Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

sự phát triển của lý luận giá trị lao động trong học thuyết kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.15 KB, 12 trang )

I.

LỜI MỞ ĐẦU:

Xã hội loài người đã và đang trải qua những hình thái kinh tế – xã
hội khác nhau. Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài
người đều có những hiểu biết và cách giải thích các hiện tượng kinh
tế – xã hội nhất định. Việc giải thích các hiện tượng kinh tế – xã hội
ngày càng trở nên hết sức cần thiết đối với đời sống kinh tế của xã
hội loài người. Lúc đầu nó chỉ xuất hiện dưới những hình thức tư
tưởng kinh tế, về sau mới trở thành những quan niệm, quan điểm
kinh tế có tính hệ thống của các giai cấp khác nhau, đáp ứng cho
nhu cầu lý luận và bảo vệ các lợi ích của các giai cấp đó. Mặt khác,
các trường phái lý luận qua các giai đoạn lịch sử khác nhau mang
tính kế thừa, phát triển, cũng như phê phán có tính lịch sử của các
trường

phái

kinh

tế

học.

Trường phái kinh tế chính trị học tư sản đầu tiên là chủ nghĩa Trọng
thương. Nó ra đời trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản. Đối
tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị học lúc này là lĩnh vực lưu
thông và đánh giá cao vai trò tiền tệ trong việc tích luỹ của cải. Con
đường làm tăng của cải là thương nghiệp, là ngoại thương. Họ đòi hỏi
sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để tạo điều kiện cho chủ


nghĩa



bản

ra

đơì.

Theo đà thâm nhập của tư bản vào lĩnh vực sản xuất, những vấn đề
kinh tế của sản xuất nảy sinh vượt quá khả năng lý giải của chủ
nghĩa Trọng thương; Đòi hỏi phải có những lý thuyết mới – Kinh tế
chính

trị

học



sản

cổ

điển

xuất

hiện.


Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển lần đầu tiên chuyển đối tượng
nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Các đại biểu
xuất sẵc của trường phái cổ điển là W.Petty, F.Quesnay, A.Smith,
D.Ricacdo. Các ông nghiên cứu những vấn đề cơ bản của lý luận kinh
tế chính trị học như thuyết giá trị lao động, tiền lương, lợi nhuận, lợi
túc, tư bản, tích luỹ, tái sản xuất. Từ đó xây dựng nên hệ thống các
phạm trù, quy luật kinh tế. Trường phái này ủng hộ tư tưởng tự do


kinh tế, dưới sự chi phối của bàn tay vô hình, Nhà nước không can
thiệp vào kinh tế.
Song thực tế đã bác bỏ tư tưởng tự do kinh tế của trường phái cổ
điển. Đồng thời thể hiện sự bất lực của kinh tế chính trị học tư sản cổ
điển trước những hiện thực kinh tế mới. Trước bố cảnh đó, nhiều trào
lưu kinh tế chính trị học nổi lên mà cơ bản là 2 trào lưu:
Một là những nhà kinh tế tiếp tục thuyết tư sản cổ điển đã đổi mới
và phát triển, Trường phái Keynes, tự do mới, chính hiện đại.
Hai là kinh tế chính trị học Marx – Lenin.
Trong hệ thống các các lý luận cơ bản của từng trường phái cũng
như của cả quá trình lịch sử phát triển, lý luận giá trị lao động đóng
vai trò hạt nhân, là cơ sở của các lý luận khác; Nó cũng bắt đầu sơ
khai từ những tư tưởng kinh tế và được phát triển thành những quan
niệm, khái niệm và đến Marx đã khái quát hoá thành những phạm
trù, những hệ thống lý luận hoàn chỉnh. Để tìm hiều những tư tưởng
đó, bài tiểu luận này sẽ đi nghiên cứu “sự phát riển của lý luận giá trị lao
động trong học thuyết kinh tế”, mà nhờ đó sẽ giải thích được các hiện
tượng kinh tế trong xã hội.

II.


HOÀN CẢNH RA ĐỜI, MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN

CỨU
2.1 Hoàn cảnh ra đời của lý luận giá trị lao động
Vào thế kỷ thứ XVI-XVII sự thống trị của tư bản thương nghiệp thong qua việc
thực hiện chủ nghĩa trọng thương chính là bộ phận của học thuyết tích lũy nguyên
thủy, dựa trên cướp bóc và trao đổi không ngang giá ở trong nước và quốc tế, làm thiệt
hại lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, kiềm hãm sự phát triển của tư bản
công nghiệp. Khi nguồn tích lũy nguyên thủy đã cạn thì chủ nghĩa trọng thương trở
thành đối tượng phê phán. Sự phê phán chủ nghĩa trọng thương đồng thời là sự ra đời
một lý thuyết mới làm cơ sở lý luận cho cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản, hướng
lợi ích của họ vào lĩnh vực sản xuất. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển ra đời từ đó.
Ở một số nước, do hậu quả của chủ nghĩa trọng thương, nền nông nghiệp củ bị
đình đốn. Cho nên việc đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương gắn liền với việc phê
phán chế độ phong kiến nhằm giải thoát những ràng buộc phong kiến để phát triển


nông nghiệp theo kiểu sản xuất tư bản chủ nghĩa, làm xuất hiện chủ nghĩa trọng nông.
Những đại biểu của chủ nghĩa trọng nông là những người đặt cơ sở cho việc nghiên
cứu, phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ở Anh, từ khi thương nghiệp mất dần đi ý nghĩa lịch sử, giai cấp tư sản Anh đã
sớm nhận thấy lợi ích của họ trong sự phát triển công trường thủ công nghiệp. Họ chỉ
rõ: muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê của những người nghèo là
nguồn gốc làm giàu vô tận cho người giàu. Đó là điểm cốt lõi của kinh tế chính trị tư
sản cổ điển Anh, là học thuyết của giai cấp tư sản ở nhiều nước lúc bấy giờ.
2.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Luận chứng cương lĩnh kinh tế và các chính sách kinh tế của giai cấp tư sản, cơ chế
thực hiện lợi ích kinh tế trong xã hội nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản trên cơ
sở phát triển lực lượng sản xuất.

II.3 Phương pháp nghiên cứu: thể hiện tính chất 2 mặt:
-

Một là sử dụng phương pháp trừu tượng hóa để tìm hiểu các mối liên hệ bản

chất bên trong các hiện tượng và các quá trình kinh tế, nên đã rút ra những kết luận có
giá trị khoa học.
-

Hai là, do những hạn chế về mặt thế giới quan, phương pháp luận và điều kiện

lịch sử cho nên khi gặp phải những vấn đề phức tạp, họ chỉ mô tả một cách hời hợt và
rút ra một số kết luận sai lầm.
III.

NỘI DUNG

3. 1. Tư tưởng về học thuyết giá trị - lao động của một số nhà kinh tế tiêu biểu
của trường phái cổ điển Anh:
a) William Petty – người đầu tiên đặt ra nguyên lý lao động quyết định giá trị
kinh tế trong kinh tế chính trị học tư sản:
William Petty (W.P) sinh ra trong một gia đình làm nghề thủ công. Ông là
người học rộng, biết nhiều và có tài trên nhiều lĩnh vực, có trình độ tiến sĩ vật lý, là
nhạc trưởng, là người phát minh ra máy móc, là bác sĩ trong quân đội. Ông vừa là một
đại địa chủ vừa là một nhà công nghiệp, ông còn cha đẻ của khoa học thống kê. Ông
viết nhiều tác phẩm như "Điều ước về thuế và thu thuế"( 1962), " Số học chính
trị"(1676), " Bàn về tiền tệ" (1682).
W.P (1632 - 1687) là một người có công lao to lớn trong việc nêu ra lí luận về
giá trị lao động. Ông đã đưa ra các phạm trù về giá cả hàng hoá. Gồm giá cả tự nhiên



và giá cả chính trị. Tuy vậy lí thuyết giá trị lao động của ông còn nhiều hạn chế, chưa
phân biệt được các phạm trù giá trị giá cả và giá trị ... Giá cả chính trị (giá cả thị
trường) do nhiều yếu tố ngẫu nhiên chi phối, nên rất khó xác định chính xác. Giá cả tự
nhiên (giá trị) do hao phí lao động quyết định, và năng suất lao động có ảnh hưởng tới
mức hao phí đó.
Ông tập trung nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hoá, một bên là tiền tức là
ông mới chú ý nghiên cứu về mặt lượng. Ông chỉ giới hạn lao động tạo ra giá trị phụ
thuộc lao động khai thác vàng và bạc. Ông so sánh giá lao động khai thác vàng và bạc
với lao động khác, lao động khác chỉ tạo nên của cải ở mức độ so sánh với lao động
tạo ra tiền.
Như vậy W.Petty cho rằng lao động tạo ra tiền mới là lao động tạo ra giá trị nên
giá trị hàng hoá phụ thuộc vào giá trị của tiền, giá trị hàng hoá là sự phản ánh giá trị
của tiền tệ “như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu của ánh sáng mặt trời “ ông đã
không thấy được rằng tiền đo làm thời gian tách làm hai, một bên là hàng hoá thông
thường, một bên là tiễn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị.
Một lý luận quan trọng của ông đó là ông khẳng định: “ lao động là cha còn đất
đai là mẹ của của cải”. Đây là luận điểm nổi tiếng trong lí thuyết giá trị lao động của
ông .
- Xét về mặt của cải (giá trị sử dụng) thì ông đã nêu lên được nguồn gốc của
cải. Đó là lao động của con người. Kết hợp với yếu tố tự nhiên. Điều này phản ánh tư
liệu sản xuất để tạo ra của cải
- Xét về phương diện giá trị thì luận điểm trên là sai. Chính Petty cho rằng giá
trị thời gian lao động hao phí quy định nhưng sau đó lại cho rằng 2 yếu tố xác định giá
trị đó là lao động và tự nhiên.
Ông đã tìm thước đo thống nhất của giá trị là thước đo chung đối với tự nhiên
và lao động, ông đưa ra quan điểm “thước đo thong thường của giá trị là thức ăn trung
bình hằng ngày của mỗi người, chứ không phải là lao động hằng ngày của người đó”
Với luận điểm này chứng tỏ ông chưa phân biệt được rõ giá trị sử dụng và giá trị trao
đổi, chưa biết đến tính chất xã hội của giá trị. Ngoài ra ông còn có ý định giải quyết

mối quan hệ giữa lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng không thành công.
Ông đã nhầm lẫn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị với lao động tư cách là
nguồn gốc của giá trị sử dụng. Ông chưa phát hiện được tính hai mặt của hoạt động


sản xuất hàng hoá đó là lao động cụ thể sản xuất lao động trừu tượng. Lao động cụ thể
tạo ra giá trị sử dụng còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị.
b) Adam Smith – Người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận giá
trị - lao động:
Adam Smith (1723- 1790) là một viên chức ngành thuế. Sau khi tốt nghiệp đại
học, 13 năm ông giảng dạy Văn học, logic, triết học và đạo đức. Năm 1763, ông ngừng
giảng dạy và đi du lịch các nước châu Âu. Ông là nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư
sản, ông muốn thủ tiêu tàn tích phong kiến, mở đường cho Chủ nghĩa tư bản phát triển,
kêu gọi tích lũy và phát triển lực lượng sản xuất theo ý nghĩa tư bản, xem chế độ tư
bản chủ nghĩa là hợp lý duy nhất.
Về học thuyết giá trị lao động, A.Smith có bước tiến đáng kể so với W.Petty.
Adam Smith đã đưa ra thuật ngữ khoa học là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, khi
phân tích về giá trị trao đổi ông tiến hành phân tích qua các bước:
-

Xét hàng hóa trao đổi với lao động: Ông cho rằng thước đo thực tế của giá tị
hàng hóa là lao động nên giá trị hàng hóa là do lao động sống mua được. Như
vậy là ông đã đồng nhất giá trị là lao động kết tinh trong hàng hóa với lao động
mà hàng hóa đó đổi được.

-

Xét trao đổi hàng hóa với hàng hóa: Ông viết “giá trị trao đổi của chúng bằng
một lượng hàng hóa nào đó”. Như vậy giá trị trao đổi của hàng hóa là quan hệ
tỷ lệ về số lượng giữa các hàng hóa.


-

Xét trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ: Theo ông, khi chấm dứt nền thương
nghiệp vật đổi vật thì giá trị hàng hóa được đo bằng tiền và giá cả hàng hóa là
biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả hàng hóa có 2 loại thước đo đó là lao động
và tiền tệ, trong đó thước đo là lao động là thước đo chính xác nhất của giá trị,
còn tiền tệ chỉ là thước đo trong một thời gian nhất định mà thôi.
A.Smith là người đưa ra quan niệm đúng đắn về giá trị hàng hóa đó là: giá trị

hàng hóa là do lao động hao phí tạo ra, ông còn chỉ rõ giá trị hàng hóa bằng số lượng
lao động đã chi phí bào gồm lao động quá khứ và lao động sống.
Tóm lại trong lý luận giá trị - lao động của A. Smith đã có những bước tiến
đáng kể so với chủ nghĩa trọng nông và W. Petty. Cụ thể là:
-

Ông đã chỉ ra cơ sở của giá trị, thực thể của giá trị chính là do lao động. Lao
động là thước đo giá trị (theo ông: lao động là nguồn gốc của sự giàu có của các


quốc gia, là thực thể giá trị của hàng hóa. Không phải vàng hay bạc mà sức lao
động mới là vốn liếng ban đầu và có khả năng tạo ra mọi của cải cần thiết)
-

Ông khẳng định mọi thứ lao động sản xuất đều bình đẳng trong việc tạo ra giá
trị hàng hóa (đã khắc phục hạn chế của chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa
trọng nông)

-


Trong khi phân biệt hai phạm trù giá trị sử dụng và giá trị, ông bác bỏ quan
niệm cho rằng giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Khi phân tích về giá
trị, ông cho rằng giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi trong mối quan hệ về số
lượng với các hàng hóa khác, còn trong nền sản xuất hàng hóa phát triển nó
được biểu hiện ở tiền.

-

Lượng giá trị: là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định, không
phải do lao động chi phí thực tế để sản xuất hàng hóa. Ở đây đã có sự trừu
tượng hoác các dạng lao động cụ thể các chi phí lao động cá biết để xem xét giá
trị lao động tạo ra như một đại lượng xác định mang tính chất xã hội. Đã có sự
phân biệt lao động giản đơn, lao động phức tạp trong việc hình thành lượng giá
trị hàng hóa.

-

Về giá cả: theo A.Smith, giá trị là cơ sở của giá cả và có giá cả tự nhiên và giá
cả thị trường. Giá cả tự nhiên là giá trị thực của hàng hóa do lao động quyết
định. Giá cả thị trường ( hay giá cả thực tế) thì khác với giá cả tự nhiên, phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu và các loại độc quyền khác ( ông đã sớm nhận ra
nhân tố độc quyền tư bản).

Lý luận giá trị - lao động của A.Smith còn có những hạn chế đó là:
-

Quan niệm về lượng giá trị chưa nhất quán: trên cơ sở lý luận giá trị lao động
ông đã có định nghĩa đúng giá trị là lao động hao phí để sản xuất hàng hóa.
Nhưng có lúc ông lại định nghĩa giá trị lao là lao động mà người ra có thể mua
được bằng hàng hóa này quyết định, tức là không thấy vai trò của lao động quá

khứ. Vì vậy dẫn đến sự bế tắc khi phân tích tái sản xuất.

-

Một quan điểm sai lầm của A.Smith là khi ông cho rằng: “tiền công, lợi nhuận,
địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi,
là ba bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa”. Do đó, giá trị do lao động tạo ra chỉ
đung trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn còn trong kinh tế tư bản chủ nghĩa


thì nó do các nguồn thu nhập tạo thành là tiền công, lợi nhuận và địa tô. Điều
này biểu hiện sự xa rời học thuyết giá trị - lao động.
-

Ông cũng đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá thị trường, nhưng ông lại
chưa chỉ ra được giá cả sản xuất bao gồm chi phí sản xuất và lợi nhuận bình
quân.
c) Lý luận về giá trị - lao động của David Ricado đã đạt tới đỉnh cao của

kinh tế chính trị học cổ điển của giai cấp tư sản:
David Ricardo (1772- 1832) là người bảo vệ lợi ích của bộ phận tư sản công
nghiệp, chống chế độ phong kiến và tin tưởng vào tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản,
cho rằng chủ nghĩa tư bản là hợp lý và tồn tại vĩnh viễn. Thế giới quan của D.Ricardo
là thế giời quan duy vật tự phát và máy móc, trong phương pháp cũng song song tồn
tại cả phương pháp khoa học và phương pháp tầm thường. Tác phẩm nổi tiếng nhất
của ông là tác phẩm “ Những nguyên lý của kinh tế chính trị học”. Đặc biệt tài sản vô
giá của ông là kiến thức kinh tế thực tế, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
Lý luận về giá trị là lý luận chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống quan điểm
kinh tế của Ricardo, là cơ sở của học thuyết của ông và được xây dựng trên cơ sở kế
thừa, phê phán, phát triển lý luận giá trị của A.Smith.

Ông định nghĩa giá trị hàng hóa, hay số lượng của một hàng hóa nào khác mà
hàng hóa khác trao đổi, là số lượng lao động tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng
hóa đó quyết định. Ông phê phán sự không nhất quán trong khi định nghĩa về giá trị
của A.Smith.
Ông cũng đã có sự phân biệt rõ ràng dứt khoát hơn giữa giá trị sử dụng và giá
trị trao đổi, ông nhấn mạnh “ tính hữu ích không phải là thước đo giá trị trao đổi, mặc
dầu nó rất cần thiết cho giá trị này”. Ông chỉ rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thết
cho giá trị trao đổi nhưng không phải là thước đo của nó. Trừ một số ít hàng hóa khan
hiếm thì giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi, còn lại đa số hàng hóa khác giá trị
do lao động quyết định. Vì giá trị trao đổi là giá trị tương đối được biểu hiện ở một số
lượng nhất định của hàng hóa khác (thay tiền tệ) nên D.Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh
giá trị tương đối còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Đó là thực thể của giá trị, là số lượng lao
động kết tinh, giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu
hiện giá trị truyệt đối. Từ đó ông phê phán sự đồng nhất hai khái niệm tăng của cải và
tăng giá trị. Ông có ý kiến kiệt xuất rằng: “Tính hữu ích không phải là thước đo giá trị


trao đổi, mặc dù hàng hóa rất cần thiết giá trị này”. “Giá trị khác xa với của cải, giá trị
không phụ thuộc vào việc có nhiều hay ít của cải, mà tùy thuộc vào điều kiện sản xuất
khó khăn hay thuận lợi”. Theo ông sở dũ có nhiều nhầm lẫn trong khoa học kinh tế
chính trị là do người ta coi “sự tăng của cải và tăng giá trị là một”, là do người ra quên
rằng thước đo giá trị chưa phải là thước đo của cải vì của cải không phụ thuộc vào giá
trị. Theo ông giá trị trao đổi hàng hóa được quy đinh bởi lượng lao động chứa đựng
trong hàng háo, lượng lao động đó tỷ lệ thuận với lao động tạo ra hàng hóa. Tính hữu
ích không tăng cùng nhịp độ với tăng giá trị, tính hữu ích là cần thiết vì vật không có
ích, nó không có được giá trị trao đổi.
Theo ông lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá không phải chỉ có lao động
trực tiếp, mà còn có cả lao động cần thiết trước đó để sản xuất ra các công cụ, dụng cụ,
nhà xưởng dùng vào việc sản xuất ấy.
Về thước đo giá trị, ông cho rằng cả vàng hay bất cứ một hàng hoá nào không

bao giờ là một thước đo giá trị hoàn thiện cho tất cả mọi vật. Mọi sự thay đổi trong giá
cả hàng hoá là hậu quả của những thay đổi trong giá trị của chúng.
Về giá cả ông khẳng định: giá cả hàng hoá là giá trị trao đổi của nó, những biểu
hiện bằng tiền, còn giá trị được đo bằng lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng
hoá, ông cũng đã tiếp cận với giá cả sản xuất thông qua việc giải thích về giá cả tự
nhiên. Ông phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường, ông cho rẳng không một
hàng hóa nào mà giá cả không bị ảnh hưởng của biến động ngẫu nhiên hay tạm thời.
Nguyện vọng của các nhà tư bản luôn có xu hướng mún rút số vốn của mình khỏi một
công việc kinh doanh ít lãi và đầu tư cào một kinh doanh khác có nhiều lãi hơn,
nguyện vọng đó không cho phép giá cả thị trường của các hàng hóa dừng lâu ở một
mức nào đó cao hơn nhiều hay thấp hơn nhiều so với giá cả tự nhiên của chúng.
Ricardo kiên định với quan điểm: lao động là nguồn gốc của giá trị, công lao to lớn
của ông là đã đứng trên quan điểm đó để xây dựng lý luận khoa học của mình. Đồng
thời ông cũng phán A.Smith cho rằng giá trị là do các nguồn gốc thu nhập hợp thành,
Theo ông giá trị hàng hóa không phải do các nguồn gốc thu nhập hợp thành là ngược
lại được phân thành các nguồn thu nhập.
Ricardo cũng đã đề cập đến lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng ông
chưa lý giải việc quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn.


Ông cũng là người đầu tiên mô tả đầy đủ cơ cấu lượng giá trị, bao gồm 3 bộ
phận: c, v, m, tuy nhiên ông chưa phân biệt được sự chuyển dịch của c vào sản phẩm
như thế nào, và không tính đến yếu tố c2. D.Ricardo bác bỏ quan điểm cho rằng tiền
lương ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá.
Tuy nhiên trong lý luận giá trị của D.Ricardo cũng còn những hạn chế, đó là:
- Chưa phân biệt giá trị và giá cả sản xuất mặc dù đã nhìn thấy xu hướng bình
quân hoá tỷ suất lợi nhuận.
- Coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn, là thuộc tính của mọi vật (theo Mác phạm trù
này chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hoá).
- Chưa phát hiện ra tính chất hai mặt của sản xuất hàng hoá.

- Chưa làm rõ tính chất lao động xã hội quy định giá trị như thế nào, thậm chí
cho răng lao động xã hội cần thiết do điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định.
- Chưa phân tích được mặt chất của giá trị và các hình thái giá trị.
d) Lý luận giá trị trong học thuyết kinh tế Marx
Trong hệ thống các học thuyết kinh tế, học thuyết về giá trị - lao động được
trình bày như là cơ sở của tất cả các học thuyết kinh tế của Marx. Lần đầu tiên, giá trị
được xem xét như là quan hệ sản xuất xã hội của những người sản xuất hàng hóa, còn
hàng hóa là nhân tố tế bào của xã hội tư sản. Giá trị hàng hóa là lao động của người
sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị là phạm trù lịch sử - có sản xuất
hàng hóa thì mới có giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị;
Giá trị là nội dung là cơ sở của giá trị trao đổi
Theo Marx, hàng hóa có 2 thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Ông đã tiến xa
hơn lý luận của các nhà tư sản cổ điển là phân biệt một cách rõ ràng 2 thuộc tính này.
Đó là:
-

Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người. Còn giá trị lao động xã hội thể hiện và vật hóa trong hàng hóa.

-

Giá trị và giá trị sử dụng là 2 thuộc tính cùng tồn tại và thống nhất với nhau ở
một hàng hóa. Quá trinh thực hiện giá trị và quá trình thực hiện giá trị sử dụng
là hai quá trình khác nhau về thời gian và không gian. Trước khi thực hiện giá
trị sử dụng của hàng hóa, phải thực hiện giá trị của nó, nếu không thực hiện
được giá trị thì sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng.


Marx phân tích tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa là lao động cụ thể là
lao động trừu tượng, lao động tư nhân và lao độgn xã hội.

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thứ cụ thể, có đối tượng lao
động, mục đich, phương pháp lao động, kết quả sản xuất riêng. Chính cái riêng đó
phân biệt được các loại lao động cụ thể khác nhau. Mỗi lao động cụ thể tjao ra 1 giá trị
sử dụng nhất định. Lao động cụ thê tồn tại vĩnh viễn cùng với sản xuất và tái sản xuất
xã hội, không phụ thuộc vào bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào.
Còn lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa đã gạt bỏ
hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quy về một cái chung đồng nhất. ĐÓ là sự tiêu
phí sức lao động, tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh con người. Lao động trừu tượng tạo
ra giá trị hàng hóa. Chỉ có lao động sản xuất hàng hóa mới có tính chất là lao động
trừu tượng.
Tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa vừa là lao động cụ thể vừa là
lao động trừu tượng có lien hệ với tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động
sản xuất hàng hóa. Sự phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
người sản xuất hàng hóa thông qua trao đổi. Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ
vào lao động cụ thể mà phải quy về lao động chung nhất, lao động trừu tượng.
Marx đinh nghĩa lượng giá trị hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội
cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất
ra một hàng hóa nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với
một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội.
Thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa thay đổi thì lượng giá trị
hàng hóa sẽ thay đổi.
Marx chỉ ra ảnh hưởng khác nhau tới lượng giá trị hàng hóa của lao động giản
đơn và lao động phức tạp “ Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên
lũy thừa, hay nói cho đúng hơn là lao động giản đơn được nhân lên thành thử lượng
lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với lượng lao động giản đơn lớn hơn”. Vì
vậy khi trao đổi người ta lấy lao động giản đơn làm đơn vị tính toán và quy tất cả
những lao động phức tạp thành lao động giản đơn.
Đồng thời Marx phê phán các quan điểm của W.Petty, A.Smith, D.Ricardo về
giá trị hàng hóa. Ông đã hoàn thiện các yếu tố cấu thành lên giá trị hàng hóa gồm 3 bộ
phận: C+V+m (trong đó C là lao động quá khứ, V là lao động sống và m là giá trị



thặng dư do lao động sống tạo ra). Marx chỉ rõ giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu
hiện của giá trị, ông đã đi sâu phân tích giá cả sản xuất, trong điều kiện cạnh tranh tự
do, giá trị chuyển hóa thành giá cả sản xuất (Đến Lenin chỉ ra rằng trong giai đoạn sản
xuất độc quyền thì nó lại chuyển hóa thành giá cả độc quyền)
Lý luận về giá cả hàng hóa, ông cho rằng giá cả thị trường lên xuống xoay
quanh giá trị hàng hóa và trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Cơ chế này
phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung-cầu, sức mua của đồng
tiền.
Marx là người đầu tiên phát hiện ra tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa.
Trên cơ sở phát hiện này, Marx đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lịch sử học
thuyết kinh tế, ông đã xây dựng học thuyết giá trị - lao động một cách hệ thống và
hoàn chỉnh. Đồng thời dựa vào phát hiện này, ông đã trình bày một cách khoa học hệ
thống các phạm trù kinh tế chính trị mà trước đó chưa ai làm được. Và cũng nhờ đó
mà giải thích được hiện tượng phức tạp diễn ra trong thực tế, như vận động trái ngược:
khối lượng của cải vật chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó
giảm xuống hay không thay đổi.
IV.

KẾT LUẬN
Lý luận giá trị lao động đã trải qua chiều dài lịch sử của nhân

loại và giữ vai trò quan trọng trong hệ thống các học thuyết kinh tế.
Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu lý luận giá trị, giá cả hàng hoá
đã chỉ rõ mối quan hệ bản chất, bên trong của nền sản xuất hàng
hoá, mối liên hệ phổ biến giữa giá trị và giá trị sử dụng, các vấn đề
về giá cả hàng hoá lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá.
Đặc biệt, nhờ phân biệt được sức lao động và lao động trong
sản xuất hàng hoá, phát hiện được tính chất hai mặt của sản xuất

hàng hoá, Marx đã giải đáp được rất nhiều điểm bế tắc trong các học
thuyết của trường phái kinh tế học tư sản cổ điển Anh (thí dụ, vì sao
trao đổi theo đúng giá trị mà vẫn thu được giá trị thặng dư); Từ đó đã
hoàn thiện lý luận giá trị, tìm ra được nguồn gốc và bản chất của tiền
tệ, phân tích đặc thù của quy luật giá trị trong chủ nghĩa tư bản, đưa
đến phát hiện về giá trị thặng dư, vạch rõ cơ chế bóc lột tư bản chủ
nghĩa và những hình thái chuyển hoá của giá trị thặng dư trên bề


mặt cuộc sống như lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, lợi nhuận thương
nghiệp, lợi tức, địa tô.
Thông qua nghiên cứu, phân tích, so sánh lý luận giá trị, giá cả
hàng hoá trong các họch thuyết kinh tế, so sánh với lý luận của chủ
nghĩa Marx Lênin để thấy rõ những điểm tích cực, những mặt còn tồn
tại từ đó nhận thức 1 cách sâu sắc quá trình vận động, phát triển
kinh tế – xã hội ở Việt nam, đưa ra được những chủ trương, đường lối,
chính sách phát triển kinh tế phù hợp với các quy luật, các điều kiện
khách khách quan; Nó được thể hiện cao độ thông qua những chủ
trương, đường lối của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay là phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý
của Nhà nước - Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.



×