụ kiểm sát tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

18

SVTH:Lể Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
người chấp hành án phạt tù, Viện kiểm sát nhân dân có quyền:
- Thường kỳ và bất thường trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam
và trại giam;
- Kiểm tra hồ sơ, tài liệu của cơ quan cùng cấp và cấp dưới có trách nhiệm
tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; gặp, hỏi người
bị tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù về việc
giam, giữ;
- Tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc tạm giam, tạm giữ, quản
lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù;
- Yêu cầu cơ quan cùng cấp và cấp dưới cũng như người có trách nhiệm

quản lý nơi tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù
kiếm tra những nơi đó và thông báo tình hình tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo
dục người chấp hành án phạt tù; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi
phạm pháp luật trong việc tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp hành
án phạt tù. Cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm phải trả lời trong thời hạn 30
ngày.
- Kháng nghị với cơ quan cùng cấp và cấp dưới yêu cầu đình chỉ việc thi
hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm giam,
tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, chấm dứt việc làm vi
phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật. Cơ quan, đơn vị hữu
quan có trách nhiệm trả lời trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kháng
nghị. Nếu không nhất trí với kháng nghị đó thì cơ quan, đơn vị hữu quan có quyền
khiếu nại lên Viện kiểm sát nhân dân cấp ừên trực tiếp phải giải quyết trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định của Viện kiểm sát nhân
dân cấp trên trực tiếp phải được chấp hành.
Bên cạnh các quyền trên, trong quá trình kiểm sát việc tạm giam, tạm giữ,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, Viện kiểm sát nhân dân còn có
trách nhiệm:
-Phát hiện và xử lý kịp thời các trường họp oan, sai trong tạm giam, tạm
giữ, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; quyết định trả tự do ngay cho
người bị tạm giam, tạm giữ, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù không
có căn cứ và trái pháp luật;
- Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm trong việc tạm giam, tạm giữ, quản lý
và giáo dục người chấp hành án phạt tù thì khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan điều tra
khởi tố về hình sự.

GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

19


SVTH:Lể Thị Mộng Thi


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bạc Liêu.
Trong những năm qua tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các tranh
chấp xãy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, nhưng công tác tư pháp đã đạt được
nhiều kết quả, góp phàn quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích họp pháp của tổ chức,
công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới;
phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần
trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ, nhiều đồng chí đã tận tụy với công việc, có
những trường họp hy sinh cả tính mạng trong cuộc đấu tranh chống tội phạm.
Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu
cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường họp bỏ lọt tội phạm, làm oan người
vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Trước tình hình đó,
ngày 02 tháng 01 năm 2002, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 08 - NQ/TW nhằm đề
ra một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Trong đó
nêu bật sự cần thiết của công cuộc cải cách Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình
cải cách tư pháp. Đó là “Viện kiần sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố VÀ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động cộng tổ phải
được thực hiện ngay từ khi khởi to vụ án và trong suốt quả trình to tụng nhằm bảo
đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lỷ
kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành to tụng khi thi
hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo
đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia to
tụng khác...”. Từ khi triển khai Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị mà
Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã tổ chức tổng kết 4 năm thực hiện.
Theo đánh giá của Nghị quyết số 49 ngày 02 tháng 06 năm 2005 thì cải cách tư
pháp tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng công tác tư pháp còn bộc lộ

nhiều hạn chế: “Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố
tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất họp lý.
Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh
chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về
phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, vẫn còn tình trang oan, sai trong
điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử....”. Vì thế ba năm sau đó, Bộ Chính trị lại
ra Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 xác định: “Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát nhân dân thành Viện công
tổ, tăng cường trách nhiệm của công tổ trong hoạt động điều tra ” thì vấn đề chức
GVHD: Phạm Thị Diệu Hiền

20

SVTH:Lể Thị Mộng Thi


×