HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
PHẦN THỨ HAI
NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM
CHƯƠNG VIII
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CƠ CẤU KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Câu 33: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trả lời:
* Dự đoán của Mác và Ănghen về phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và sự quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
- Tính tất yếu khách quan của sự ra đời phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa:
+ Cơ sở lý luận.
Xuất phát từ thế giới quan duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen cho rằng sự biến đổi của chế độ xã hội
trong lịch sử là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Dựa trên quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
dẫn đến phương thức sản xuất mới Cộng sản chủ nghĩa (CSCN) ra đời thay thế phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa (PTSX TBCN).
+ Cơ sở thực tiễn.
Dựa trên những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản (CNTB), mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá
ngày càng cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất (TLSX), Mác và Ănghen đã cho rằng quá trình phát triển của CNTB không thể xoá
bỏ tính chất tư hữu tư nhân.
Nó không chỉ tạo ra những tiền đề xã hội mà quan trọng là đã tạo ra những tiền đề vật chất, kinh tế cho
sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản.
+ Từ cơ sở trên C.Mác và Ph.Ăng Ghen đã đưa ra kết luận: Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ
thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật.
- Những đặc trưng kinh tế-xã hội cơ bản của chủ nghĩa cộng sản:
Mác và Ăngghen đã phác họa ra những đặc trưng cơ bản của xã hội cộng sản chủ nghĩa và cho rằng đây
là một xã hội đã phát triển dựa trên những cơ sở của chính nó, chứ không phải của một xã hội vừa thoát thai
từ xã hội tư bản chủ nghĩa mà ra. Xã hội cộng sản chủ nghĩa phải là một xã hội sẽ có những đặc trưng cơ
bản sau:
+ Lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao.
+ Chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu.
+ Sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội.
+ Nền sản xuất được tiến hành một cách kế hoạch thống nhất, không còn sản xuất hàng hoá.
+ Sự phân phối sản phẩm bình đẳng.
+ Xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị với nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
- Các giai đoạn của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa
Để xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với những đặc trưng kinh tế-xã hội cơ bản như trên, theo
C.Mác cần phải phát triển qua hai giai đoạn, mỗi giai đoạn có những đặc trưng riêng:
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
1
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
+ Giai đoạn thấp hay giai đoạn đầu (sau này Lênin gọi là CNXH). Theo C.Mác: "Trong giai đoạn này
xã hội cộng sản chưa phát triển cơ sở chính nó, do đó về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn
mang dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra” (Phê phán Cương lĩnh Gô-ta). Đặc trưng của giai đoạn
này là: Trình độ xã hội hoá thấp; sở hữu về tư liệu sản xuất tồn tại dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể;
lao động vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ; còn giai cấp, còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa
lao động trí óc và lao động chân tay; còn sản xuất hàng hoá
+ Giai đoạn sau hay giai đoạn cao (sau này Lênin gọi là chủ nghĩa cộng sản). Theo Mác và Ăngghen,
trong giai đoạn này “sự phụ thuộc có tính nô dịch vào phân công lao động không còn nữa, sự đối lập giữa
lao động trí óc và lao động chân tay cũng không còn nữa, của cải xã hội dồi dào, làm theo năng lực hưởng
theo nhu cầu, con người phát triển hoàn toàn tự do”. Đặc trưng của giai đoạn này là: Trình độ xã hội hoá
cao; sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất; lao động trở thành nhu cầu của cuộc sống, con người được phát
triển toàn diện; không còn tồn tại giai cấp, không còn sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động
trí óc và lao động chân tay, không còn sản xuất hàng hoá.
* Quan điểm của Lênin về CNXH và thời kỳ quá độ lên CNXH.
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Do phát hiện ra tính quy luật phát triển không đồng đều của CNTB ở trong giai đoạn chủ nghĩa tư
bản độc quyền, Lênin kết luận: Cách mạng vô sản chỉ có thể nổ ra và thắng lợi ở một số hoặc thậm chí
một nước TBCN , nhưng nơi đó phải là khâu yếu nhất của sợi dây độc quyền chủ nghĩa . Lênin đã nêu ra
lý luận về thời đại mới, đó là thời đại quá độ tiến lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng
cách mạng tháng Mười Nga thành công. Lênin cũng chỉ rõ: Việc giành chính quyền là điều kiện tiên
quyết để xây dựng nền kinh tế XHCN.
Vận dụng học thuyết của C.Mác vào công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô trước đây, Lênin đã
phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH.
- Lý luận về thời kỳ quá độ:
Theo Lênin, thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào đi lên CNXH đều
phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh tế rất phát triển.
+ Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội cũ sang xã hội mới. Bất kỳ xã hội nào
chuyển lên xã hội cao hơn đều phải trải qua một thời kỳ quá độ.
+ Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc,
triệt để, toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội.
+ Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được quy định bởi đặc điểm ra đời, phát
triển của cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế, xã hội của CNXH. Đặc điểm của cuộc cách
mạng vô sản là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để. Đặc trưng kinh tế-xã hội của CNXH: quan
hệ sản xuất XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nên không thể tự phát ra đời trong xã hội
tư bản được mà chỉ ra đời khi cách mạng vô sản thành công, nhà nước vô sản được thiết lập, có lực lượng
sản xuất phát triển cao và xóa bỏ tận gốc người bóc lột người.
+ Tùy từng nước mà thời kỳ quá độ có thể dài ngắn khác nhau. Nó chỉ kết thúc khi xây dựng xong cơ
bản cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Có hai loại quá độ: Một là, quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH, đây
là quá độ tuần tự, phù hợp với quy luật chung của lịch sử loài người; hai là, quá độ từ các nước tiền tư
bản đi lên CNXH (bỏ qua chế độ TBCN) - đây là quá độ đặc thù. Điều kiện để có thể bỏ qua:
Điều kiện khách quan: Các nước XHCN tiên tiến giúp đỡ.
Điều kiện chủ quan: Giai cấp công nhân phải giành được chính quyền, phải xây dựng được khối
công-nông liên minh vững chắc...
- Đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và tương
ứng với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp
trong xã hội đã thay đổi một cách sâu sắc.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
2
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
Trong thời kỳ quá độ sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là khách quan và lâu dài, và tương
ứng với nó có nhiều giai cấp. Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH là mâu thuẫn giữa CNXH
và CNTB. CNXH đã giành thắng lợi nhưng còn non yếu còn CNTB đã bị thất bại nhưng vẫn còn khả
năng khôi phục. Vì vậy, có thể nói thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa CNXH
và CNTB.
Câu 34: Phân tích tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trả lời:
* Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
- Bất cứ nước nào tiến lên CNXH đều phải trải qua thời kỳ quá độ, điều này do đặc điểm ra đời của
quan hệ sản xuất XHCN và tính chất của cách mạng XHCN quyết định. Vì vậy sau khi miền Bắc được
giải phóng, Đảng ta đã xác định miền Bắc tiến lên CNXH và sau khi cả nước thống nhất, Đảng ta vẫn
khẳng định cả nước cùng quá độ tiến lên CNXH. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
một tất yếu lịch sử, bởi vì:
vì:
+ Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách quan của lịch
sử, phù hợp với xu thế của thời đại.
+ Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại, mà
còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
* Đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam
- Sau năm 1975, cả nước cùng tiến hành cách mạng XHCN. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Nước ta quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản
xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư
thực dân phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và
nền độc lập của nhân dân ta” ). Với thực trạng như vây, nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài và sẽ gặp những khó khăn, trở ngại.
Như vậy, đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Nhưng, thế nào là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ? Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công
nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” ..
Điều đó có nghĩa là chúng ta chỉ bỏ qua sự phát triển chế độ chính trị TBCN với tư cách là chế độ
chính trị thống trị và bỏ qua quan hệ sản xuất TBCN với tư cách là quan hệ sản xuất thống trị , còn
những quy luật của sự phát triển LLSX, thành tựu cách mạng KHCN của kinh tế thị trường mà nhân
loại đã đạt được trong chế độ TBCN thì chúng ta không được bỏ qua.
Bỏ qua chế độ tư bản là phát triển theo con đường "rút ngắn" quá trình lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng
"rút ngắn" không phải là chúng ta đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật.
Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là thời kỳ lịch sử mà “nhiệm vụ quan trọng
nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho CNXH ... tiến dần lên CNXH, có
công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và
lâu dài”.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
3
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
Câu 35 : Phân tích những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Trả lời:
* Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm
của cả thời kỳ quá độ, nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội .
- Nói đến phát triển lực lượng sản xuất là phải nói đến sự phát triển của tư liệu sản xuất,
xuất, mà phát
triển tư liệu sản xuất cũng là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, trang bị
khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, tiên tiến cho các ngành kinh tế quốc dân và có khả năng hội nhập
vào thị trường thế giới.
- Trong lực lượng sản xuất còn có một yếu tố nữa đó là người lao động,
động, là lực lượng sản xuất cơ
bản của xã hội, đồng thời cũng là mục đích của nền sản xuất xã hội. Cho nên nhiệm vụ cơ bản của thời
kỳ này là phải xây dựng đội ngũ lao động có khả năng sử dụng và quản lý nền sản xuất xã hội cao và kỹ
thuật công nghệ tiên tiến nhất . Bác Hồ nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa".
- Đảng ta khẳng định: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Như vậy, CNH, HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm và có tính chất quy luật của sự quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở những nước lạc hậu. Cũng từ đó mới có thể xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho một
nền sản xuất lớn hiện đại của chủ nghĩa xã hội , mới nâng cao năng suất lao động, mới cải thiện được
đời sống nhân dân, phúc lợi xã hội tăng lên, kinh tế-xã hội phát triển, đất nước giàu mạnh.
- Tuy nhiên chiến lược, nội dung hình thức, bước đi, tốc độ, biện pháp để thực hiện CNH, HĐH đất
nước ở mỗi thời kỳ, mỗi nước phải đều xuất phát từ điều kiện cụ thể. Như trong điều kiện hiện nay,
nước ta phải tận dụng thời cơ toàn cầu hóa, vấn đề hội nhập nền kinh tế tri thức,... để phát triển lực
lượng sản xuất, chuyển dòng chảy công nghiệp hiện đại vào nước ta. Tận dụng vốn kỹ thuật công nghệ,
thị trường ở bên ngoài nhằm phát huy nguồn nội lực và những tiềm năng bên trong.
* Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN
Quá trình CNH, HĐH đã tạo ra một bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, vì vậy xây dựng
quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một tất yếu
khách quan. Xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải đảm bảo các
yêu cầu sau đây:
- Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển lực lượng sản
xuất.
- Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: Sở hữu tư liệu sản xuất (trong đó sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể làm nòng cốt); tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm. Do đó, quan hệ sản
xuất mới phải được xây dựng một cách đồng bộ trên cả ba mặt đó.
- Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó như: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất; c ải thiện đời sống nhân
dân; thực hiện công bằng xã hội.
* Mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế
- Đứng trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
-công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại, đây là một xu hướng tất yếu của thời đại ngày nay khi chúng ta đã là thành viên của WTO.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
4
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
- Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm mục đích tranh thủ vốn, khoa học kỹ thuật công nghệ,
kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ các nước phát triển và các tổ chức phi chính phủ trên thế giới, kết hợp
sức mạnh đoàn kết với xu hướng của thời đại để nước ta tiến nhanh.
- Để mở rộng và nâng cao hiệu quan hệ kinh tế quốc tế, chúng ta phải:
+ Từng bước nâng cao sức cạnh tranh quốc tế.
+ Tích cực khai thác thị trường thế giới, tối ưu hóa cơ cấu xuất khẩu.
+ Tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu.
+ Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh
bảo vệ vệ an ninh kinh tế quốc gia.
- Tuy nhiên, trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế cũng phải thấy rằng, đây là một quá
trình vừa có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít thách thức khó khăn. Vì vậy, cần xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa mở rộng kinh tế quốc tế với giữ vững độc lập tự chủ, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc.
Câu 36: Phân tích tính tất yếu của sự đa dạng hóa loại hình sở hữu và tồn tại cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trả lời:
* Sở hữu tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Khái niệm sở hữu:
Sở hữu là một phạm trù kinh tế biểu hiện các quan hệ giữa người với người đối với việc chiếm hữu
của cải vật chất, trước hết là đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Chiếm hữu là quan hệ giữa người với tự nhiên, là hành vi tồn tại cùng với sự phát triển của con
người, là phạm trù vĩnh viễn, còn sở hữu là hình thức lịch sử xã hội của sự chiếm hữu.
+ Sở hữu là một trong ba mặt của quan hệ sản xuất, là mặt quan trọng nhất quyết định hai mặt khác
của quan hệ sản xuất. Sở hữu tư liệu sản xuất quy định mục đích của sản xuất, hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh, phương thức quản lý, phân phối sản phẩm và cơ chế điều tiết chúng.
+ Mỗi phương thức sản xuất có một hình thức sở hữu TLSX đặc trưng. Ở nước ta, một thời gian dài
trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, Đảng ta đã coi sở hữu về TLSX là mục tiêu cho nên đã nôn nóng
xóa bỏ tư hữu, xây dựng và phát triển nhanh chế độ công hữu để đạt mục tiêu của CNXH. Sau đổi mới
có một số năm lại coi sở hữu là phương tiện thì điều đó cũng không đúng. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 của Đảng đã khẳng định về một trong những đặc trưng của xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: "Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu". Theo đó, các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan
kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các tổ chức kinh tế tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh
tranh trong sản xuất kinh doanh. Đại hội IX, Đại hội X nhấn mạnh từ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân hình thành nhiều hình thức sở hữu và cần xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở
hữu. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) của
Đảng khẳng định: Tiếp tục thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, bảo
hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu. Hoàn thiện pháp luật
mới về sở hữu đối với các loại tài sản như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước, đất đai...,
quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội. Khẳng định sự tồn tại khách quan, lâu
dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể sở hữu khác nhau trong nền kinh tế.
- Các hình thức sở hữu chủ yếu ở Việt Nam: Sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thế, sở hữu tư nhân, sở hữu
hỗn hợp.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
5
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
- Vai trò của sở hữu.
Sở hữu là cơ sở nền tảng của chế độ xã hội, nó quyết định mục đích của nền sản xuất, hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh, hình thức phân phối và cơ cấu giai cấp xã hội.
+ Vai trò của sở hữu công cộng: Là mục tiêu và là phương tiện trong công cuộc xây dựng CNXH. Là
công cụ định hướng nền kinh tế lên CNXH. Tạo cơ sở bình đẳng, bố trí hợp lý tài nguyên trong toàn xã hội.
+ Vai trò của sở hữu tư nhân: Phát huy tốt tiềm năng, thế mạnh về vốn, lao động, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý – sản xuất của mỗi chủ thể. Tạo cơ may để làm giàu cho tất cả moi thành viên trong xã hội.
Con người có được công cụ và phương tiện để thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện. Là động lực thúc đẩy
hoạt động kinh tế - xã hội của các chủ thể khi tham gia.
* Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
- Khái niệm thành phần kinh tế:
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế có vai trò và chiếm một tỷ trọng nhất
định trong nền kinh tế quốc dân, bao gồm một hay một số loại hình sản xuất kinh doanh dựa trên một
hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất, gắn với một cách thức tổ chức quản lý và phân phối thu
nhập thích hợp.
- Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ở nước ta.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế, bởi vì:
+ Ở nước ta trong thời kỳ quá độ, còn tồn tại một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất
cũ như kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân,... mà không thể cải tạo nhanh được. Các thành
phần kinh tế này còn có cơ sở tồn tại và còn có ích cho nền kinh tế. Mặt khác, do cải tạo xã hội chủ
nghĩa làm xuất hiện một số thành phần kinh tế mới như: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản
nhà nước... Các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại đan xen lẫn nhau cấu thành đặc điểm kinh tế trong
thời kỳ quá độ mà chúng ta không thể tự ý xóa bỏ một thành phần kinh tế nào.
+ Bước vào thời kỳ quá độ, ở nước ta do trình độ lực lượng sản xuất còn rất thấp, lại phân bố không
đồng đều giữa các ngành, vùng… nên tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình, hình thức sở hữu và nhiều
thành phần kinh tế.
+ Do yêu cầu của việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng
đòi hỏi phải có nhiều vốn, kỹ thuật, lao động trong khi kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể chưa đáp ứng
được vì vậy cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều thành phần kinh tế.
+ Do yêu cầu giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho người lao động trong khi
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chưa đáp ứng được vì vậy cần phát huy sức mạnh của nhiều thành
phần kinh tế.
+ Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế vừa là tất yếu, vừa là phương tiện, động lực thúc đẩy sản xuất
phát triển.
- Lợi ích của việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế:
+ Có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế
trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
+ Góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế ở nước ta
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy kinh tế nhanh và bền vững.
+ Tạo điều kiện để thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế
tư bản nhà nước. Đó là những cầu nối, trạm trung gian cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn, nền sản xuất XHCN, bỏ qua chế độ TBCN.
+ Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là cơ sở để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
+ Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được lợi ích kinh tế của các giai cấp, tầng lớp xã hội,
có tác dụng khai thác sử dụng các nguồn lực, tiềm năng của đất nước.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
6
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
Câu 37: Phân tích đặc điểm, vai trò c ác thành phần kinh tế và mối quan hệ giữa các thành
phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trả lời:
Qua thực tiễn 25 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã xác định nền kinh
tế nước ta có 4 thành phần kinh tế:
* Kinh tế nhà nước:
- Khái niệm:
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, bao
gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế của nhà nước (ngân hàng nhà nước, ngân sách nhà
nước, quỹ dự trữ quốc gia, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội), các tài nguyên quốc gia
và tài sản thuộc sở hữu nhà nước (đất đai, hầm mỏ, rừng, biển...) và phần vốn nhà nước góp vào các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
- Đặc điểm:
Kinh tế nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu. Sự hình thành kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở quá
trình quốc hữu hóa xã hội chủ nghĩa và quá trình xây dựng mới.
- Vai trò của kinh tế nhà nước:
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thể hiện:
+ Một là, kinh tế nhà nước giữ vị trí then chốt trên tất cả mọi lĩnh vực của đất nước, đi đầu ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội
và chấp hành pháp luật.
+ Hai là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ để nhà nước thực hiện chức
năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó mở đường, hướng dẫn,
hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Ba là, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân.
- Phương hướng phát triển:
Để phát huy vai trò chủ đạo của mình, trong thời gian tới, kinh tế nhà nước cần tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước với những nội dung chủ yếu sau:
+ Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong môi trường
cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Kiên quyết xóa bỏ tình trạng độc quyền và đặc
quyền của doanh nghiệp trong sản xuất - kinh doanh.
+ Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, cụ
thể: phân loại doanh nghiệp nhà nước (loại hoạt động công ích, loại kinh doanh thu lợi nhuận) để có
chính sách quản lý, hỗ trợ. Thực hiện cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp
nhà nước không cần nắm giữ. Giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp nhà nước loại nhỏ. Sát
nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các
biện pháp trên. Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham gia
cổ phần của nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước.
* Kinh tế tập thể
- Khái niệm:
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
7
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, nó bao gồm các đơn vị kinh tế do
những người lao dộng góp vốn, góp sức cùng sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng, quản lý dân chủ, cùng có lợi, có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước.
- Đặc điểm:
+ Kinh tế tập thể dựa trên hình thức sở hữu tập thể (các quỹ sử dụng chung trong hợp tác xã) và sở
hữu các thành viên. Kinh tế tập thể bao gồm các hình thức: tổ hợp tác, nhóm hợp tác, hợp tác xã.
+ Hợp tác xã được hình thành trên cơ sở đóng góp cổ phần và tham gia lao động trực tiếp của xã
viên. Phân phối trong hợp tác xã theo kết quả lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ.
+ Hợp tác xã được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản là: tự nguyện, bình đẳng, cùng
có lợi và quản lý dân chủ.
- Vai trò:
Kinh tế tập thể luôn hỗ trợ và bổ sung tích cực cho kinh tế nhà nước. Là con đường chuyển từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn, góp phần mở rộng hợp tác và phân công lao động xã hội. Cùng với kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Nội dung "nền tảng
vững chắc" ở đây không phải nói đến quy mô, số lượng mà nhấn mạnh về chất lượng, về vai trò định hướng
xã hội chủ nghĩa nền kinh tế.
- Phương hướng phát triển:
Kinh tế tập thể đang trong quá trình đổi mới và phát triển.
* Kinh tế tư nhân
- Kinh tế tư bản tư nhân.
+ Khái niệm:
Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và
bóc lột lao động làm thuê.
+ Đặc điểm:
Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên chế độ bóc lột lao động làm thuê nhưng không còn nguyên nghĩa
hay phạm vi bóc lột bị hạn chế so với trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hình thức của kinh tế tư bản tư
nhân bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; doanh nghiệp tư nhân; tô nhượng, đại lý.
Nó có thể tồn tại độc lập hoặc liên kết với các thành phần kinh tế khác, với tư bản trong và ngoài nước.
+ Vai trò:
Phát huy được tiềm lực về vốn, khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý kinh tế; phát huy
được ưu thế của sản xuất lớn thúc đẩy sản xuất phát triển.. Thích nghi nhanh nhạy với cơ chế thị trường,
là phương tiện, con đường để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất. Thu hút, kêu gọi được tư bản
nước ngoài đầu tư vào trong nước.
+ Phương hướng phát triển:
Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh cần hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư
nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế
tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn đầu
tư phát triển sản xuất. Xóa bỏ định kiến, tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần này về tín dụng, khoa
học công nghệ, đào tạo cán bộ …Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp của họ. Được
kinh doanh trong một số lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Khuyến khích đi vào con đường chủ nghĩa
tư bản nhà nước.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
+ Khái niệm:
Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân
người sản xuất không có bóc lột.
+ Đặc điểm:
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
8
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
Đối tượng là các nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ. Hoạt động dựa vào lao động của bản
thân và gia đình (đối với cá thể); có thuê mướn lao động nhưng ở quy mô gia đình (đối với tiểu chủ).
Có thể hoạt động độc lập hoặc tham gia vào các thành phần kinh tế khác. Quy mô nhỏ bé phân tán, tính
tự phát cao, dễ bị phân hóa. Kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, địa bàn hoạt động rộng lớn, cả thành thị
và nông thôn.
+ Vai trò:
Có điều kiện phát huy hiệu quả, tiềm năng về vốn, lao động góp phần tạo ra nhiều sản phẩm hàng
hóa đa dạng, phong phú phục vụ ngày càng cao nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Tận dụng lao
động dư thừa, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống dân cư. Thực hiện
được việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Góp phần tạo
thêm và mở rộng thị trường.
+ Phương hướng phát triển:
Nhà nước tạo mọi điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển. Khuyến khích họ đi vào con
đường làm ăn tập thể.
* Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
- Khái niệm:
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là loại hình kinh tế gồm những doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh có vốn của các doanh nghiệp, cá nhân người nước ngoài tham gia.
- Đặc điểm:
Vốn của nước ngoài đầu tư vào nước ta bao gồm hai hình thức: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và
doanh nghiệp liên doanh
- Vai trò:
trò:
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần rất lớn vào quá trình tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao
đời sống của người lao động.
* Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế
- Các thành phần kinh tế có mối quan hệ với nhau, mỗi thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà
đan xen, tác động qua lại với nhau. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về
TLSX và biểu hiện lợi ích của một giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Các thành phần kinh tế vừa
thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau:
+ Tính thống nhất: Mỗi thành phần là một bộ phận của nền kinh tế, nằm trong hệ thống phân công
xã hội thống nhất. Các thành phần kinh tế đều hoạt động trong một môi trường thống nhất (các chính
sách, pháp luật) đều chịu sự quản lý vĩ mô của nhà nước XHCN. Các thành phần đều là sản xuất hàng
hoá ,đều chịu sự tác động của các quy luật của sản xuất hàng hóa.
+ Tính mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế.Trong nội bộ mỗi thành phần kinh tế
cũng có mâu thuẫn.
- Để nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN, chúng ta cần phải:
+ Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và nó cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối đa các nguồn lực cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu;
thừa nhận thuê mướn lao động nhưng không để nó trở thành quan hệ thống trị.
+ Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo, tránh sự phân
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
9
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
hoá xã hội thành hai cực đối lập, không để chênh lệch quá lớn về mức sống và trình độ phát triển giữa
các vùng, các tầng lớp dân cư.
CHƯƠNG IX
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NỀN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Câu 38: Phân tích tính tất yếu và tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trả lời:
* Khái niệm CNH, HĐH
- Xem xét lịch sử phát triển kinh tế thế giới, mặc dù mỗi nước ở những thời điểm khác nhau, những
điều kiện phát triển khác nhau về lực lượng sản xuất (LLSX), khoa học công nghệ (KHCN), song các nước
đều tìm cách thúc đẩy sự phát triển LLSX, và xét theo một khía cạnh nào đó thì đấy là quá trình thực hiện
CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân.
- Đảng ta khẳng định: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
* Tính tất yếu của CNH, HĐH
- Mỗi phương thức sản xuất đều có cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng với nó làm cho quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của LLSX xã hội (bao
gồm: tư liệu lao động & đối tượng lao động), phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao
động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội. Cơ sở vật chất kỹ thuật có tính
chất và đặc trưng, thống trị của phương thức sản xuất đó.
+ Đối với các phương thức sản xuất trước CNTB (nô lệ, phong kiến): Cơ sở vật chất kỹ thuật thủ công,
lạc hậu, năng suất lao động (NSLĐ) thấp.
+ Đối với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNTB là nền đại công
nghiệp cơ khí với trình độ KHCN hiện đại, có NSLĐ cao, dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về TLSX.
+ Đối với phương thức sản xuất XHCN, muốn thay thế CNTB cần phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cao hơn CNTB trên cả hai phương diện trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất. Về trình độ kỹ thuật, phát triển
và hoàn thiện cơ sở đó trên những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng KHCN với cơ cấu kinh tế quốc
dân hợp lý, cho phép khai thác tối đa các nguồn lực trong nước, tham gia tích cực và có hiệu quả vào phân
công lao động và hợp tác quốc tế. Về cơ cấu sản xuất, kế thừa những thành quả về cơ sở vật chất kỹ thuật
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
10
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
mà nhân loại đã đạt được trong CNTB. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp
lớn, hiện đại có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao, dựa trên trình độ KHCN hiện đại được
hình thành một cách có kế hoạch và thống trị toàn bộ nền kinh tế quốc dân, dựa trên cơ sở chế độ công hữu
về TLSX. Muốn có cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH phải tiến hành CNH, HĐH.
- CNH, HĐH là tất yếu khách quan đối với tất cả các nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Đối với các nước đã chủ nghĩa tư bản: Mặc dù đã có cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối hiện đại nhưng
chưa phải là cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, trong chủ nghĩa tư bản do dựa trên chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất dẫn đến tình trạng bất bình đẳng. Cơ chế tự do cạnh tranh, chạy theo lợi nhuận
nên trình độ phát triển không đều, mất cân đối của nền kinh tế. Mặt khác, do sự phát triển nhanh chóng của
cách mạng khoa học công nghệ nên cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản đã trở nên lạc hậu so với sự
phát triển, vì vậy cần phải tiến hành CNH, HĐH để thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế hợp lý.
+ Đối với các nước chưa qua tư bản chủ nghĩa: Do điểm xuất phát thấp nên muốn phát triển lực lượng
sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nhà nước phát triển về kinh tế, ổn
định chính trị - xã hội, vững mạnh an ninh quốc phòng thì cần phải thực hiện CNH, HĐH.
Như vậy, những gì nói về tính tất yếu của việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH cũng có
nghĩa là nói về tính tất yếu của CNH, HĐH. Tuy nhiên phải hiểu cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ hiện đại
là mục đích phải đạt được của nền sản xuất lớn nói chung, còn CNH, HĐH là phương thức tiến hành để xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đó.
* Tác dụng của CNH, HĐH
- Thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ có những tác dụng to lớn về nhiều
mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước:
+ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội.
+ Cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện mục tiêu của CNXH.
+ Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại.
+ Tăng cường lực lượng vật chất kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh.
+ CNH, HĐH là để thực hiện xã hội hóa sản xuất về mặt kinh tế kỹ thuật theo định hướng XHCN. .
- Phát huy tác dụng của CNH, HĐH, Đại hội IX của Đảng ta xác định: “Phát triển lực lượng sản xuất,
CNH, HĐH đất nước theo hướng hiện đại… là nhiệm vụ trung tâm” trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp
tục khẳng định:
+ Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường.
+ Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững.
+ Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành
công nghiệp có lợi thế.
+ Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới.
+ Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn.
+ Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Câu 39: Trình bày đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và vấn đề công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và của nền kinh tế tri thức.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
11
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
Trả lời:
* Đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
- Các khái niệm:
+ Khoa học: Là hệ thống tri thức của nhân loại về tự nhiên, xã hội và con người được tích lũy trong quá
trình phát triển lịch sử.
+ Công nghệ: Là tập hợp kỹ thuật về phương pháp, phương tiện, kỹ năng, kỹ xảo, bí quyết, kinh
nghiệm, tư liệu sản xuất để tác động vào đối tượng lao động tạo ra sản phẩm có chất lượng cho xã hội. Hay
nói cách khác, công nghệ là tập hợp các nguồn lực kỹ thuật, nguồn lực con người, nguồn lực thông tin,
nguồn lực tổ chức để thực hiện sản xuất.
+ Cách mạng khoa học công nghệ: Là quá trình làm thay đổi (biến đổi) về chất, xu hướng, quy mô, tốc
độ phát triển của các ngành khoa học kỹ thuật và công nghệ tạo ra một sự phát triển mới, một bước nhảy vọt
của khoa học công nghệ tạo điều kiện cho sự phát triển của khoa học công nghệ trong giai đoạn tiếp theo.
- Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ thế giới.
+ Cuộc cách mạng kỹ thuật lần 1: Diễn ra cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX mà nội dung cơ bản là
chuyển từ lao động thủ công sang lao động bằng máy móc (cơ khí hóa).
+ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần 2: Diễn ra từ giữa thế kỷ XX đến nay. Nội dung của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ lần 2 tập trung phát triển trên 5 hướng: tự động hóa, năng lượng mới, vật
liệu mới, công nghệ sinh học, điện tử - tin học.
- Đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thế giới
+ Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm khoa học tự nhiên - kỹ thuật, khoa
học xã hội, khoa học kinh tế). Bất kỳ một sự phát triển tiến bộ nào của kinh tế - kỹ thuật cũng đều dựa trên
những thành tựu khoa học làm cơ sở cho lý thuyết của nó. Nó đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho
khoa học, kỹ thuật, công nghệ tương ứng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khoa học do con
người sáng tạo ra và được vật chất hóa biến thành lực lượng sản xuất, vì vậy con người là trung tâm, là chủ
thể, là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại.
+ Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học ra đời thay thế cho phát minh cũ có xu hướng
rút ngắn lại, phạm vi ứng dụng của một phát minh khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng.
Nó đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược khoa học và công nghệ với chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nói riêng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
* Sự hình thành và đặc điểm của nền kinh tế tri thức
- Khái niệm: Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác dụng to lớn tới sự phát triển là những ngành
dựa vào tri thức và những thành tựu mới của khoa học công nghệ.
- Điều kiện để một nền kinh tế trở thành nền kinh tế tri thức.
+ Đối với ngành: giá trị tạo ra của ngành chiếm tỷ lệ áp đảo (70%) trong tổng giá trị sản xuất của ngành
đó.
+ Đối với nền kinh tế: tổng các sản phẩm nền kinh tế tri thức chiếm 70% tổng GDP.
- Đặc điểm của nền kinh tế tri thức:
+ Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn duy nhất, là nguồn
lực quan trọng hàng đầu quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
+ Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng của các
ngành kinh tế dựa vào tri thức và các thành tựu mới nhất của KHCN ngày càng tăng và chiếm đa số.
+ Công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin
đa phương, bao phủ các nước.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
12
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
+ Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu
thường xuyên đối với mọi người. Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
+ Mọi hoạt động đều liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế.
* Vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Từ những đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thế giới, trong quá trình CNH, HĐH nhất
thiết phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới. Kết hợp quá trình "tuần
tự" với "đi tắt, đón đầu" nâng cao hàm lượng tri thức trong việc phát triển kinh tế - xã hội rút ngắn khoảng
cách về kinh tế, kỹ thuật so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nghị quyết Đại hội IX Đảng ta xác
định: “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian… tranh thủ
ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học..., từng
bước phát triển kinh tế tri thức” . Đại hội X chỉ rõ: “Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển nền kinh tế tri thức”. Đại hội XI tiếp tục khẳng định: "Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường".
Câu 40: Phân tích mục tiêu, quan điểm, nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế
quốc dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trả lời:
* Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
* Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức
và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa dạng hóa và đa phương hóa quan
hệ đối ngoại.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế Nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững,
tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội.
- Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kết hợp công nghệ truyền
thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định, cần và có thể rút
ngắn thời gian, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự
án đầu tư và công nghệ.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh.
* Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
- Thực hiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuấ.t
+ Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là quá trình biến lao động thủ công, lạc hậu thành
lao động sử dụng máy móc (lao động cơ khí). Đó là bước chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
13
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
sang nền kinh tế công nghiệp. Do đó, quá trình công nghiệp hóa tất yếu phải được tiến hành bằng cách
mạng khoa học công nghệ. Vì thế, phát triển khoa học công nghệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Nó được xác định như “quốc sách” và động lực để phát
triển nền kinh tế. Ở nước ta khi tiến hành cuộc cách mạng khoa học công nghệ phải đảm bảo hai nội dung
chủ yếu sau:
Một là, xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH để dựa vào đó mà trang bị công nghệ
hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân.
Hai là, tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của khoa học
công nghệ hiện đại vào sản xuất, đời sống với những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp.
+ Trong quá trình thực hiện cách mạng khoa học công nghệ, chúng ta cần chú ý những vấn đề cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, ứng dụng những thành tự mới, tiên tiến về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và từng bước phát triển nền kinh tế tri
thức.
Thứ hai, sử dụng công nghệ mới gắn liền với yêu cầu tạo việc làm, tốn ít vốn, quay vòng nhanh, giữ
được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ cũ, công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại.
Thứ ba, tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học và công nghệ; kết hợp phát
triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả.
Thứ tư, kết hợp các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, coi trọng
hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội.
+ Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế
là tổng thể các bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, có vị trí, tỷ trọng nhất định và quan hệ tương
tác phù hợp giữa các bộ phận trong hệ thống kinh tế quốc dân.
Nội dung của cơ cấu kinh tế bao gồm: cơ cấu ngành kinh tế (cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch
vụ); cơ cấu vùng (đồng bằng,trung du miền núi và tây nguyên, vùng biển, thành phố thị trấn, thị xã…); cơ
cấu thành phần kinh tế (cơ cấu nhiều thành phần). Trong đó, cơ cấu ngành là bộ phận có tầm quan trọng đặc
biệt, là “bộ xương” của cơ cấu kinh tế, nó quyết định các hình thức khác của cơ cấu kinh tế. Đảng ta đã xác
định “bộ xương” của cơ cấu kinh tế ở nước ta là “cơ cấu kinh tế công-nông-dịch vụ”.
Cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng, phát triển. Vì vậy, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại. Một cơ cấu kinh tế được gọi là tối ưu khi nó
đáp ứng được các đặc trưng:
Tính khách quan: phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế và xu
hướng vận động phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tính thời đại: phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão
trên thế giới.
Tính hiệu quả kinh tế-xã hội: cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các
thành phần, các xí nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Tính thị trường: thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng sản xuất và đời sống ngày
càng được quốc tế hoá.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là một quá trình, trải qua những chặng đường nhất định, do vậy xây dựng cơ
cấu kinh tế của chặng đường trước phải sao cho tạo được "đà" cho chặng đường sau và phải được bổ sung
và hoàn thiện dần trong quá trình phát triển thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế là làm thay đổi cấu trúc, tỷ trọng, tốc độ, chất lượng các mối quan hệ kinh tế của các ngành, các vùng và
các thành phần kinh tế nhằm đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tạo thế và lực mới cho tăng trưởng và
phát triển kinh tế-xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta cần phát triển theo xu hướng: cơ cấu ngành
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
14
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
chuyển dịch theo hướng công-nông-dịch vụ; cơ cấu vùng chuyển dịch theo hướng sớm hình thành các vùng
chuyên môn hóa, các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở các thị tứ, thị trấn, thị xã trên cơ sở phát
huy lợi thế so sánh giữa các khu vực, nhằm tăng sức cạnh tranh; cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo
hướng phát triển theo hướng các thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo; cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng
tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày
một tăng lên, tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng
lao động xã hội, tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ
tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
+ Phân công lại lao động xã hội.
Phân công lao động là sự phân chia, sắp xếp lại lao động cho các ngành, vùng, lĩnh vực kinh tế trong
nền kinh tế quốc dân nhằm tạo ra những quan hệ kinh tế mới, hiệu quả.
Tác dụng của phân công lao động xã hội là đòn bẩy cho sự phát triển của công nghệ tạo ra năng suất lao
động cao. Cùng với cách mạng khoa học kỹ thuật nó góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
Nguyên tắc thực hiện phân công lao động xã hội: Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm
dần, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày càng tăng. Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày càng tăng
và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội. Tốc độ tăng lao động trong ngành dịch
vụ tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
Phương hướng thực hiện phân công lao động xã hội ở nước ta: Triển khai thực hiện trên cả hai địa bàn
tại chỗ và nơi khác; phát triển chiều rộng kết hợp với chiều sâu. Ưu tiên địa bàn tại chỗ, khi luân chuyển
sang địa bàn mới cần có sự chuẩn bị chu đáo.
- Nội dung công nghiệp hóa trong những năm trước mắt:
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề
nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
+ Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
+ Phát triển kinh tế vùng.
+ Phát triển kinh tế biển.
Câu 41: Phân tích những tiền đề khách quan để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc
dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trả lời:
* Tạo vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Vốn là một trong những nhân tố quan trọng nhất để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bao gồm
cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ở bên ngoài. Trong đó, nguồn vốn trong nước là quyết định, còn
nguồn vốn bên ngoài là quan trọng.
- Nguồn vốn bên trong: nhân lực được tích lũy từ nhiều thế hệ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và
nhiều loại vốn hữu hình và vô hình khác. Phương thức huy động vốn thông qua quá trình đẩy mạnh sản
xuất, tăng năng suất lao động xã hội. Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động và tài nguyên. Phát
huy năng lực công nghệ hiện có. Khuyến khích tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí. Huy động và sử
dụng vốn có hiệu quả.
- Nguồn vốn bên ngoài: được huy động từ các nước trên thế giới dưới nhiều hình thức như vốn viện trợ
của các nước, các tổ chức kinh tế-xã hội, vốn vay ngắn hạn dài hạn, ODA, FDI,...Phương thức huy động
vốn thông qua việc đẩy mạnh mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế. Tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho
các nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế. Ở nước ta hiện nay,
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
15
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp, nên phải tận dụng và khai thác nguồn vốn bên ngoài. Tuy nhiên tạo
nguồn vốn phải gắn chặt với việc quản lý sử dụng tốt, có hiệu quả cao
* Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự cách mạng của quần chúng, lực lượng cán bộ KHCN,
khoa học quản lý và công nhân lành nghề đóng vai trò hết sức quan trọng. Muốn nâng cao sản xuất mà chỉ
có các phương tiện công nghệ thì chưa đủ, mà cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con
người để sử dụng những phương tiện đó. Do đó, trong quá trình CNH, HĐH đòi hỏi nguồn nhân lực đảm
bảo về số lượng và chất lượng. Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH, nhiệm vụ đặt ra là:
- Phải coi trọng con người và đặt con người vào trung tâm của sự phát triển.
- Coi việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển. Giáo
dục và Đào tạo phải thật sự trở thành "quốc sách hàng đầu".
- Phải có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguồn nhân lực.
- Bố trí, sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo, phát huy khả năng, sở trường của người lao
động để họ tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Có chế độ đãi ngộ đúng đắn, hợp lý.
* Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ theo yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Thực chất của CNH, HĐH là phát triển KHCN hay KHCN được xác định là động lực của CNH, HĐH.
Khoa học công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, CNH,
HĐH nói riêng.
- Là một nước quá độ lên CNXH từ một nền kinh tế kém phát triển nên tiềm lực KHCN nước ta còn
yếu. Xây dựng tiềm lực KHCN để tiến hành CNH, HĐH với tốc độ nhanh là một công việc vô cùng khó
khăn và lâu dài. Do đó trong giai đoạn trước mắt, việc xây dựng tiềm lực KHCN phải tập trung vào các
hướng sau:
+ Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng cơ sở khoa
học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chủ trương CNH, HĐH đạt hiệu quả với tốc độ nhanh.
+ Lựa chọn KHCN trọng điểm, coi trọng cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và
nhân văn
+ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học
+ Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển nền khoa học tiên tiến.
- Muốn làm được những việc trên cần phải xây dựng và thực hiện tốt cơ chế và chính sách đồng bộ cho
phát triển KHCN. Để KHCN trở thành động lực của sự phát triển thì trước hết phải tạo ra động lực cho sự
phát triển của chính bản thân KHCN.
* Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
- Mục đích của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là việc thu hút nhiều nguồn vốn bên ngoài, tiếp
thu nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện đại, mở rộng thị trường cho sự nghiệp CNH, HĐH được thuận lợi. Do
đó, mở cửa và hội nhập phải được coi là một giải pháp rất quan trọng và là điều kiện tiên quyết không thể
thiếu của CNH, HĐH ở nước ta.
- Việt Nam chủ trương muốn là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong các quan hệ kinh
tế quốc tế.
* Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước
Đây là một tiền đề quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta. CNH, HĐH là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH, là sự nghiệp của toàn dân. Nhưng sự nghiệp đó sẽ chỉ hoàn
thành tốt đẹp khi nó được Đảng lãnh đạo, quản lý của Nhà nước. Thắng lợi của Cách mạng Tám năm 1945,
của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 25 năm qua đã khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
CHƯƠNG X
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
16
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
KINH TẾ NÔNG THÔN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Câu 42: Kinh tế nông thôn là gì ? Vai trò của kinh tế nông thôn trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trả lời:
* Kinh tế nông thôn
- Khái niệm:
Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn. Nó là một phức hợp
những nhân tố cấu thành của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nông - lâm - ngư nghiệp, cùng
với các ngành tiểu - thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các ngành thương
nghiệp và dịch vụ...tất cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế vùng và lãnh thổ và trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
- Cơ cấu của kinh tế nông thôn:
+ Cơ cấu ngành nghề: Đa dạng hóa các loại ngành nghề.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế: Tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể đóng vai trò chủ đạo.
+ Cơ cấu trình độ: Vừa có trình độ hiện đại, quy mô lớn, vừa có trình độ thấp quy mô nhỏ và vừa.
+ Cơ cấu giai cấp, xã hội: Tồn tại nhiều giai cấp và có sự khác nhau giữa các giai cấp do đó còn nhiều
mâu thuẫn xã hội.
* Vai trò của kinh tế nông thôn
- Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ góp phần tạo ra những tiền đề quan trọng không thể thiếu bảo
đảm thắng lợi cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Kinh tế nông thôn phát triển mà trước hết là phát triển nông nghiệp sẽ là cơ sở tồn tại của xã hội thông
qua việc cung cấp lương thực, thực phẩm...
+ Kinh tế nông thôn phát triển sẽ cung cấp nguồn vốn, lao động cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Kinh tế nông thôn là nơi cung cấp nguyên, nhiên vật liệu, sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu.
+ Kinh tế nông thôn là thị trường quan trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ.
- Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ góp phần thực hiện có hiệu quả quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa tại chỗ.
+ Kinh tế nông thôn phát triển sẽ làm cho các hoạt động ở nông thôn như: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phân công lao động, công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, đô thị hóa nông thôn...sẽ đúng hướng và hiệu
quả hơn.
+ Các hoạt động đó gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp, nông thôn, nông dân làm cho vấn đề việc làm
được giải quyết, trên cơ sở đó tăng thu nhập, cải thiện từng bước đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng
lớp dân cư, giảm sự chênh lệch giữa thành thị với nông thôn.
- Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ góp phần to lớn trong việc bảo vệ và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái.
Nông thôn là một vùng rộng lớn chiếm đại bộ phận tài nguyên của đất nước. Phát triển kinh tế nông
thôn cho phép khai thác, sử dụng hợp lý và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái
một cách hiệu quả.
- Sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nông
thôn nói riêng và đất nước nói chung.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
17
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
Phát triển kinh tế nông thôn gắn liền với phát triển chính trị, xã hội, văn hóa.... theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Khi nông thôn đã có sự phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội sẽ tạo niềm tin cho nhân
dân bảo đảm sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hồ Chí Minh đã từng nói:
"Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân", có nghĩa muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải dựa
vào sức mạnh của nhân dân. Muốn phát huy sức mạnh của nhân dân phải làm cho dân tin, sự phát triển kinh
tế nông thôn chính là đảm bảo xây dựng, củng cố niềm tin đó.
Câu 43: Trình bày công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trả lời:
* Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại; gắn nông
nghiệp với công nghiệp và dịch vụ cho phép phát huy có hiệu quả cao mọi nguồn lực và lợi thế của nền
nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội
trong nông nghiệp, nông thôn; xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn mới giàu có, công
bằng, dân chủ, văn minh và xã hội chủ nghĩa.
* Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một tất yếu khách quan, bởi vì:
- Nông nghiệp, nông thôn có vị trí chiến lược và có vai trò to lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá
đất nước nhưng đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, lạc hậu, năng suất thấp.
- Nông thôn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác và khai thác chưa hiệu quả, vì vậy đẩy mạnh
phát triển nông nghiệp, nông thôn là giải pháp cơ bản để chuyển nền kinh tế công nghiệp lạc hậu thành
nền kinh tế có cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại.
- Thực trạng nông nghiệp nông thôn và đời sống nông dân còn nhiều điểm yếu kém gây trở ngại
cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, quan hệ sản xuất chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nền nông
nghiệp hàng hóa theo cơ chế mới đòi hỏi phải khắc phục giải quyết.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là giải pháp để giải quyết các vấn đề kinh
tế xã hội ở nông thôn.
* Quan điểm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
- Tạo ra nông nghiệp hàng hoá đa dạng.
- Nhằm khai thác nguyên liệu tại chỗ.
- Tạo ra sản phẩm có chất lượng cao để có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Phát triển kinh tế đô thị và các khu công nghiệp.
- Sử dụng các nguồn tài nguyên, đất, nước, rừng, biển.
- Cải tạo môi trường sinh thái ở nông thôn.
* Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Mục tiêu tổng quát, lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là xây dựng
một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp để tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm xoá đói giảm
nghèo, nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn, đưa nông thôn nước ta tiến
lên văn minh hiện đại.
* Bước đi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
18
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
- Giai đoạn từ 2001 đến năm 2010 sẽ đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta ra khỏi tình
trạng lạc hậu, xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết về cơ bản vấn đề việc làm ở nông thôn.
- Giai đoạn 2010 - 2020 sẽ hiện đại hóa nông nghiệp, để tăng năng suất lao động, làm ra sản phẩm
có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
* Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
- Phát triển nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng.
- Thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn bao gồm các nhiệm vụ: thuỷ lợi
hoá; cơ giới hoá; điện khí hoá; phát triển giao thông nông thôn; phát triển thông tin liên lạc; phát triển
văn hóa, giáo dục, y tế, bảo hiểm.
- Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn
- Phát triển các loại hình dịch vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn
- Chú trọng đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho nông dân và lao động ở nông thôn.
Câu 44: Phân tích nội dung phát triển kinh tế hàng hóa ở nông thôn với cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần.
Trả lời:
* Nội dung phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Kinh tế nông thôn có cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, với tính cách là công cụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nông thôn, các thành phần kinh tế phải vận động theo hướng: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và
cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng trong kinh tế nông thôn; kinh tế tư nhân cùng phát triển
trở thành nội lực xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Kinh tế nhà nước trong kinh tế nông thôn:
+ Kinh tế nhà nước trong kinh tế nông thôn tồn tại dưới các hình thức nông - lâm trường quốc doanh,
các trạm - trại kỹ thuật nông nghiệp, các cơ sở hạ tầng và các tổ chức kinh tế của nhà nước như chi nhánh
ngân hàng, kho bạc... gắn bó hữu cơ với kinh tế nông thôn.
+ Kinh tế nhà nước trong nông thôn trước đổi mới hoạt động mang tính bao cấp, kém hiệu quả, không
tương xứng với sự đầu tư của nhà nước. Sau đổi mới, kinh tế nhà nước trong nông thôn đã phát triển khá,
dần dần chuyển sang sản xuất kinh doanh tổng hợp, mở rộng phạm vi hoạt động và đa dạng hóa ngành
nghề. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, vai trò của kinh tế nhà nước trong nông thôn còn mờ nhạt, tác động
chưa mạnh đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
+ Trong những năm tới, để kinh tế nhà nước trong kinh tế nông thôn phát triển có hiệu quả, đảm bảo
được vai trò chủ đạo cần thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, đẩy nhanh việc sắp xếp và đổi mới quản lý, tăng cường tính độc lập tự chủ của các đơn vị
kinh tế nhà nước trong nông nghiệp, nông thôn; giảm dần và đi đến xóa bỏ bao cấp từ ngân sách đầu tư.
Mọi hoạt động kinh tế của các đơn vị phải theo đúng luật pháp hiện hành.
Thứ hai, quan tâm thích đáng lợi ích kinh tế của người lao động trên cơ sở họ được làm chủ thực sự
quyền sở hữu, quyền sử dụng tư liệu sản xuất trong phạm vi hợp pháp của mình.
Thứ ba, xác định quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của người lao động và các doanh nghiệp chủ yếu
làm dịch vụ đầu vào, đầu ra giúp cho các hộ gia đình, công ty, xí nghiệp...tự chủ sản xuất kinh doanh.
- Kinh tế tập thể trong kinh tế nông thôn:
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
19
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
+ Kinh tế tập thể trong kinh tế nông thôn mà nòng cốt là hợp tác xã hoạt động dựa trên cơ sở liên kết, tự
nguyện góp vốn, góp sức của những người lao động để sản xuất kinh doanh trong nông - lâm - ngư nghiệp
và các ngành nghề dịch vụ khác được sự hướng dẫn, hỗ trợ của nhà nước.
+ Kinh tế tập thể mà nhất là phong trào hợp tác hóa được phát triển ở nước ta từ những năm 60 của thế
kỷ XX đã có những thành tựu nhất định trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên,
mô hình hợp tác xã này chỉ phát huy tác dụng trong điều kiện chiến tranh còn khi chuyển sang hòa bình, nó
lại bộc lộ những yếu kém như: không công bằng mà cào bằng, chưa khuyến khích phát triển sản xuất và
khai thác các tiềm năng, lợi thế của nông nghiệp, nông thôn; chưa mạnh dạn xóa bỏ cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp; chưa đổi mới kịp thời việc tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm... Những hạn chế đó đã làm
cho kinh tế nông thôn phát triển chậm, hiệu quả thấp, không ổn định.
+ Từ năm 1996 đến nay, kinh tế tập thể trong kinh tế nông thôn mà nòng cốt là hợp tác xã đã chuyển đổi
sang mô hình hợp tác xã kiểu mới, ngày càng hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn. Hình thức hợp tác xã kiểu mới
tồn tại trong lĩnh vực dịch vụ hay sản xuất kinh doanh đều được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ, phát triển từ thấp đến cao với những hình thức tổ chức và phân phối
thích hợp.
- Kinh tế tư nhân trong kinh tế nông thôn:
+ Kinh tế tư nhân trong kinh tế nông thôn chủ yếu là kinh tế cá thể, tiểu chủ, còn kinh tế tư bản tư nhân
mới bắt đầu phát triển ở nông thôn và đang còn yếu. Kinh tế cá thể, tiểu chủ trong kinh tế nông thôn là kinh
tế hộ gia đình không tham gia hợp tác xã mà hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn, sức lao
động của bản thân, không bóc lột. Thành phần kinh tế này đang phát huy vai trò của nó trong việc khai thác
có hiệu quả các tiềm năng về đất đai, vốn, sức lao động và kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất góp phần
giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho một bộ phận dân cư. Nó là
lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng kinh tế của mình trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xu hướng phát triển chung hiện nay của kinh tế tư nhân trong kinh tế nông thôn là dần dần đi vào con
đường hợp tác xã kiểu mới với nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Đảng và nhà nước khuyến khích kinh tế
tư nhân trong kinh tế nông thôn phát triển có thể độc lập hoặc liên kết với các thành phần kinh tế khác để
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh trong nước và quốc tế trong điều kiện mở
cửa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
* Chính sách của Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân hiện nay
Để kinh tế nông thôn phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước cần
thực hiện các chính sách sau đây:
- Chính sách quy hoạch: Cần khảo sát, nghiên cứu, tính toán quy hoạch đất đai để có biện pháp bảo tồn,
lưu giữ quỹ đất nông nghiệp một cách hợp lý tránh tình trạng diện tích đất nông nghiệp giảm sút do quá
trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, đô thị hóa gây ra.
- Chính sách ruộng đất: Cần phân loại đất đai, thực hiện giao đất, giao rừng cho nông dân và phân định
rõ quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền thế chấp, quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng... nhằm làm cho
nông dân yên tâm bỏ vốn đầu tư vào khai thác, sử dụng đất đai hợp lý, hiệu quả.
- Chính sách đầu tư: Nhà nước cần đẩy mạnh quá trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho nông
nghiệp, nông thôn.
- Chính sách thuế: Nhà nước cần thực hiện chính sách thuế phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện tự
nhiên của nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, chính sách thuế còn phải phù hợp với các chính sách xã hội
trong nông nghiệp, nông thôn.
- Chính sách lao động và việc làm: Thực hiện phân công, bố trí lại cơ cấu lao động, dân cư trong nông
nghiệp, nông thôn một cách hợp lý.
- Chính sách khoa học và công nghệ: Cần tính tới các đặc điểm sản xuất nông nghiệp, phải xuất phát từ
nhu cầu của thị trường nông nghiệp, nông thôn. Nâng cao hiệu quả việc liên kết 4 nhà: nhà nước - nhà khoa
học - nhà doanh nghiệp - nhà nông.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
20
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
- Chính sách giá cả sản lượng: Cần qui định, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện giá trần, giá sàn
đối với nông sản phẩm. Khuyến khích xuất khẩu nông sản, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chính sách tín dụng: Tạo điều kiện cho nông dân vay vốn sản xuất kinh doanh. Nâng mức hạn định
vốn vay > 50 triệu đồng không cần thế chấp tài sản, thời gian trả nợ dài hạn ... Đồng thời, có biện pháp giúp
đỡ họ sử dụng vốn có hiệu quả.
- Chính sách an sinh xã hội: Thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách phát triển văn
hóa, giáo dục, y tế, bảo hiểm. Thực thi pháp luật nghiêm minh, thực hiện công bằng dân chủ ở nông thôn.
CHƯƠNG XI
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Câu 45: Thế nào là kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ? Phân tích sự cần thiết khách quan của
việc phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Trả lời:
*Khái niệm kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà trong đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị
trường dưới hình thái hàng hóa và tiền tệ thông qua trao đổi mua bán.
- Quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế
thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất.
- Kinh tế hàng hóa phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, chịu sự tác động của
những quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy, kinh tế hàng
hóa không phải là sản phẩm riêng của một chế độ kinh tế - xã hội nào mà nó là sản phẩm của quá trình phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội loài người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất xã
hội.
- Kinh tế thị trường phát triển qua hai giai đoạn:
+ Kinh tế thị trường tự do: tồn tại trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế tự do cạnh tranh, chưa có
sự điều tiết của nhà nước.
+ Kinh tế thị trường hỗn hợp (kinh tế thị trường hiện đại): kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước.
- Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là mọi quan hệ trao đổi, mua bán đều dựa trên cơ sở giá cả do
thị trường quyết định.
* Sự cần thiết khách quan của việc phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ở Việt Nam
Kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành
tựu phát triển kinh tế của nền văn minh nhân loại; nó tồn tại khách quan không đối lập với chủ nghĩa xã hội
mà còn cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị
trường ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
- Xét về mặt lý luận:
+ Ở nước ta, những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hóa (2 điều kiện: phân
công lao động xã hội và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế biểu hiện ở các hình thức sở hữu khác nhau về
tư liệu sản xuất) vẫn còn cho nên sự tồn tại kinh tế hàng hóa là một tất yếu khách quan.
+ Ở nước ta, trong nền kinh tế nhiều thành phần ngay cả thành phần kinh tế nhà nước cũng cần đến quan
hệ hàng hóa - tiền tệ để giải quyết các vấn đề kinh tế nên sự tồn tại kinh tế hàng hóa là tất yếu.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
21
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
+ Ở nước ta, do yêu cầu của việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
riêng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế hàng hóa là tất yếu vì nó là hình thức tổ
chức kinh tế tạo ra động lực và khả năng để khai thác các tiềm lực của đất nước một cách có hiệu quả nhất,
tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
- Xét về mặt thực tiễn:
Kinh nghiệm hàng chục năm ở nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây (Liên Xô cũ, Đông Âu)
về sự tồn tại của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp (mô hình kinh tế do nhà nước chỉ huy) mà
thực chất là xóa bỏ kinh tế hàng hóa đã cho thấy: Mặc dù có nhiều thành tựu to lớn (nhất là trong điều kiện
có chiến tranh) song mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp (trong điều kiện hòa bình) đã không
còn phát huy tác dụng cần phải chuyển sang mô hình kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
* Lợi ích của việc phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường
Mục tiêu của việc phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là giải phóng năng lực sản xuất, thực
hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Thực hiện mục tiêu đó, phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ở nước ta sẽ
có những lợi ích:
- Phát triển kinh tế thị trường sẽ phá vỡ cơ cấu kinh tế tự nhiên chuyển thành kinh tế hàng hoá, thúc đẩy
xã hội hoá sản xuất .
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Kích thích tính năng động sáng tạo của các chủ thể kinh tế.
- Kích thích việc nâng cao chất lượng cải tiến mẫu mã cũng như tăng số lượng hàng hoá dịch vụ.
- Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất.
- Thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, một nhiệm vụ cấp bách
để chuyển một nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác
quốc tế. Kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường không đối lập với các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội mà trái lại thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh mẽ hơn. Đảng Cộng sản Nhật
Bản cho rằng: Quá trình tìm tòi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế thị trường ở Việt Nam và
Trung Quốc đang trở thành một hướng đi quan trọng của thế kỷ XXI.
Câu 46: Phân tích đặc điểm kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Trả lời:
* Nền kinh tế thị trường đang hình thành và phát triển
Trải qua 25 năm đổi mới đất nước, thực hiện phát triển kinh tế thị trường, nếu so với lịch sử phát triển
của dân tộc thì chưa phải là dài do đó nền kinh tế thị trường ở nước ta đang còn ở tình trạng thấp kém, biểu
hiện:
- Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai.
- Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành chưa đồng bộ.
- Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường nhưng lại có sự khác biệt nhau về mục đích, lợi ích, trình
độ... nên vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn.
- Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị
trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế kỹ thuật của nước ta thấp xa với hầu
hết các nước khác.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
22
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
- Quản lý nhà nước về kinh tế-xã hội còn yếu. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán,
chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi.
* Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo
- Do nền kinh tế nước ta, lực lượng sản xuất nhiều trình độ phát triển khác nhau, điều đó tất yếu tồn tại
nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Tương ứng với mỗi hình thức sản xuất tư liệu sản xuất là một thành
phần kinh tế. Vì vậy nền kinh tế nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
- Mỗi thành phần kinh tế có bản chất kinh tế khác nhau, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khác
nhau, do đó bên cạnh tính thống nhất của các thành phần kinh tế chúng còn khác nhau và mâu thuẫn khiến
cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau.
- Vì vậy một mặt khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế,
Nhà nước phải sử dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn và hạn chế những tiêu cực,những khuynh hướng tự
phát, hướng sự phát triển của các thành phần kinh tế này theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ cấu kinh tế "mở"
- Trong điều kiện hiện nay, do tác động của cuộc cách mạng KHCN thế giới đã thúc đẩy quá trình khu
vực hóa, toàn cầu hóa về kinh tế. Vì vậy mở cửa hội nhập là tất yếu đối với nước ta. Đại hội X của Đảng đã
xác định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển”. Đại hội XI của Đảng phát triển chủ trương "là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế" lên thành "là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế". "Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và
những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển". So với Đại hội VIII, IX, X, Đại hội XI có sự bổ sung quan hệ với "những đảng khác". Sở
dĩ như vậy là vì trên thực tế trong nhiều năm qua chúng ta đã có quan hệ với một số đảng khác trên cơ sở
bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
- Nước ta thực hiện mở cửa, hội nhập theo hướng:
+ Đa dạng hóa, đa phương hóa kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
+ Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế-xã hội,
thực hiện công cuộc CNH, HĐH theo định hướng XHCN. Tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
phát huy tính tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
* Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước
- Cơ chế thị trường có những mặt tích cực, nhưng cũng có mặt hạn chế. Và để giảm thiểu những hạn chế
của cơ chế thị trường đòi hỏi phải có vai trò quản lý kinh tế của nhà nước
- Nhà nước quản lý nền kinh tế cũng có những hạn chế như: Nhận thức không đúng bản chất các quá
trình kinh tế nên có thể đưa ra những quyết định sai lầm, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, bản thân nhà
nước quản lý nên nền kinh tế có thể dẫn đến độc quyền. Vì vậy cơ chế vận hành nền kinh tế đòi hỏi phải có
sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và vai trò quản lý kinh tế của nhà nước.
- Sự khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nhà nước ta là: nhà nước quản lý nền kinh tế là nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Câu 47: Phân tích các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trả lời:
• Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
23
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
- Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân
theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và
các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: Phát triển LLSX phù hợp với QHSX nhằm
thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Về sở hữu: tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước đóng
vai trò chủ đạo.
+ Về quản lý: có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước XHCN.
+ Về phân phối: đa dạng hóa các hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo lao động và hiệu quả
kinh tế làm chủ yếu.
- Thứ hai, định hướng xã hội chủ nghĩa là thuật ngữ dùng để chỉ mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
cần đạt đến cùng những phương hướng cơ bản để từng bước tiến tới mục tiêu đó. Định hướng xã hội chủ
nghĩa chỉ dùng trong điều kiện giai cấp công nhân đã giành được chính quyền và đang tổ chức xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Định hướng là nhấn mạnh đến vai trò của nhân tố chủ quan tác động đến quá trình phát triển
khách quan.
+ Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải
đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
làm cho chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của
nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất
nước.
- Phương hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
+ Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ
chế thi trường có sự quản lý của nhà nước.
+ Xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
+ Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động.
Thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt cả nước và với thị trường thế giới.
+ Xác định quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của
Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh tế của mình.
+ Đổi mới và nâng cao hiệu lực hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước.
+ Qua hơn 25 năm đổi mới, chúng ta đã từng bước làm rõ những nội dung cơ bản của định hướng xã hội
chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta qua các kỳ Đại hội VIII, IX, X của Đảng. Kế thừa nhận thức và
kết quả thực tiễn đạt được qua các kỳ đại hội, Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: "Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình
thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối". Tiếp tục khẳng định việc phân định rõ quyền của người
sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế,
bảo đảm cho mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về kết quả kinh của mình. Đại hội XI còn nhấn mạnh thêm một số luận điểm như:
Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân
theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng hệ
thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.
* Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ, coi đó là một trong
những điều kiện để thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Cùng với việc đổi mới, sắp xếp, củng cố kinh
tế nhà nước và tập thể, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các
thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật.
- Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường.
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
24
HỌC PHẦN MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊ NIN
Phân công lại lao động, bố trí lại dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương nhằm xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Hình thành đồng bộ các loại thị trường, xây dựng và phát triển thị trường hướng
ngoại, thị trường truyền thống, thị trường mới, hàng hóa mũi nhọn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh tương
đối.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Đẩy mạnh CNH, HĐH nhanh chóng xây dựng tiềm lực KHCN. Kết hợp nghiên cứu, thử nghiệm và
chuyển giao để ứng dụng vào sản xuất và đời sống, nâng cao hiệu quả hoạt động của KHCN.
- Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ,
giá cả
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động để giữ vững định hướng XHCN. Nhà nước cần hạn chế sự can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế mà làm
tốt chức năng tạo môi trường dẫn dắt, hỗ trợ, kiểm tra giám sát các hoạt động kinh tế. Xây dựng hệ thống
pháp luật, nhất là luật kinh tế đầy đủ, đồng bộ và thực hành nghiêm minh.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các
nhà kinh doanh giỏi.
Nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh ở cả tầm vĩ mô và vi mô có
năng lực chuyên môn giỏi, thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trường, dám chịu trách nhiệm, có phẩm chất đạo
đức, trung thành với lý tưởng CNXH. Kết hợp với chính sách đào tạo cần có chính sách đãi ngộ cán bộ
đúng đắn.
- Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện đa dạng hóa hình thức, đa phương hóa đối tác quan hệ kinh tế đối ngoại. Quán triệt nguyên
tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Sẵn sàng là bạn, đối tác tin
cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Câu 48: Phân tích vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.
Trả lời:
* Sự cần thiết chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam
- Trước đổi mới, chúng ta thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp hay còn gọi là mô
hình "kinh tế chỉ huy". Đặc trưng của mô hình kinh tế này là:
+ Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh, chỉ tiêu pháp lệnh triển khai từ trên xuống.
+ Cơ quan quản lý hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh
tế. Lãi doanh nghiệp thu được nộp cho nhà nước, còn lỗ thì ngân sách nhà nước bù.
+ Coi thường quan hệ hàng hoá-tiền tệ. Hạch toán kinh tế là hình thức, Nhà nước quản lý theo kế hoạch
bằng chế độ cấp sách và giao nộp ngân sách.
+ Bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian, kém năng động, cán bộ quản lý quan liêu, năng
lực kém.
Với mô hình kinh tế trên đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, vì nó đã thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm
sự tiến bộ khoa học-kỹ thuật. Do đó, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới kinh tế và chuyển sang phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa..
- Đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế thị trường là sự điều tiết của cơ chế thị trường.
+ Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế do sự tác động của các quy luật vốn có của
nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều
Nguyễn Quang Giàu – Chính Trị 3A – Trường Đại học Sư phạm Huế
25