Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Vận dụng những nội dung của chính sách kinh tế mới (nep) vào đường lối đổi mới của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.56 KB, 12 trang )

Những nội dung cơ bản của tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”
CHỦ ĐỀ THẢO LUẬN:
VẬN DỤNG NHỮNG NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH KINH TẾ
MỚI (NEP) VÀO ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
1. Hoàn cảnh ra đời và khái quát về tác phẩm
1.1. Hoàn cảnh ra đời
+ Phân tích tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước Nga thời kỳ đầu những năm
1920 – Thời kỳ nước Cộng hòa Xô Viết non trẻ chuyển từ giai đoạn chiến tranh sang
hòa bình và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Lênin nhận định rằng, nước Nga
đang vấp phải một cuộc khủng hoảng rất lớn. Cuộc khủng hoảng này biểu hiện trực
tiếp trên tất cả các lĩnh vực kinh tế chính trị, xã hội của nước Nga thời bấy giờ. Người
đặc biệt nhấn mạnh mức độ trầm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế nông dân và cho
rằng đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự thay đổi chính sách của Đảng, từ chính
sách "Cộng sản thời chiến" sang "Chính sách kinh tế mới".
+ Theo Lênin, vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là phải phân tích đúng các
nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, để có biện pháp khắc phục trước mắt cũng như lâu
dài nhằm xây dựng thắng lợi nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa. Lênin cho rằng, cuộc
khủng hoảng này là kết quả của quá trình tiếp tục và làm gay gắt thêm những mâu
thuẩn vốn có của đất nước; bao gồm các lý do sau:
− Thực trạng nền kinh tế đất nước Nga sau chiến tranh không chỉ phát triển
chưa cao, mất cân đối, mà còn bị tàn phá và khủng hoảng trầm trọng, đang ở thế
“ngàn cân treo sợi tóc”.
− Các thế lực đế quốc, phản động trong và ngoài nước luôn tìm cách phá
hoại, chống đối kịch liệt chính quyền Xô viết non trẻ nhằm tiêu diệt xu gướng phát
triển của Chủ nghĩa xã hội.
− Chính sách "Cộng sản thời chiến", phục vụ mục tiêu giành chính quyền,
đã hoàn thành vai trò lịch sử và đã bộc lộ những chỗ yếu, bất hợp lý, không kịp
thời thay đổi sẽ dẫn đến sự bất bình của quần chúng lao động.
− Bản thân Đảng cộng sản Nga còn nhiều mặt yếu kém: nội bộ Đảng, cán
bộ tồn tại nhiều khuyết điểm, đặc biệt là yếu kém trong lãnh đạo kinh tế.


+ Đứng trước tình hình ấy, Lênin quyết định phải tiến hành cải cách kinh tế để
cứu nước Nga vượt qua bờ vực thẳm của sự sụp đổ.
1


+ Tháng 3/1921 căn cứ vào báo cáo của Lênin tại Đại hội lần thứ X Đảng cộng
sản (B) Nga, Nghị quyết về những chính sách kinh tế mới đã được thông qua thay thế
hàng loạt chính sách kinh tế đã lỗi thời, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Trong hoàn
cảnh như vậy, tác phẩm “Bàn về thuế lương thực” hay còn có tên “Ý nghĩa của chính
sách kinh tế mới và những điều kiện của chính sách ấy” của V.I.Lênin đã ra đời.
1.2. Khái quát về tác phẩm
+ "Bàn về thuế lương thực" được viết xong ngày 21-04-1921 và in thành sách
nhỏ, chẳng bao lâu được đăng trong số 1 của Tạp chí “Đất vỡ hoang đỏ”. Sau này tác
phẩm được tái bản nhiều lần ở nhiều thành phố của đất nước và được dịch sang tiếng
Đức, Anh, Pháp.
+ "Bàn về thuế lương thực" là một đóng góp to lớn của Lênin vào việc vạch kế
hoạch xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm, phù hợp với Nghị quyết Đại hội X
của Đảng cộng sản (B) Nga, Lênin đã luận chứng sâu sắc tính tất yếu phải chuyển sang
chính sách kinh tế mới , thực chất và nội dung của chính sách kinh tế mới.
+ Khi nghiên cứu kinh tế chính trị về Chủ nghĩa xã hội, những vấn đề cần chú ý
trong tác phẩm là: Nền kinh tế thời kỳ quá độ, bản chất của chính sách kinh tế mới và
vai trò của Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ. Hiện tác phẩm "Bàn về
thuế lương thực" được in trong V.I.Lênin, toàn tập, tập 3, NXB.M.1978, tr:244-296.
2. Những nội dung cơ bản của tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”
2.1. Về nền kinh tế hiện nay của nước Nga
2.1.1. Nền kinh tế thời kỳ quá độ
Lênin đã dành phần mở đầu “Về nền kinh tế hiện nay của nước Nga” để trích
đoạn cuốn sách nhỏ mang tên “Nhiệm vụ chủ yếu của thời đại chúng ta – bệnh ấu trĩ
“tả khuynh” và tính tiểu tư sản” mà Người viết năm 1918. Bằng cách trình bày như
vậy, Lênin muốn một lần nữa làm sáng tỏ đặc điểm của thời kỳ quá độ và khẳng định

tính tất yếu phải dứt khoát chuyển sang chính sách kinh tế mới của Đảng.
+ Khi xác định tính chất của nền kinh tế thời kỳ quá độ, Lênin giải thích rằng:
Danh từ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết” vào thời kỳ ấy “có ý nghĩa là
chính quyền Xô Viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên Chủ nghĩa xã hội, chứ hoàn
toàn không có ý nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế hiện nay là chế độ Xã hội chủ
nghĩa”. Và đứng trên ý nghĩa, vật chất, kinh tế, sản xuất mà xét thì chúng ta còn chưa
tiến đến “phòng chờ” của Chủ nghĩa xã hội, và nếu không đi qua “phòng chờ” mà
chúng ta chưa đạt tới ấy thì ta không thể vào cửa Chủ nghĩa xã hội được”.
+ Đồng thời, Lênin đã nêu lên 5 thành phần kinh tế của nước Nga lúc đó là: 1.
Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; 2. Sản xuất hàng hóa nhỏ; 3. Chủ nghĩa tư bản tư
nhân; 4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước; 5. Chủ nghĩa xã hội. Năm thành phần kinh tế này

2


đan xen, quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên tính đa dạng phức tạp của nền kinh tế thời
kỳ quá độ.
+
Mặt khác, tình hình kinh tế của đất nước vào mùa xuân năm 1921 cũng
khác nhiều so với mùa xuân 1918. Nền kinh tế quốc dân bị cuộc chiến tranh can thiệp
và nội chiến tàn phá thêm, việc quốc hữu hóa được tiến hành vào những năm đó đã
làm thay đổi tương quan giữa các thành phần kinh tế. Thành phần Xã hội chủ nghĩa
vẫn đóng vai trò chủ đạo, những khối lượng sản phẩm công nghiệp đã giảm nhiều. tỷ
trọng của thành phần kinh tế Tư bản chủ nghĩa tư nhân giảm hẳn. Thành phần kinh tế
sản xuất hàng hóa nhỏ vẫn chiếm ưu thế, còn nông nghiệp cũng lâm vào tình trạng khó
khăn.
+ Lênin cho rằng: “Trong một nước tiểu nông thì tính tự phát tiểu tư sản chiếm ưu
thế và không thể không chiếm ưu thế”. Cuộc đấu tranh gay gắt giữa các thành phần
kinh tế lúc này “không phải là Chủ nghĩa tư bản nhà nước đấu tranh chống Chủ nghĩa
xã hội mà là giai cấp tiểu tư sản cùng với Chủ nghĩa tư bản đấu tranh chống lại cả Chủ

nghĩa tư bản nhà nước lẫn Chủ nghĩa xã hội”. Theo Lênin, nền kinh tế sản xuất hàng
hóa nhỏ, mà bản chất là tự phát lên Chủ nghĩa xã hội, thật ặ là một nguy cơ. Lênin viết
“Hoặc là chúng ta làm cho người tiểu tư sản ấy phục tùng sự kiểm soát và kiểm kê của
chúng ta.., hoặc là để cho những người tiểu tư sản ấy lật đổ chính quyền công nhân của
chúng ta một cách không khỏi và tất nhiên” (trang 256).
+ Lênin còn nhấn mạnh rằng “con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội phải trải qua sự
kiểm kê và kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm” (trang
254).
+ Nói đến trình độ sản xuất trong nước, tình trạng lạc hậu của nước Nga so với
các nước tư bản phát triển trên cả nghĩa vật chất, kinh tế, sản xuất và văn hóa, Lênin
viết: Hãy xem bản đồ nước Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Nga. Ở
phía bắc Vô-lô-gda, phía Đông Nam Rô-xtốp, trên sông Đôn và Xa-ra-tốp, phía Nam
Ô-ren-bua và Ôm-xcơ, phía Bắc Tôm-xcơ có những vùng đất rộng lớn mênh mông, ở
đó sẽ có thể chứa được hàng chục nước văn minh và rộng lớn. Nhưng trên tất cả những
vùng mênh mông ấy, còn thịnh hành những phong tục gia trưởng, tình trạng nửa dã
man và cả tình trạng dã man nữa”.
+ Hơn nữa, trong cuộc nội chiến giai cấp công nhân đã bị mất nhiều đại biểu của
mình, nhiều công nhân phải về nông thôn tìm kiếm lúa mì. Điều đó làm suy yếu cơ sở
giai cấp của chuyên chính vô sản. Trung nông, tầng lớp chủ yếu của nông thôn, không
hài lòng với việc trưng thu lương thực thừa. Những kẻ thù của chính quyền Xô viết lợi
dụng tình trạng đó, ở nhiều tỉnh, bọn nông phú nổi dậy. Vào tháng 3-1921, bọn phản
cách mạng và bọn Men-se-vich được giai cấp tư sản quốc tế ủng hộ, đã gây ra vụ
3


Crôn-stát. Tình hình đó đòi hỏi chính quyền Xô viết phải có những biện pháp kiên
quyết và tức thời, làm thay đổi về căn bản chính sách kinh tế của Đảng, trước hết là
chính sách lương thực.
2.1.2. Bản chất của chính sách kinh tế mới
+ Chính sách “Cộng sản thời chiến”, một biện pháp bắt buộc trong hoàn cảnh

chiến tranh và kinh tế bị tàn phá, đã được tiến hành trong những năm 1918-1920 nhằm
động viên mọi lực lượng và nguồn vật chất phục vụ việc đánh thắng bọn can thiệp và
bọn bạch vệ. Chính sách đó bao gồm việc trưng thu lương thực thừa, tức là lấy của
nông dân toàn bộ phần lương thực và nguyên liệu thừa; thi hành chế độ nghĩa vụ lao
động toàn dân, đặc biệt là đối với các phần tử tư sản; cấm tư nhân buôn bán có nguy
cơ phá hoại việc cung cấp lương thực cho bộ đội và nguyên liệu cho công nghiệp.
Chính sách đó đi kèm với việc tự nhiên hóa nền kinh tế mà cụ thể là phần lớn sản
phẩm xã hội được tập trung vào tay nhà nước không trả tiền, do đó thu hẹp sự lưu
thông hàng hóa và hạ thấp vai trò của tiền tệ.
+ Lênin đánh giá chính sách "Cộng sản thời chiến" là chính sách duy nhất có thể
thực hiện trong hoàn cảnh chiến tranh và nền kinh tế bị tàn phá, chính sách đó đã cứu
nền chuyên chính vô sản, rằng “đó là thành tích của chúng ta” (trang 265).
+ Bên cạnh đó, Lênin cũng nhận định rằng chính sách "Cộng sản thời chiến" là
một biện pháp tạm thời, “Nó không phải và không thể là một chính sách phù hợp với
nhiệm vụ của giai cấp vô sản…Đối với giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chuyên
chính của mình trong một nước tiểu nông, thì chính sách đúng đắn là phải tổ chức
việc trao đổi sản phẩm công nghiệp cần thiết cho nông dân, để lấy lúa mỳ của nông
dân. Chỉ có chính sách lương thực ấy mới phù hợp nhiệm vụ của giai cấp vo sản, chỉ
có chính sách đó mới có thể củng cố được cơ sở của Chủ nghĩa xã hội và đưa Chủ
nghĩa xã hội đến thắng lợi hoàn toàn (trang 265).
+ "Cộng sản thời chiến" đòi hỏi phải thay thế việc trưng thu lương thực thừa bằng
chế độ thuế lương thực. Hơn nữa, tổng khối lượng thuế lương thực trong nước đã được
quy định ở mức tối thiểu để đảm bảo cho quân đội, công nhân, và thấp hơn mức trưng
thu lương thực thừa theo ý muốn. Đối với các tỉnh, thuế suất không giống nhau tùy
theo năng suất thu hoạch và ruộng đất, còn đối với các hộ thì có tính đến tình hình
kinh tế - xã hội của các gia đình nông dân. Mặt khác, nhay từ mùa xuân, nông dân đã
được giao mức thuế phải nộp. Tất cả những điều đó tạo nên động lực thúc đẩy kinh tế
nông dân phát triển, làm cho nông dân quan tâm mở rộng sản xuất để có sản phẩm
nông nghiệp thừa đổi lấy hàng công nghiệp. Cũng thông qua đó người nông dân góp
phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển.

+ Như vậy chính sách kinh tế mới đã sử dụng các quan hệ hàng hóa tiền tệ phục
vụ cho lợi ích của công cuộc xây dựng cơ sở kinh tế Xã hội chủ nghĩa. Lênin đã gắn
4


liền các quan hệ hàng hóa – tiền tệ với sự tồn tại của hàng triệu người sản xuất hàng
hóa nhỏ. “Khi những người tiểu chủ chiếm ưu thế và sự trao đổi có thể và cần phải có,
thì không thể nào khác thế được…Nhắm mắt trước sự thật hiển nhiên ấy là có tội”
+ Mặt khác, hiểu rõ rằng nền kinh tế hàng hóa nhỏ phát triển đẻ ra Chủ nghĩa tư
bản, còn tự do buôn bán lại thúc đẩy quá trình đó, Lênin vẫn tích cực choonga lại
những mưu toan ngăn cấm buôn bán. Người chứng minh rằng trong điều kiện của m,ột
nền kinh tế nhiều thành phần, một chính sách như vậy sẽ không tránh khỏi thất bại.
Phát biểu tại Đại hội X Đảng cộng sản Nga, Lênin nhấn mạnh “Chính sự trao đổi đó là
sự khuyến khích, kích thích thúc đẩy đối với nông dân…thúc đẩy hoạt động kinh
doanh của anh ta”. Đối với việc buôn bán, “chính đáng”, tức là buôn bán không tìm
cách trốn tránh sự kiểm soát của nhà nước thì chúng ta ủng hộ nó, chúng ta có lợi
trong việc phát triển nó” (trang 285).
+ Lênin biết rằng, tự do buôn bán sẽ kích thích nạn đầu cơ, và Người đã ngừa
trước cái nguy cơ đe dọa công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội đó. Người viết: “Hàng
triệu vòi của con thuồng luồng tiểu tư sản ấy đang quấn lấy một số tầng lớp của công
nhân ở chỗ này ở chỗ nọ…, nạn đầu cơ đang chui vào mọi chân lông, kẽ tóc của đời
sống kinh tế - xã hội nước ta, chứ không phải độc quyền nhà nước” (trang 250, 265).
+ Vì vậy, Lênin đòi hỏi phải có kỷ luật trật tự hơn nữa để đập tan nạn đầu cơ.
Người nhấn mạnh “Phải duyệt lại và sửa đổi tất cả các luật lệ về đầu cơ, phải tuyên bố
rằng mọi hành vi ăn cắp, mọi mưu toan…lẩn tránh sự kiểm tra, sự giám sát, sự kiểm
kê của nhà nước đều bị trừng phạt” (trang 285).
+ Lênin giải thích cho những người cộng sản rằng, trong hoàn cảnh chính quyền
tập trung trong tay giai cấp công nhân và những mạch máu kinh tế nằm trong ta nhà
nước Xã hội chủ nghĩa, thì không nên sợ tự do buôn bán và thị trường tự do sẽ dẫn đến
chỗ phục hồi Chủ nghĩa tư bản. Phải hướng sự phát triển tất yếu của các quan hệ tư

bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đi vào con đường Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
+ Như vậy, chính sách kinh tế mới nhằm cải thiện tình cảnh người lao động,
củng cố khối liên minh công – nông và nền chuyên chính vô sản, “củng cố..cơ sở của
Xã hội chủ nghĩa và đưa Chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi hoàn toàn” (trang 265”.
+ Đối với nước Nga lúc bấy giờ, Lênin nhấn mạnh, “Chúng ta không thể phục hồi
ngay lập tức được nền đại sản xuất công nghiệp Xã hội chủ nghĩa nhà nước” (trang
265). Vì thiếu những nguồn tài nguyên cần thiết. Cần bắt đầu công cuộc khôi phục từ
chỗ đẩy mạnh nền kinh tế nông dân và tiểu công nghiệp”.
+ Trong tác phẩm những tư tưởng của Lênin về cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội
Xã hội chủ nghĩa trong tương lai có giá trị to lớn về mặt lý luận.
+ Trong diễn văn bế mạc Đại hội X Đảng cộng sản (B) Nga, Lênin nói, nền đại
công nghiệp “Là cơ sở của bước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và xét về mặt tình honhf
5


lực lượng sản xuất, tức là xét về tiêu chuẩn cơ bản của toàn bộ sự phát triển của xã hội,
là cơ sở của tổ chức kinh tế Xã hội chủ nghĩa và thống nhất giai cấp công nhân để thực
hiện nền chuyên chính vô sản.
+ Trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”, Lênin viết: “Không có kỹ thuật hiện
đại Tư bản chủ nghĩa được xây sựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện
đại, không có một tổ chức nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải
tuân theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất tronbg công việc sản xuất và
phân phối sản phẩm, thì không thể nói đén Chủ nghĩa xã hội được” (trang 253).
2.1.3. Vai trò của Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội
+ Trong tác phẩm này Lênin dành một phần quan trọng để nói về Chủ nghĩa tư
bản nhà nước trong nền kinh tế thời kỳ quá độ. Từ việc phân tích đặc điểm của nền
kinh tế nhiều thành phần của nước Nga lúc đó, Lênin không loại trừ khả năng có thể
tiến hành những hình thức hòa bình cải tạo Xã hội chủ nghĩa, những biện pháp nhân
nhượng và thậm chí trong những điều kiện nhất định, chuộc lại tư liệu sản xuất từ tay

giai cấp tư sản.
+ Theo Lênin Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hình thức kinh tế thấp hơn Chủ
nghĩa xã hội nhưng cao hơn Chủ nghĩa tư bản tư doanh và nền sản xuất nhỏ. Người
viết: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện
nay của nước ta”, “Chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là một bước tiến so với tình hình
hiện nay trong nước Công hòa Xô viết của chúng ta” (trang 242).
+ Lênin kết luận, Chủ nghĩa tư bản nhà nước “là một hình thức đấu tranh, là sự
tiếp tục của đấu tranh giai cấp dưới một hình thức khác, tuyệt nhiên không phải là sự
thay thế đấu tranh giai cấp bằng hòa bình giai cấp. Thực tiễn sẽ chỉ rõ những phương
thức đấu tranh” (trang 279).
+ Đồng thời, Chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự hiện diện của những mối quan hệ
hợp đồng chặt chẽ giữa nhà nước Xã hội chủ nghĩa và nhà tư bản, nó giúp cho việc
chuyển nền kinh tế nhỏ, phân tán và thô sơ, lên một nền kinh tế lớn, được tổ chức một
cách mẫu mực, giúp xây dựng các xí nghiệp có kỹ thuật hiện đại trong các ngành có ý
nghĩa quyết định của nền kinh tế.
+ Chủ nghĩa tư bản nhà nước là phương tiện quan trọng để nâng cao lực lượng
sản xuất phát triển sản xuất. Lênin viết: “Khi thu nhập” Chủ nghĩa tư bản nhà
nước..chính quyền Xô Viết tăng cường được nền đại sản xuất đối lập với nền tiểu sản
xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hóa
đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm số sản phẩm mà nó thu được của đại
công nghiệp (phần chia cho nó), củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước
điều chỉnh đối lập với những quan hệ tiểu tư sản vô chính phủ (tr 269-270)
6


+ Mặt khác, Lênin nhấn mạnh rằng, về mặt chính trị, Chủ nghĩa tư bản nhà nước
“không đáng sợ mà đáng mong đợi” đối với chính quyền Xô Viết, vì chính quyền nhà
nước nằm trong tay công nông, và trong khuôn khổ phát triển của Chủ nghĩa tư bản
nhà đã quy định khá nhỏ hẹp. Đó là Chủ nghĩa tư bản được nhà nước vô sản cho phép
phát triển chỉ đến mức cần thiết và bị đặt dưới sự kiểm soát của những người công

nhân và nông dân đã dành được chính quyền.
+ Lênin không những chỉ rõ tính tất yếu khách quan của sự tồn tại các quan hệ Tư
bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, mà còn đề ra nhiệm vụ phải hướng sự phát triển
của chúng vào con đường Chủ nghĩa tư bản nhà nước. Bản thân sự phát triển của Chủ
nghĩa tư bản nhà nước được xem không phải là mục đích tự thân, không phải một
chính sách vĩnh cữu, không phải là lơig kêu gọi hòa bình giai cấp, mà là một biện pháp
biến các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thành các xí nghiệp Xã hội chủ nghĩa.
+ Trong tác phẩm này, Lênin đã nêu lên một số hình thức cơ bản của Chủ nghĩa
tư bản nhà nước, đó là:
- Tô nhượng, theo Lênin tô nhượng “Đó là một giao kèo, một sự liên kết,
một liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô Viết, nghĩa là nhà nước vô sản với
Chủ nghĩa tư bản nhà nước, chống lại thế lực tự phát tiểu tư sản. Người nhận tô
nhượng là nhà tư bản. Họ kinh doanh theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
để lấy lợi nhuận; đồng ý thỏa thuận với chính quyền để cốt thu được lợi nhuận bất
thường, lợi nhuận siêu ngạch hoặc để có các loại nguyên liệu mà họ không thể
hoặc rất khó tìm được bằng cách khác” (trang 269).
- Hợp tác xã, Lênin viết: “Các hợp tác xã cũng là một hình thức của Chủ
nghĩa tư bản nhà nước nhưng ít đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp
hơn và vì thế, trong thực tế nó đặt chính quyền Xô Viết trước những khó khăn lớn
hơn” (trang 271). Vì sao vậy?, vì “Các hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ
nhất định sản sinh ra những quan hệ tư bản, tiểu tư sản và góp phần phát triển
những quan hệ ấy”. Tuy nhiên, dưới chính quyền Xô Viết, Chủ nghĩa tư bản hợp
tác xã là một hình thức của Chủ nghĩa tư bản nhà nước, và như thế có lợi cho nhà
nước chuyên chính vô sản. Mặt khác, đây cũng là hình thức có khả năng liên hiệp
và tổ chức hàng triệu người, sau đó toàn thể dân chúng. “Và tình hình ấy lại là một
điều lợi rất lớn cho bước quá độ tương lai từ Chủ nghĩa tư bản nhà nước lên Chủ
nghĩa xã hội” (trang 272).
- Đại lý ủy thác, tức là “nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà
buôn, trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua
sản phẩm của người sản xuất nhỏ” (trang 274).

- Nhà nước vô sản cho một số nhà kinh doanh tư bản trong nước thuê xí
nghiệp, vùng mỏ, rừng, ruộng đất…Ở đây hợp đồng cho thuê giống hợp đồng tô
7


nhượng hơn cả, nhưng đối tượng tô nhượng không phải là tư bản nước ngoài mà là
tư bản trong nước. Tuy vậy Lênin cũng chỉ rõ hai hình thức ba và bốn ở nước Nga
lúc đó không ai nhắc đến, không người nào suy nghĩ tới. “Đó không phải vì chúng
ta mạnh và thông minh mà vì chúng ta kém và dốt”.
- Cho nông dân thuê những hầm mỏ và công tất yếu hợp doanh. Theo các
hình thức này nhà nước vô sản có thể tận dụng sức lao động của người nông dân.
Còn người nông dân hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nước. Đồng thời, nhà
nước còn hùn vốn với tư bản tư doanh (cả trong nước và nước ngoài) để xây dựng
các xí nghiệp khai thác hầm mỏ, kinh doanh thương nghiệp.
+ Trong các tác phẩm Lênin còn nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng trong công
cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Lênin cho rằng phải biết suy nghĩ về những nhiệm
vụ kinh tế xây dựng Chủ nghĩa xã hội, biết tính toán một cách tỉnh táo tất cả các lực
lượng giai cấp hiện có trong xã hội, thấy rõ sức mạnh của Đảng là ý chí gang thép, tính
cứng rắng, kiên quyết và trung thành vô hạn với cuộc đấu tranh vì những lý tưởng của
xã hội mới. Hiểu rõ Đảng là “Đội ngũ tiên tiến chỉ là một bộ phận nhỏ trong quần
chúng nhân dân”, Lênin coi việc củng cố khối liên minh công nông, cơ sở chính trị của
nền chuyên chính vô sản, là điều kiện quan trọng nhất để đạt được Chủ nghĩa xã hội.
Để đưa Chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi, Đảng phải đưa ra được những đường lối, thể
thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư
bản chủ nghĩa lên Chủ nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt của vấn đề.
+ Những phần cuối của tác phẩm thấm đượm niềm tin vào khả năng cách mạng
của giai cấp công nhân và nông dân, vào sự tất thắng của CNXH dưới sự lãnh đạo của
Đảng Bôn sê vích. Lênin viết: “Những kẻ do dự thì đông. Chúng ta không đông.
Những kẻ do dự lại rời rạc. Chúng ta lại đoàn kết. Những kẻ do dự không độc lập về
kinh tết. Còn giai cấp vô sản lại độc lập về kinh tế. những kẻ do dự không biết là họ

muốn gì..Chúng ta biết chúng ta muốn gì. Vì thế, chúng ta nhất định sẽ thắng” (trang
294).

3. Sự vận dụng chính sách kinh tế mới (NEP) vào đường lối đổi mới ở
Việt Nam.
+ Qua 25 năm đổi mới (từ năm 1986), nền kinh tế nước ta đã và đang phát triển
theo tư tưởng của Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-nin trong điều kiện và hoàn cảnh
mới.
+ "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa"

8


+ "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc"
+ "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các
thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh..."
+ "Mở mang các làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu, thủ công
nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệp sơ chế và chế biến về nông
thôn và vùng nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật, trao đổi
nông sản hàng hóa ở nông thôn,... tăng nhanh việc làm cho khu vực phi nông nghiệp".
+ "Mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền
vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành

tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng
nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện
đại".
+ "Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một đột
phá lý luận rất sáng tạo của Đảng ta. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã dứt khoát từ bỏ mô
hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp;
chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định: "Phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Đại hội VIII đưa ra quan niệm mới, rất
quan trọng: "Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu
phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Đến Đại hội IX,
khái niệm kinh tế thị trường được chính thức nêu trong Văn kiện Đại hội. Khẳng định
kinh tế thị trường của ta không phải kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, và cũng chưa
phải là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Đại hội IX đưa ra khái niệm kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xem đó là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCH, nền kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh
tế quốc dân; kinh tế tư nhân, kể cả kinh tế tư bản tư nhân, là một bộ phận quan trọng
hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vai trò của kinh tế tư nhân
9


đang và sẽ có xu hướng tăng lên. Vì lợi ích của đất nước và của CNXH, Đảng và Nhà
nước chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong mọi ngành nghề mà
pháp luật không cấm, kể cả tư nhân quy mô lớn. Vấn đề đặt ra là: phải có chính sách
và những giải pháp tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển, phát huy mặt

tích cực, hạn chế mặt tự phát - tiêu cực, vừa không làm mất động lực phát triển, vừa
chủ động khống chế phân hóa hai đầu, giữ vững định hướng XHCN. Như vậy, bảo
đảm định hướng XHCN phải được thể hiện ngay trong chính sự vận động của mỗi
thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường nước ta.
* Có thể khái quát một số đặc trưng của đổi mới tư duy kinh tế ở nước ta như sau:
+ Từ tư duy hiện vật sang tư duy hàng hóa, tư duy thị trường.
+ Từ tư duy bao cấp, ỷ lại, thụ động sang tư duy chủ động, sáng tạo.
+ Từ tư duy kinh tế "khép kín" sang tư duy mở, chủ động hội nhập quốc tế.
+ Từ tư duy đơn sở hữu sang tư duy đa sở hữu, đa thành phần.
+ Từ không thừa nhận đến thừa nhận đa dạng hóa hình thức phân phối, kể cả
phân phối theo vốn, tài sản.
+ Từ tư duy "Nhà nước làm tất cả", độc quyền sang tư duy đa dạng hóa các chủ
thể làm kinh tế, giảm độc quyền nhà nước, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp.

Sự vận dụng NEP như thế nào, điều đó phụ thuộc vào sự nhận thức và điều kiện
hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Đối với Việt Nam, mặc dù điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử hoàn toàn không giống nước Nga Xô - Viết trong thời điểm thực hiện
NEP, song có nét tương đồng: Nề kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, nông
dân chiếm đa số trong dân cư...Vì vậy, những bài học kinh nghiệm của NEP có
thể áp dụng linh hoạt ở Việt Nam.
Nhận thức được vấn đề này, Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo, tài
tình NEP vào công cuộc đổi mới đất nước.
Trước hết, trong đường lối phát triển kinh tế Đảng ta đặt đúng vị trí vấn đề nông
dân và kinh tế nông nghiệp. Đó là, "Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp,
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu". Đây là quan điểm chính trị nhất quán
được thực hiện từ Đại hội V đến nay. Thực hiện quan điểm này, Đảng ta đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế
nông nghiệp, xây dưng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân, trong đó
tiêu biểu là Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư khóa VI (thangs1-1981) về
mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã

10


nông nghiệp; Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ chính trị khóa VI (tháng 4-1988)
về đổi mới quản lý nông nghiệp; Ngị quyết TW 6 khóa VI (tháng 3-1989) và
tiếp theo đó là chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải phục vụ cho phát
triển nông nghiệp, xây dưng nông thôn mới và tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn...
Vận dụng bài học kinh nghiệm của NEP vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta
còn thể hiện ở đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một nền kinh tế nhiều thành
phần, đã được nhận thức từ Đại hội VI của Đảng, và tư tưởng này được các Đại
hội VII, VIII, IX, X và XI của Đảng tiếp tục tái khẳng định, bổ sung và hoàn
thiện với nhiều nội dung, biện pháp, chính sách mới, như giữ vững vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước, khuyến khích phát triển và định hướng thành phần
kinh tế tư nhân theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước và phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài...
Vận dụng bài học kinh nghiệm của NEP, Đảng ta có sự đổi mới nhận thức
về sự tồn tại khách quan cảu sản xuất hàng hóa trong thời kỳ quá độ, chuyển nền
kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đi liền với đó, Đảng ta chủ trương đổi mới cơ chế quản lý "Xóa bỏ triệt để cơ
chế quản lý tập trung quan liêu bao cáp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch; thực hiện hạch toán kinh doanh và
giao quyền tự chủ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh của Nhà nước; ổn định
tiền tệ; khắc phục có hiệu quả lạm phát; cải cách thủ tục hành chính, nâng cao
năng lực quản lý của bộ máy nhà nước...
4. Ý nghĩa chính sách kinh tế mới đối với Việt Nam.
Sự vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm của NEP đã góp phần
quan trọng vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước. Trong hai mươi lăm
năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi

cơ bản và toàn diện, kinh tế tăng trưởng nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được đẩy

11


mạnh; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững.
Tuy có một thời chúng ta vận dụng một cách rập khuôn máy móc không
tính đến điều kiện của nước ta đã dẫn đến những sai lầm trì trệ, nhưng xét trên
phương diện khoa học thì việc vận dụng NEP đã góp phần đưa Việt Nam tránh
được việc chệch hướng XHCN và nhìn nhận đúng, điều chỉnh lại quá trình phát
triển nước nhà.
Nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá vai trò sở hữu của
các thành phần kinh tế.
Tránh được tư tưởng chủ quan nóng vội muốn quá độ nhanh, nhảy cóc mà
quên rằng phải xây dựng từng bước trung gian liên kết vững chắc trên cơ sở phải
phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước.
Góp phần thiết lập và cũng cố mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân,
giữa các thành phần kinh tế với nhau trong xu thế tự do hóa thương mại.
 Từ những bài học kinh nghiệm của NEP và sự vận dụng thành công trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam, có thể thấy, mặc dù ra đời cách đây 90 năm,
nhưng NEP vẫn còn nguyên giá trị đối với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi
nước, không rập khuôn, máy móc. Bảo vệ và tiếp tục bổ sung phát triển NEP là
nhiệm vụ quan trọng đặt ra hiện nay đối với phong trào cộng sản quốc tế, trong
đó có Việt Nam.

12




×