Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.59 KB, 75 trang )

TRƯỜNG
HỌC
LỜI ĐẠI
CẢM
ƠN.VINH
KHOA LUẠT

Trong quá trình tiến hành và hoàn thành khóa luận này, ngoài sự lỗ
lực của bản thân, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô
trong khoa Luật, nhất là các thầy cô thuộc tổ Kinh tế - Quốc tế. Đặc biệt là
sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình, chu đáo, đầy trách nhiệm của giảng viên
Trần Thị Vân Trà. Nhân dịp này cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn
chân thành, sâu sắc tới quý thầy cô. Đồng thời tôi xin hứa sẽ tiếp tục cố
gắng trên bước đường công tác để xứng đáng với sự quan tâm dìu dắt của
quý thầy cô và cô giáo hướng dẫn.

Ngoài ra, tôi cũng mong muốn bày tỏ sự biết ơn đối với gia đình, bạn
bè đã dành cho tôi nhiều sự quan tâm ưu ái, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt công
trình nghiên cứu này.

Do hạn chế về mặt thời gian cũng như tài liệu tham khảo và năng lực

Vinh, tháng 5/2011
Tác

giả


•MUC
• LUC


Trang

A - Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài............................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nhiên cứu của đề tài..........................................................4
4. Giới hạn của đề tài..................................................................................................5
5. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.................................................................6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài..................................................................7
7. Kết cấu đề tài..........................................................................................................7
B- Nội dung.......................................................................................................................9
Chương 1: Lý luận về xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có
yếu
tố nước ngoài.....................................................................................................................9

1.1. Hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài..........................................................9
1.2. Xung đột pháp luật trong họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.... 11
1.2.1. Khái niệm.......................................................................................................11
1.2.2. Nguyên nhân xảy ra xung đột.........................................................................14
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột...................................................................17
1.2.4. Các xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước


sự có yếu tố nước ngoài ở một số quốc gia.............................................................29

2.1.1. Theo quy định trong pháp luật quốc gia........................................................30
2.1.2. Theo điều ước quốc tế mà các quốc gia tham gia hoặc ký kết......................36
2.2.


Phưong pháp giải quyết xung đột pháp luật trong họp đồng dân

sự có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam........................................................................39

2.2.1. Theo pháp luật Việt Nam...............................................................................39
2.2.2. Theo điều ước quốc tế mà Việt Nam gia tham gia hoặc ký kết.....................46
Chưong 3: Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về
giải quyết xung đột pháp luật trong họp đồng dân sự có yếu tổ nước
ngoài................................................................................................................................56

3.1. Định hướng chung..........................................................................................56
3.2. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật
trong họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.........................................................59

3.2.1. về quy định chủ thể của họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài...................59
3.2.2. về quy định căn cứ áp dụng pháp luật để giải quyết xung đột pháp
luật về năng lực pháp luật và năng lực hành vi giao kết họp đồng đối với
người nước ngoài là người không có quốc tịch và người nước ngoài có
hai hay nhiều quốc tịch khác nhau..............................................................................59

3.2.3. về quy định nguyên tắc tự do chọn luật áp dụng cho hợp đồng....................61
3.2.4.

Quy định về vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong họp đồng 63

3.2.5................................................................................................................... về
quy định dẫn chiếu trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài.........................................64
c - Kết Luân...............................................................................................................68
Tài liêu tham khảo



A - MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo (từ Đại hội VI tháng 12 năm 1986), tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Đến
nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước trên thế giới; có
quan hệ họp tác kinh tế, tài chính, tín dụng với hơn 200 tổ chức quốc tế và
diễn đàn quốc tế; có quan hệ buôn bán với hơn 100 nước, trong đó với hơn
60 nước đã kí kết Hiệp định về thương mại ở cấp Chính phủ. Tháng 7 năm
2000 đã ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Sau đó, Việt Nam đã tích
cực đàm phán và gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2005.
Hiện nay, trong hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế trên đày đủ các lĩnh
vực, Việt Nam đã ký 26 Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước trong đó
15 Hiệp định điều chỉnh tương trợ tư pháp về dân sự, thương mại.

Cũng từ sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới,
người nước ngoài và tài sản của họ ở nước ta nhiều hơn, công dân nước ta
ở nước ngoài cũng tăng lên đáng kể. Cùng với đó, số lượng khách du lịch
nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhập cảnh Việt Nam
cũng ngày một gia tăng. Từ đó phát sinh mối quan hệ giữa công dân, pháp
nhân nước ta với nước ngoài cũng sẽ nhiều và phức tạp hơn.
1


đòi hỏi phải được pháp luật các nước điều chỉnh. Các quan hệ về hôn nhân

và gia đình, thừa kế... đặc biệt là quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài
trong các năm qua cũng tăng lên.

Như vậy, cùng với nhịp độ phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh
tế - thương mại có yếu tố nước ngoài trong bối cảnh năng động tại các quốc
gia hiện nay, đã làm phát sinh ngày càng nhiều các quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài, trong đó phải kể đến quan hệ họp đồng dân sự có yếu tố
nước ngoài. Tình hình đó tất yếu sẽ kéo theo những hậu quả làm phát sinh
các vụ tranh chấp về các vấn đề liên quan đến họp đồng dân sự có yếu tố
nước ngoài đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời, vấn đề này chỉ có thể giải
quyết được khi có đủ cơ sở pháp lý càn thiết cho cơ quan nhà nước có đủ
thẳm quyền xem xét vụ việc.

Khác với việc giải quyết quan hệ họp đồng thông thường, việc giải
quyết quan hệ họp đồng có yếu tố nước ngoài thường liên quan đến việc
chọn luật áp dụng vì nó xảy ra hiện tượng “xung đột pháp luật”. Vì vậy,
việc nghiên cứu vấn đề pháp lý về phương pháp giải quyết xung đột pháp
luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài hiện nay ở Việt Nam cũng
như ở các nước là điều rất cần thiết. Các phương pháp giải quyết này được
ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc gia cũng như các Điều ước quốc tế
mà các nước là thảnh viên.

Trong bối cảnh mở rộng quan hệ quốc tế theo xu hướng hội nhập của
Việt Nam hiện nay, điều cần thiết là “Phải tiếp tục củng cố, tăng cường...
2


định các quan hệ liên quan đến hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, thúc
đẩy phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời
kỳ mới. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu pháp luật của một số nước về vấn đề

này có ý nghĩa thiết thực trong việc hoàn thiện thêm các quy định của pháp
luật Việt Nam điều chỉnh lĩnh vực này.

Từ những lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Phương pháp giải quyết
xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài” làm đề tài
cho luận văn tốt nghiệp của mình. Đề tài có ý nghĩa thiết thực về phương diện
lý luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiền cứu của đề tài.

Ở nước ta, vấn đề họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài mặc dù đã
được một số nhà nghiên cứu quan tâm, nhưng các công trình mang tính
chất chuyên khảo về vấn đề này còn rất khiêm tốn. vấn đề hợp đồng dân sự
có yếu tố nước ngoài chỉ là một phần nằm trong các công trình nghiên cứu
như chuyên đề, luận văn tốt nghiệp Cử nhân, luận văn Thạc sĩ và một số
bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành.

Sau khi Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời đã có những công trình khoa
học nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Tiêu biểu: Luận văn tốt nghiệp
cử nhân luật “Bước đầu tìm hiểu các quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam
1995 về quan hệ dân sự có yếu tổ nước ngoài” (năm 1996) của Đinh Trọng
Nghĩa, Đại học luật Hà Nội; bài viết của tác giả Nguyễn Bá Chiến “Bàn về
3


số 10/2003: cuốn ‘‘Một số vẩn đề lỷ luận cơ bản về Tư pháp quốc tế ”, xuất
bản năm 2001 của TS Đoàn Năng. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu
của các tác giả nói trên mới dừng lại ở việc phân tích các quy định của pháp
luật về quan hệ dân sự cố yếu tố nước ngoài và chỉ ra định hướng chủ yếu cho
việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự 1995 .


Bộ luật dân sự năm 2005 được ban hành (thay thế Bộ luật dân sự
1995) cũng đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của một số tập thể, cá nhân
về họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài như: Thái Công Khanh với bài
nghiên cứu “Bàn về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ”, đăng trên tạp
chí Tòa án nhân dân số 6/2007; cuốn “Tư pháp quốc tế”, xuất bản năm
2007 của ThS Lê Thị Nam Giang; hay như cuốn “Tư pháp quốc tể Việt
Nam quan hệ dân sự, lao động, thương mại có yếu tố nước ngoài”, xuất
bản năm 2010 của TS Đỗ Văn Đại và PGS.TS Mai Hồng Quỳ. Trong các
công trình khoa học này, các tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản
về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, bàn về các khái niệm “Tư pháp quốc
tế”, “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”...

Có thể thấy rằng, các công trình trên đây chưa có sự nghiên cứu
chuyên sâu và toàn diện về pháp luật điều chỉnh phương pháp giải quyết
xung đột pháp luật trong họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, mà chỉ
dùng lại ở việc phân tích ở một số khía cạnh các quy định của pháp luật
Việt Nam và các nước hoặc nghiên cứu chung chung về quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ lý luận hoàn
thiện pháp luật về họp đồng dân cự có yếu tố nước ngoài còn ít, chưa có
tính chất hệ thống, khái quát.
4


đó đi phân tích phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong họp đồng
dân sự có yếu tố nước ngoài theo pháp luật ở một số quốc gia và liên hệ với
Việt Nam.

Trên cơ sở phân tích, so sánh phương pháp giải quyết xung đột pháp
luật ở một số nước với phương pháp giải quyết ở Việt Nam, nêu lên những

quan điểm, phương hướng hoàn thiện các quy phạm pháp luật Việt Nam
trong việc giải quyết xung đột trong họp đồng dân sự ở nước ta hiện nay.

3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu.

Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:

Tìm hiểu những vấn đề lý luận về xung đột pháp luật trong hợp đồng
dân sự có yếu tố nước ngoài như: Khái niệm hợp đồng dân sự có yếu tố
nước ngoài, xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngoài, nguyên nhân xảy ra xung đột, phương pháp giải quyết xung đột và
các xung đột pháp luật trong họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.

Tìm hiểu pháp luật điều chỉnh xung đột trong hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài ở một số nước trên thế giới, bao gồm cả Điều ước quốc
tế mà các quốc gia là thảnh viên điều chỉnh vần đề này.

Phân tích phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng
dân sự có yếu tố nước ngoài ở một số nước và Việt Nam. Qua đó so sánh,
5


quốc gia, nên khi thực hiện đề tài chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu những
nội dung cơ bản của pháp luật quy định về tính hợp pháp của hợp đồng dân
sự có yếu tố nước ngoài trong pháp luật và một số Điều ước quốc tế của
Việt Nam và một số nước. Trong chừng mực nhất định, một số Hiệp định
thương mại của Việt Nam cũng được đề cập đến mang tính chất tham khảo.
Đề tài nghiên cứu cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.


5. Đổi tượng và phương pháp nghiên cứu.
5.1.

Đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn là hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài và phương pháp giải quyết xung đột về tính họp pháp
của họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài trong pháp luật quốc gia và Điều
ước quốc tế. Nghiên cứu vấn đề lý luận để xác định tính khoa học trong
việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài. Nghiên cứu thực tiễn các quy định về giải quyết xung
đột pháp luật trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài, tìm ra những điểm còn
chưa phù họp trong pháp luật Việt Nam để có hướng khắc phục cụ thể.

5.2.

Phương pháp nghiên cứu.

Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -

6


phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp. Qua đây có thể khái quát hóa
hay cụ thể hóa vấn đề cho phù họp với nội dung đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.

về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm cơ sở lý luận

cho việc sửa đổi, bổ sung Phần thứ bảy Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài, đặc biệt là các phần liên quan về họp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài. Đồng thời đề tài còn là tài liệu tham khảo phục vụ công
tác nghiên cứu, giảng dạy cho giáo viên, sinh viên chuyên ngành luật, đặc
biệt là chuyên ngành Tư pháp quốc tế, và cho những ai quan tâm.

về thực tiễn: Đề tài đưa ra những phương hướng, kiến nghị cụ thể về
hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng
dân sự có yếu tố nước ngoài. Điều này có ý nghĩa thiết thực giúp cho
những người có thẳm quyền áp dụng luật để giải quyết xung đột trong hợp
đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, đồng thời tạo nên sự thuận lợi cũng như
tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia vào quan hệ này.

Với những điều nêu trên đây, hy vọng đề tài sẽ đóng góp một phàn
nhỏ bé vào việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự

7


Chương 3: Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam
về giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước

8


B-NỘ
• I DUNG

1.1.


Họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài

“Họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài” là thuật ngữ để chỉ khái
niệm của họp đồng trong Tư pháp quốc tế. Đây là lĩnh vực thuộc đối tượng
điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.

Họp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Như vậy, hợp đồng dân sự đó là
sự thỏa thuận để một bên chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc cho
bên kia hoặc là sự thỏa thuận để thay đổi, chấm dứt các nghĩa vụ đó. Tổng
hợp các điều khoản mà các bên thỏa thuận là nội dung của hợp đồng, nó
xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Sự thỏa thuận đó có thể được thể
hiện ra bên ngoài bằng nhiều hình thức: bằng văn bản, bằng lời nói hoặc
bằng hành vi cụ thể. Các chủ thể được lựa chọn hình thức họp đồng phù
hợp với ý chí của mình và quy định của pháp luật.

9


Trong Tư pháp quốc tế có sự thừa nhận chung ba loại yếu tố nước
ngoài: Thứ nhất, có ít nhất một bên chủ thể tham gia quan hệ là người nước
ngoài, pháp nhân nước ngoài hoặc Nhà nước nước ngoài. Người nước
ngoài là người không mang quốc tịch của nước sở tại, có thể là người mang
quốc tịch của quốc gia nước ngoài hoặc là người không có quốc tịch. Ví dụ
như, quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam YỚi công dân Pháp ở Việt
Nam. Thứ hai, khách thể của quan hệ này là tài sản, công việc ở nước
ngoài. Ví dụ, quan hệ thừa kế tài sản giữa hai công dân Việt Nam nhưng tài
sản đang tồn tại trên lãnh thổ Mỹ. Thứ ba, sự kiện pháp lý làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt các quan hệ xảy ra ở nước ngoài. Chẳng hạn như hai
công dân Việt Nam kết hôn YỚi nhau ở Đức. Do đó, khi một quan hệ pháp

luật dân sự có sự hiện diện của một trong ba dấu hiệu trên thì thuộc đối
tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.

Căn cứ vào ba dấu hiệu của yếu tố nước ngoài nêu trên, thì hợp đồng
dân sự trong Tư pháp quốc tế được xác định trong những trường hợp sau:

Thứ nhất, việc giao kết hợp đồng được thực hiện bởi các chủ thể có
quốc tịch khác nhau. Nghĩa là, phải có một bên chủ thể là người nước
ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia giao kết hợp đồng này. Theo Tư
pháp quốc tế Việt Nam thì hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài là họp
đồng có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân là
người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Các bên không
đồng thời mang một quốc tịch là một trong những nguyên nhân dẫn tới
xung đột pháp luật, vì tồn tại ít nhất hai hệ thống pháp luật cùng có thể áp
dụng điều chỉnh quan hệ họp đồng này.
10


xảy ra ở nước ngoài. Trong trường hợp này, pháp luật điều chỉnh đối YỚi
hợp đồng bên cạnh luật mà các chủ thể mang quốc tịch còn có luật nơi giao
kết hợp đồng cũng có thể được áp dụng điều chỉnh các Yấn đề liên quan đến
hợp đồng. Vì thế làm xuất hiện hiện tượng xung đột pháp luật và cần được
giải quyết theo các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong Tư
pháp quốc tế. Trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, dấu hiệu này cũng được
thừa nhận.

Thứ ba, đối tượng của hợp đồng là tài sản hoặc công việc ở nước
ngoài, (Ví dụ, hợp đồng gửi giữ tài sản giữa công dân Việt Nam với một
đại lý ở nước ngoài thì trách nhiệm bảo quản tài sản là là công việc phải
làm thuộc đối tượng của quan hệ đó). Vậy, khi các bên chủ thể có cùng

quốc tịch, hợp đồng được ký kết tại nước các bên mang quốc tịch nhưng
khách thể của hợp đồng ở nước ngoài thì việc giao kết hợp đồng này cùng
một lúc chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà họ mang quốc tịch và
luật của nước nơi có tài sản hoặc nơi có công việc. Theo đó, đây là hợp
đồng dân sự có yếu tố nước ngoài và thuộc lĩnh vực điều chỉnh của Tư
pháp quốc tế.

Trong đời sống quốc tế hiện nay, phát sinh ngày càng nhiều các mối
quan hệ dân sự giữa công dân và pháp nhân của nước này với công dân và
pháp nhân của nước khác và mối quan hệ này cũng trở nên đa dạng và
phong phú hơn. Nhóm quan hệ này do một ngành luật độc lập điều chỉnh là
Tư pháp quốc tế. Pháp luật về hợp đồng dân sự trong Tư pháp quốc tế là cơ
sở pháp lý cho các chủ thể này tham gia vào quan hệ được thuận lợi và đạt
được mục đích của mình khi tham gia. Do vậy, việc xác định yếu tố nước
11


1.2.

Xung đột pháp luật trong họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài

1.2.1.

Khái niêm

Mỗi quốc gia đều tự xây dựng cho mình hệ thống pháp luật riêng
nhằm khẳng định chủ quyền cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân nước
mình. Tuy nhiên, giữa các hệ thống pháp luật này luôn có sự khác nhau,
thậm chí là trái ngược nhau, do những nguyên nhân về điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội hay hoàn cảnh địa lý.


Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, ít nhiều các quốc gia sẽ
xích lại gần nhau để cùng hợp tác và phát triển. Ở đó, xung đột pháp luật sẽ
xảy ra khi có hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời có thể được áp
dụng để điều chỉnh cùng một quan hệ pháp luật.

Xung đột pháp luật là hiện tượng phổ biến trong Tư pháp quốc tế.
Khi tham gia điều chỉnh các quan hệ trong Tư pháp quốc tế, luật pháp của
các quốc gia khác nhau thường có những quy định không giống nhau về
cùng một vấn đề. Chẳng hạn như, một nam công dân Việt Nam muốn kết
hôn với một nữ công dân nước ngoài, lúc này vấn đề càn giải quyết là pháp
luật nước nào sẽ điều chỉnh trong quan hệ này, hay nói cách khác thủ tục
kết hôn sẽ tuân theo pháp luật nước nào. Trong trường hợp này, hoặc là luật
của nước ngoài hoặc là luật của Việt Nam. Neu pháp luật của hai quốc gia
mà hai công dân này mang quốc tịch đều quy định cùng một hình thức kết
hôn, khi đó, vấn đề chọn luật nước nào để giải quyết không còn là vấn đề
12


không giống nhau. Và pháp luật của cả hai nước cùng có thể tham gia điều
chỉnh quan hệ này. Đó chính là hiện tượng xung đột pháp luật.

Vậy, xung đột pháp luật là hiện tượng hệ thống pháp luật của hai hay
nhiều nước đồng thời cùng có thể tham gia để điều chỉnh một quan hệ dân
sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.

Từ đó, có thể hiểu một cách khái quát, xung đột pháp luật trong hợp
đồng dân sự có yếu tố nước ngoài là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống
pháp luật đồng thời cùng có thể tham gia điều chỉnh về hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài về một Yấn đề cụ thể nào đó liên quan. Như về hình thức

của hợp đồng, pháp luật Việt Nam quy định một số loại hợp đồng phải
được thể hiện dưới hình thức văn bản mới có giá trị pháp lý. Ví dụ, đối với
hợp đồng thương mại quốc tế, pháp luật Việt Nam quy định bắt buộc phải
được lập dưới hình thức văn bản, nhưng theo pháp luật Mỹ thì cho phép
bằng hình thức văn bản đối với những họp đồng có giá trị trên 500ƯSD
hoặc bằng lời nói với những hợp đồng có giá trị dưới 500ƯSD. Vậy nếu
một doanh nghiệp Việt Nam giao kết hợp đồng thương mại với một doanh
nghiệp Mỹ có giá trị dưới 500ƯSD, thì khi đó hình thức của hợp đồng này
sẽ tuân theo pháp luật nước nào.

Giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngoài chính là giải quyết xung đột pháp luật về tính hợp pháp của hợp
đồng. Bởi bản chất của họp đồng là sự thỏa thuận, nhưng chỉ khi sự thỏa
thuận đó được pháp luật cho phép thì mới trở thành họp đồng được pháp
13


của một hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, như hình thức hợp đồng,
nội dung hợp đồng và các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài.

Tóm lại, xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngoài là hiện tượng pháp luật của hai hay nhiều quốc gia cùng có thể tham
gia điều chỉnh cho hợp đồng đó. Mà pháp luật của các nước lại có cách
hiểu không giống nhau về cùng một vấn đề. Sự khác nhau này là nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật và có liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần
có những phương pháp hữu hiệu để giải quyết những xung đột trong lĩnh
vực này trong hoàn cảnh phát triển kinh tế đã kéo theo sự gia tăng không
ngừng mối quan hệ giao lưu, hợp tác giữa các công dân, pháp nhân các

quốc gia trên thế giới.

1.2.2.

Nguyên nhân xảy ra xung đột

Tư pháp quốc tế là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động, tố
tụng dân sự có yếu tố nước ngoài. Hay nói cách khác, đối tượng điều chỉnh
của Tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước
ngoài.

“Yếu tố nước ngoài” được hiểu là các quan hệ dân sự có người nước
ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ
14


thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để giải quyết tính họp pháp của
hợp đồng. Việc hệ thống pháp luật của hai hay nhiều nước khác nhau cùng
có thể tham gia điều chỉnh quan hệ được hiểu, đó là do chủ quyền quốc gia
tác động lên bộ phận dân cư, lãnh thổ, tài sản nên nơi có hành vi xảy ra có
thể có quyền điều chỉnh, quốc gia mà công dân mang quốc tịch có thể có
quyền áp dụng pháp luật nước mình, pháp luật của nước có bất động sản
liên quan đến họp đồng sẽ được áp dụng giải quyết. Có thể có trường hợp
chỉ có một hệ thống pháp luật được dẫn chiếu để áp dụng (Ví dụ, đó là khi
hợp đồng có đối tượng là bất động sản ở Việt Nam thì khi đó là áp dụng
pháp luật Việt Nam).

Khi hai công dân của hai quốc gia khác nhau giao kết hợp đồng, khi

hai hệ thống pháp luật của hai nước đều có thể được áp dụng điều chỉnh,
vậy sẽ áp dụng pháp luật nước nào, xung đột pháp luật đã xảy ra; hay khi
hai chủ thể có cùng quốc tịch giao kết họp đồng nhưng tài sản liên quan
đến hợp đồng lại ở nước thứ ba, xung đột pháp luật chính là pháp luật mà
các bên mang quốc tịch hay pháp luật của nước nơi đang có tài sản được áp
dụng để điều chỉnh.

Khi có một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cụ thể xuất hiện, thì
pháp luật của các quốc gia có liên quan đều có thể tham gia điều chỉnh cho
quan hệ đó, nhưng pháp luật ở các quốc gia khác nhau lại không giống
nhau, sự khác nhau này dẫn đến việc phải lựa chọn một hệ thống pháp luật
phù họp để điều chỉnh. Như vậy, sự khác nhau về hệ thống pháp luật giữa
các quốc gia trong việc điều chỉnh cùng một vấn đề liên quan đến hợp đồng
là nguyên nhân tiếp theo dẫn đến xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự
15


có sự điều chỉnh khác nhau nên dẫn đến xung đột pháp luật. Sự khác nhau
này dẫn đến xung đột pháp luật vì hệ thống pháp luật giữa các quốc gia là
ngang nhau, không có pháp luật nước nào cao hơn để bắt buộc phải được
áp dụng và cũng không có sự giống nhau về hệ thống pháp luật giữa các
nước. Bên cạnh đó, không có sự tồn tại Tư pháp quốc tế chung cho các
quốc gia, có nghĩa là không có các quy phạm có giá trị chung cho các nước.
Mỗi quốc gia sẽ có Tư pháp quốc tế riêng và tất nhiên có một hệ thống các
quy phạm xung đột đặc thù của mình được xây dựng trên nền tảng xã hội
của mỗi nước.

Trong các quan hệ pháp luật về lĩnh vực hình sự, hành chính... lại
không xảy ra xung đột pháp luật. Vì quan hệ pháp luật này mang tính chất
tuyệt đối về lãnh thổ. Nghĩa là các đạo luật thuộc các lĩnh vực này được

ban hành để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng quốc gia, nên tất cả mọi
người sống trên lãnh thổ của một quốc gia đều phải thi hành cho dù họ
mang quốc tịch của quốc gia nào.

Tóm lại, sự phát triển kinh tế kéo theo yêu càu phải bổ sung, hoàn
thiện các quy định của pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Các quốc
gia luôn mong muốn xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, tiến bộ
và ngày càng xích lại gần nhau hơn. Tuy nhiên, bản chất của pháp luật là ý
chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật do điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội quyết định đã không cho phép các quốc gia dễ dàng làm
được điều này. Sự ảnh hưởng của các tư tưởng, đạo đức, văn hóa, phong
tục tập quán và sự phát triển không đồng đều đã tạo nên sự khác biệt trong
tư duy của các nhà lập pháp của các quốc gia khác nhau. Xung đột pháp
16


của hai hay nhiều nước có liên quan cùng có thể tham gia điều chỉnh,
nhưng sự điều chỉnh đó lại được quy định khác nhau.

1.2.3.

Phương pháp giải quyết xung đột

Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài là việc các quốc gia lựa chọn một hệ thống pháp luật nào
đó để giải quyết xung đột về tính hợp pháp của hợp đồng.

Khi xác định tính hợp pháp của hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngoài gặp phải những xung đột pháp luật, các quốc gia thường có hai
phương pháp xử lý. Một là, cùng thỏa thuận, thống nhất ban hành những

quy định cụ thể để giải quyết tình huống thông qua các Điều ước quốc tế
song phương hoặc đa phương. Cụ thể, đó là ban hành các quy phạm trong
đó quy định trực tiếp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia
quan hệ họp đồng. Phương pháp này được gọi là phương pháp giải quyết
xung đột thực chất, sử dụng các quy phạm thực chất để giải quyết xung đột.
Hai là, ban hành các quy phạm để chỉ ra chọn luật của nước nào trong số
những quốc gia có xung đột pháp luật để áp dụng để giải quyết, theo các
quy định của văn bản luật pháp quốc tế như Công ước, Hiệp định tương trợ
tư pháp... Phương pháp này là phương pháp xung đột, áp dụng các quy
phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật trong họp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài. Đây là hai phương pháp được sử dụng trong giải quyết
xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài cũng như
trong Tư pháp quốc tế nói chung.

17


1.2.3.1. Phương pháp thực chất

Phương pháp thực chất (còn gọi là phương pháp giải quyết trực tiếp)
là phương pháp áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất để giải quyết
xung đột pháp luật trong họp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài. Quy phạm
thực chất là quy phạm quy định sẵn các quyền và nghĩa vụ đối với các chủ
thể trong hợp đồng. Theo đó, khi các vấn đề liên quan đến hợp đồng dân sự
có yếu tố nước ngoài xảy ra, nếu có sẵn quy phạm thực chất để áp dụng thì
các bên chủ thể cũng như cơ quan có thẩm quyền căn cứ ngay vào đó để
xác định vấn đề cần giải quyết (việc xác định hình thức, nội dung hợp
đồng...)

Phương pháp thực chất được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy

phạm thực chất trực tiếp giải quyết trong lĩnh vực hợp đồng dân sự có yếu
tố nước ngoài, có nghĩa quy phạm này đã trực tiếp phân định nội dung hợp
đồng, hình thức hợp đồng cũng như các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
đó.

Các quy phạm thực chất này thể hiện dưới hai hình thức: Một là,
trong các Điều ước quốc tế (gọi là các quy phạm thực chất thống nhất).
Đây là trường hợp mà quy phạm thực chất đã được nhất thể hóa trong các
Điều ước quốc tế. Các quy phạm pháp luật này là kết quả của quá trình
quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội giữa các nước. Quy phạm thực chất
thống nhất này được quy định trong các Điều ước quốc tế hoặc Tập quán
quốc tế, thể hiện khả năng thuận tiện và hữu hiệu trong việc điều chỉnh các
quan hệ Tư pháp quốc tế cũng như trong hợp đồng. Hai là, trong các văn
bản pháp luật quốc gia (gọi là các quy phạm thực chất thông thường). Các
18


ưu thế của phương pháp này trong việc giải quyết xung đột pháp
luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài: Khi sử dụng phương
pháp thực chất, cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng như các bên trong
hợp đồng sẽ chiếu theo các quy phạm thực chất đã được ấn định sẵn trong
các Điều ước quốc tế hoặc trong pháp luật quốc gia để xem xét và giải
quyết xung đột. Tức là sẽ trực tiếp áp dụng quy phạm đó để giải quyết mà
loại trừ vấn đề chọn luật và việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Điều đó
làm cho quan hệ được giải quyết nhanh chóng, các vấn đề cần quan tâm
được xác định ngay, giúp cho các chủ thể tham gia hợp đồng cũng như cơ
quan có thẩm quyền giải quyết sẽ tiết kiệm được thời gian, tránh được việc
phải tìm hiểu pháp luật nước ngoài vốn là vấn đề rất phức tạp.

Bên cạnh những ưu điểm đó thì phương pháp thực chất cũng có

những hạn chế nhất định. Các quy phạm thực chất, do tính cụ thể và trực
tiếp của nó mà đôi khi không tính hết được đến quyền, lợi ích của các
đương sự. Bên cạnh đó, phàn lớn giữa các nước có sự khác nhau về điều
kiện kinh tế, xã hội do đó việc xây dựng một quy phạm thực chất thống
nhất chung cho các quốc gia là điều không hề đơn giản, không thể thống
nhất pháp luật giữa các quốc gia cũng như đồng nhất quốc tế pháp luật của
các nước. Thêm nữa là, để đi đến thống nhất ý chí giữa các bên còn phải
tốn rất nhiều thời gian và công sức. Do những quy phạm thực chất thống
nhất có số lượng không nhiều, vì mỗi nước có những lợi ích khác nhau nên
khó cùng nhau thỏa thuận ký kết hoặc tham gia các Điều ước quốc tế hoặc
cùng sử dụng các Tập quán quốc tế. Do đó không đáp ứng được yêu cầu
điều chỉnh hết các vấn đề về họp đồng tương đối đa dạng và phức tạp. Bởi
vậy, khi không có các quy phạm thực chất thống nhất để giải quyết vấn đề

19


Phương pháp xung đột (còn gọi là phương pháp giải quyết gián tiếp)
là phương pháp sử dụng quy phạm xung đột để giải quyết xung đột trong
hợp đồng, xác định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng trong việc điều
chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong tình huống
thực tế. Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật không quy định sẵn các
quyền và nghĩa vụ đối YỚi các chủ thể tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế
mà chỉ có vai trò xác định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng.

Quy phạm xung đột gồm có phần phạm vi quy định quy phạm xung
đột này được áp dụng cho loại qua hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nào và
phàn hệ thuộc, chỉ ra luật pháp nước nào được áp dụng để giải quyết quan
hệ dân sự thuộc phàn phạm vi. Như vậy, quy phạm xung đột là quy phạm
luôn mang tính chất dẫn chiếu. Sự dẫn chiếu này là dẫn chiếu đến toàn bộ

hệ thống pháp luật của một quốc gia. Vì vậy cơ quan có thẩm quyền phải
chọn ra hệ thống pháp luật của nước được dẫn chiếu tới để điều chỉnh quan
hệ.

Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài là phương pháp sử dụng quy phạm xung đột để xác định
hệ thống pháp luật của nước sẽ được áp dụng khi xác định về tính hợp pháp
của hợp đồng. Quy phạm xung đột này được xây dựng trong hệ thống pháp
luật các nước và trong các Điều ước quốc tế. Ví dụ, quy phạm xung đột
trong khoản 1 Điều 770 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005: “Hình thức hợp
đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng...”, theo đó
pháp luật nơi giao kết họp đồng sẽ được áp dụng khi xác định hình thức
của hợp đồng; quy phạm xung đột: “Hình thức hợp đồng về bất động sản
20


từ đặc điểm của quy phạm xung đột có thể thấy phương pháp xung đột
mang tính chất chung gian, gián tiếp giải quyết xung đột về xác định tính
hợp pháp của họp đồng, điều đó phù họp với hoàn cảnh thực tế hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà nền kinh tế các quốc gia ngày cành phát
triển, các nước phải có sự giao lưu, quan hệ mật thiết với nhau. Lúc đó vấn
đề bảo hộ cho công dân nước mình tại nước ngoài cũng như trong nước sẽ
là vấn đề cần được đặt lên hàng đầu. Quan hệ hợp đồng có yếu tố nước
ngoài là quan hệ có tính chất vượt ra khỏi phạm vi của một quốc gia và liên
quan tới một hoặc nhiều quốc gia khác. Trong khi đó, phương pháp xung
đột tính được đến quyền và lợi ích hợp pháp họp lý nhất của các đương sự,
vì vậy thúc đẩy mối quan hệ họp tác giữa các quốc gia.

Bởi mỗi quốc gia có một chế độ kinh tế, chính trị... cũng như có
trình độ phát triển khác nhau đã dẫn đến việc pháp luật cũng khác nhau khi

điều chỉnh cùng một vấn đề. Do đó, việc thừa nhận quy phạm xung đột là
công cụ chủ yếu để thiết lập và bảo đảm một trật tự pháp lý trong quan hệ
dân sự quốc tế. Phương pháp xung đột giúp cho việc giải quyết xung đột
trong quan hệ họp đồng có yếu tố nước ngoài một cách thuận lợi, dễ dàng;
tránh được những tranh chấp giữa các quốc gia, gây bất ổn đến quan hệ
giữa các nước với nhau, quan trọng nhất là điều hòa được lợi ích giữa các
quốc gia.

Hạn chế của phương pháp xung đột: Do pháp luật các nước có sự
khác nhau nên việc sử dụng phương pháp xung đột để giải quyết xung đột
được xem như là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và
riêng biệt của quy phạm xung đột là không quy định rõ về quyền và nghĩa
21


thể gây khó khăn cho việc áp dụng. Lúc đó, Tòa án phải xét đến hệ thống
pháp luật nước mình để tìm ra các quy định cần thiết để giải quyết.

Bên cạnh đó, nội dung của phương pháp xung đột khá trừu tượng,
vấn đề áp dụng quy phạm xung đột lại phức tạp, vì vậy đòi hỏi phải có
chuyên môn sâu trong lĩnh vực pháp luật mới có hiểu biết được đày đủ.
Trong khi đó, đội ngũ chuyên gia luật không phải ở đâu cũng có trình độ
cao nên dễ xảy ra tính chất không nhất quán đối với cùng một vấn đề khi
giải quyết ở Tòa án có thẩm quyền tại các nước khác nhau, dẫn đến việc
các bên khi giao kết hợp đồng cần thấy trước được luật của nước nào sẽ có
khả năng áp dụng để tránh xảy ra tranh chấp.

Phương pháp xung đột còn thể hiện tính phức tạp khi áp dụng thực
hiện. Do phải thông qua khâu trung gian “chọn luật” áp dụng nên việc giải
quyết xung đột mất nhiều thời gian, khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến

pháp luật nước ngoài thì việc tìm hiểu pháp luật của các nước tương đối
khó khăn. Và trong quá trình lựa chọn áp dụng đó cũng gặp phải những khó
khăn như khả năng nhận thức của người áp dụng, liên quan đến vấn đề
“bảo lưu trật tự công cộng” khi áp dụng pháp luật nước ngoài.

Tuy có những nhược điểm, nhưng do việc xây dựng quy phạm thực
chất thống nhất rất phức tạp, số lượng các quy phạm không đáp ứng được
yêu cầu điều chỉnh các quan hệ dân sự trong khi đó số lượng các quy phạm
xung đột lại nhiều hơn và tham gia điều chỉnh hàu hết các quan hệ trong Tư
pháp quốc tế, bởi vậy phương pháp xung đột là phương pháp giải quyết
22


×