Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.07 KB, 31 trang )

Lời mở đầu

Nền kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa từ sau chiến tranh thế giới thứ II
(1951-1971) có nhiều biến đổi so với trước chiến tranh một trong những nhân
tố quan trọng gây nên những biến đổi đó là sự điều chỉnh kinh tế của Nhà nước.
Nhờ điều chỉnh kinh tế của Nhà nước chủ nghĩa tư bản đã vượt qua được nguy
cơ sụp đổ, góp phần tạo ra mấy thập kỉ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ nhất là sau
chiến tranh thế giới thứ II (1951-1970). Vậy nhờ đâu mà Nhà nước tư bản có
vai trò kinh tế đó? Nó được tổ chức như thế nào và thể hiện vào đời sống kinh
tế xã hội ra sao? Những kinh nghiệm điều chỉnh kinh tế nào của Nhà nước tư
bản hiện đại có lợi ích đối với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam? Đó là những vấn đề
không chỉ quan tâm trong giới lí luận mà cả trong chính giới hiện nay.
Giải đáp những vấn đề trên sẽ giúp chúng ta hiểu sâu thêm bản chất của
chủ nghĩa tư bản hiện đại và ở những mức độ nhất định nó cũng giúp cho
công tác quản lý thực tiễn nền kinh tế của chúng ta.
Từ lâu, đặc biệt từ những năm 30 vai trò kinh tế của Nhà nước tư bản đã
được nhiều nhà khoa học lớn của giới lí luận tư sản nghiên cứu và xây dựng
thành các phái lí luận như: phái trọng cầu, trọng tiền, trọng cung, kì vọng hợp
lí,... do J.Keynes, M.Friedenan, Laffer, Thomas Sargent, William,... đại diện.
Về điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản hiện đại cũng được nghiên cứu
trên nhiều khía cạnh đặc biệt là trong giới lí luận Xô Viết cũ.
ở Việt Nam, đề tài này cũng được đề cập trên những góc độ khác nhau
của một số nghiên cứu. Song đây vốn là vấn đề chỉ được giải quyết thoả đáng


tương xứng với vị trí của nó trong hệ thống lí luận về chủ nghĩa tư bản hiện
đại ở nước ta.
Bài tiểu luận này nhằm phác ra một bức tranh toàn cảnh hơn, cố gắng làm
rõ bản chất, cơ chế hoạt động của Nhà nước tư bản hiện đại trên cơ sở thực tiễn
hoạt động của ba trung tâm kinh tế tư bản ngày nay là Nhật, Mỹ, Tây Âu.



I . Vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản
1-\ Những nguyên nhân cơ bản thúc đẩy các chức năng kinh tế vĩ mô
của nhà nước tư sản:
Một là, nguyên lí khoa học và kinh nghiệm sản xuất được vật hoá trên tư
liệu lao động, đối tượng lao động, nó làm cho bộ phận năng động nhất của lực
lượng sản xuất là công cụ và người lao động thay đổi về chất lượng. Sự nghiệp
to lớn này vượt khả năng của một nhà tư bản thậm chí một tập đoàn tư bản vì
phát triển khoa học - kỹ thuật và đào tạo đội ngũ cán bộ có tri thức, kỹ thuật cao
xã hội phải đầu tư rất lớn chỉ có Nhà nước - người nắm trong tay tiềm lực kinh
tế lớn của xã hội lại được giải phóng khỏi mục tiêu lợi nhuận trước mắt để hoạt
động cho mục tiêu chung của toàn bộ giai cấp tư sản và sự bảo tồn và phát triển
chủ nghĩa tư bản vì thế Nhà nước tăng cường đầu tư vào các ngành kinh tế giữ
vị trí then chốt quyết định sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Hai là: Sự ra đời của công nghiệp mới có kỹ thuật hiện đại và nhu cầu
cải tạo các ngành truyền thống đòi hỏi quy mô tích luỹ tư bản lớn. Quá trình
phân công lao động đã vượt phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, xã hội hoá và
quốc tế hoá đời sống kinh tế làm nảy sinh nhiều mối quan hệ kinh tế, xã hội và
chính trị vượt khỏi tầm điều chỉnh của tư bản tư nhân đòi hỏi Nhà nước phải
đứng ra giải quyết, ví dụ việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền,


điều chỉnh dòng đầu tư tư bản, điều chỉnh các quan hệ thương mại,... Thực
hiện những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội này đã làm nảy sinh thêm
những chức năng kinh tế mới của Nhà nước tư bản hiện đại.
Ba là, sự phát triển mạnh mẽ của cải cách khoa học-kỹ thuật làm thay đổi
căn bản cơ cấu kinh tế quốc dân, sự biến đổi đó thể hiện một cách toàn diện ở
các mặt: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu đầu tư,... đặt ra nhu cầu điều chỉnh trên
quy mô tổng thể vượt sức của tập đoàn tư bản tài chính nên Nhà nước phải
can thiệp vào sự vận động của nền kinh tế, sự can thiệp ở đây không thể là can

thiệp bên ngoài quá trình sản xuất mà Nhà nước phải tác động vào tất cả các
yếu tố, các khâu và cùng biến mình thành nhân tố chủ động trong cơ chế vận
động của tái sản xuất.
Sở dĩ Nhà nước tư bản có khả năng điều chỉnh được sự vận động của nền
kinh tế là do tính xã hội và tính độc lập tương đối vốn có của nó. Vai trò của
Nhà nước được thể hiện ở toàn bộ nền kinh tế quốc dân, sự vạch đường hướng
phát triển và điều chỉnh sự vận động của nền kinh tế theo định hướng đó, sự
hoạt động điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản thành một trong những điều
kiện cơ bản, quan trọng để nền sản xuất phát triển.
2-\ Một số tư tưởng kinh tế cơ bản về tính khách quan và vai trò điều
chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản hiện đại:
Do những đòi hỏi chính trị cấp bách cũng như do sự phát triển của sức
sản xuất chưa đặt ra, nên trong những trước tác phẩm của các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lênin, người ta chỉ tìm thấy sự nhấn mạnh Nhà nước như
một công cụ bóc lột giai cấp bị thống trị song không phải vì thế mà vai trò
kinh tế của Nhà nước tư bản không được đề cập đến hoặc bị xem nhẹ trong lí
luận của Maxit. Khi phân tích vai trò kinh tế của Nhà nước F.Enggheng viết:
“... xã hội đẻ ra những chức năng chung nhất định mà thiếu chúng thì không


thể được. Những người được chỉ định để thực hiện chức năng đó đã tạo ra
trong lòng xã hội một lĩnh vực phân công lao động mới đồng thời họ cũng là
lợi ích đặc biệt trong mối quan hệ với những người giao trách nhiệm cho họ
và trở nên độc lập hơn trong quan hệ đối với những người đó”.
Quan phân tích của Angghen ta có thể rút ra những tư tưởng sau:
Một là, Nhà nước sinh ra nhằm thực hiện những chức năng xã hội chung
nhưng khi tồn tại là một lực lượng chính trị mới, nó không chỉ có được lợi ích
đặc biệt mà còn có tính độc lập tương đối trong quan hệ với các lực lượng xã
hội, người đã giao phó trách nhiệm cho nó.
Hai là, nhờ tính độc lập tương đối này mà Nhà nước có khả năng tác

động trở lại quá trình sản xuất xã hội. Đây không phải là sự tác động một
chiều mà là sự tác động qua lại, một bên là lực lượng chính trị chủ động, đại
diện cho xã hội và bên kia là các quá trình kinh tế khách quan.
Nhà nước sinh ra nhằm thực hiện những chức năng xã hội chung, thì một
trong những chức năng là làm “một nhạc trưởng” đứng ra điều hành phối hợp
không phải một khâu, một quá trình sản xuất đơn lẻ mà là cả quá trình sản
xuất xã hội. Nhà nước muốn tác động vào sự vận động của nền kinh tế một
cách có hiệu quả, đặc biệt khi các điều kiện tái sản xuất xã hội đang xấu đi thì
Chính phủ phải hoạch định các chính sách của mình nhằm vào giải quyết các
mục tiêu kinh tế, xã hội dài hạn mà đối tượng thuộc về phía cung trên thị
trường. Nếu Nhà nước chỉ tác động vào một vài nhân tố có tính cục bộ nhất
thời thì không mang lại hiệu quả mong muốn. Do vậy muốn cho nền kinh tế
phát triển ổn định phải tác động vào các nhân tố mang lại hiệu quả lâu dài mà
phần lớn nhân tố đó thuộc về yếu tố cung. Có ba yếu tố cơ bản tạo ra sự tăng
trưởng ổn định lâu dài: lao động, nguồn vốn và tiến bộ khoa học - kỹ thuật.


Theo các trường phái lí thuyết sau Keynes về việc Nhà nước phải can
thiệp sâu vào quá trình vận động của nền kinh tế. Song M.Friedina cho rằng
“Sự vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có mối quan hệ tương hỗ với sự
vận động của khối lượng tiền tệ trong lưu thông... Các biến số kinh tế vĩ mô
như tổng sản lượng, công ăn việc làm và giá cả,... chủ yếu chịu ảnh hưởng của
việc điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong lưu thông của Nhà nước, tức là nó ảnh
hưởng tới chính sách chủ yếu trong mô hình điều chỉnh kinh tế của Nhà nước”.
Theo lí thuyết kỳ vọng hợp lí thì các chính sách kinh tế được nhiều Nhà
nước hoạch định và thực hiện trong thời kỳ trước đây đều dựa hoàn toàn vào
một hướng lí thuyết như: trọng cung, trọng cầu, trọng tiền đều rất cực đoan
không phù hợp với sự vận động của nền kinh tế do đó nó bị thất bại. Các chủ
thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường luôn gặp rủi ro biến động họ
cần Nhà nước ngoài mục tiêu thông tin cho các chủ thể kinh tế của mình cũng

cần phải nắm được ý kiến của các nhà kinh doanh và nguyện vọng kinh tế của
nhân dân để đề ra các quyết sách kịp thời. Điều chỉnh kinh tế bằng Nhà nước
hiện nay là phục hồi và tôn trọng các nguyên tắc tự điều tiết của thị trường, xu
hướng hiện nay Nhà nước trực tiếp vào giải quyết các vấn đề thực tiễn nhờ đó
mà thúc đẩy sự chín muồi các chức năng kinh tế của Nhà nước.
3-\Nhiệm vụ của hệ thống điều chỉnh kinh tế Nhà nước ở các nước tư bản
phát triển:
Điều chỉnh sự vận động của quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa Nhà
nước phải sử dụng các nguồn lực hoạt động của mình như ngân khố tài
nguyên thông qua hệ thống tín dụng, ngân hàng, tài chính.
Điều tiết chính là việc Nhà nước áp đặt những quy chế của mình nhằm
hướng dẫn, hạn chế, thay đổi hành vi kinh tế của các chủ thể sản xuất kinh


doanh phù hợp với những hoạt động chung trong vận động tổng thể của nền
kinh tế theo những mục tiêu của Nhà nước đã vạch ra.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II (1950-1971) Nhà nước tư bản hiện đại không
chỉ là người thúc đẩy và điều tiết sự vận động của nền kinh tế mà còn là một chủ sở
hữu lớn, tính các hình thức sở hữu Nhà nước đưa vào hoạt động thì sở hữu Nhà
nước trong các nước tư bản phát triển chiếm khoảng 15 đến 34% tổng số vốn đầu tư
sản xuất kinh doanh của nền sản xuất do đó việc quản lí của Nhà nước đối với khu
vực này cũng là một công cụ được Nhà nước vận dụng để điều tiết nền kinh tế.
Qua những phân tích nhiệm vụ điều chỉnh kinh tế của Nhà nước ở trên ta
thấy, kết cấu của hệ thống điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản đặc quyền
hiện đại là một hệ thống điều tiết, thiết chế tổ chức thuộc bộ máy Nhà nước
cùng với nó là hệ thống các công cụ giải pháp kinh tế được thể chế hoá thành
các chính sách kinh tế của Nhà nước.
4-\ Bộ máy điều chỉnh kinh tế của Nhà nước ở các nước tư bản phát triển:
Hoạt động điều chỉnh của Nhà nước thông qua một hệ thống tổ chức Nhà
nước những tổ chức này được chia làm hai loại.

Một là, cơ quan hành pháp của Chính phủ: làm chức năng hành chính và
điều chỉnh kinh tế ở tầm tổng thể.
Hai là, cơ quan điều tiết kinh tế do luật định: chúng chuyên kiểm tra, uốn
nắn,... Để hiểu rõ hơn các hình thức tổ chức, chức năng và mối quan hệ giữa
chúng ta xem khái quát từng nhóm trong thực tiễn ở một số nước tư bản.
Các cơ quan quản lý kinh tế truyền thống của Chính phủ:
Tham gia vào hoạt động điều chỉnh kinh tế của bộ máy Nhà nước dưới
quyền chỉ đạo của tổng thống hoặc thủ tướng là các bộ trưởng và hệ thống tổ chức


của họ. Các nhân viên làm việc trong các bộ là các công chức chuyên nghiệp và
các cơ quan chức năng cấp dưới được lựa chọn có chức năng nghiệp vụ cao.
Hệ thống các bộ trong kết cấu Nhà nước được tổ chức theo chức năng
ngành thực tế như Bộ nông nghiệp, Bộ công nghiệp,... bộ phận này điều chỉnh
kinh tế thuộc phạm vi đảm trách. Đối với các khu vực sản xuất kinh doanh
thuộc sở hữu Nhà nước dưới bộ đảm nhiệm chức năng điều hành sản xuất. Để
đảm bảo có một cơ cấu tổ chức thích hợp và có hiệu quả, Nhà nước tư bản còn
tổ chức ra bộ máy điều tiết kinh tế theo luật định.

Các cơ quan điều tiết kinh tế theo luật định:
Là hệ thống tổ chức hành pháp mang nặng tính giám sát, kiểm soát,... của
các chủ thể sản xuất kinh doanh, cơ quan này được quốc hội trao quyền lực
nhất định dựa vào các đạo luật do đó các cơ quan này chịu sự hướng dẫn của
Chính phủ thông qua bộ trưởng. Nhờ sự quản lí của Quốc hội và Chính phủ
nên hoạt động của các cơ quan này có tính tự chủ lớn hơn các cơ quan hành
pháp chung soạn thảo ra các văn quy chế mới để bổ sung hoặc uốn nắn các
quy chế hiện hành, thanh tra, kiểm tra các hoạt động kinh tế sai lệch của chủ
thể sản xuất kinh doanh hỗ trợ chúng hoạt động sản xuất, luật định còn lập ra
các cơ quan điều tiết để hỗ trợ Chính phủ trong các khâu then chốt như vạch
kế hoạch,... những cơ quan này được thành lập với nhiệm kỳ ngắn. Những

quyết định của nó đòi hỏi phải phê duyệt thông qua Chính phủ.
Mô hình kết cấu bộ máy điều chỉnh kinh tế của Nhà nước Mỹ và Nhật:
Tại Mỹ số nhân viên trong bộ máy hành pháp liên bang từ 2,9 triệu người
1959 tăng lên 2,7 triệu người năm 1979, ở địa phương tăng từ 6,1-12,9 triệu.


ở Nhật cũng tương tự. Theo thống kê 1-7/1970 số nhân viên làm việc
trong 6 bộ: Tài chính, thương mại quốc tế, công nghiệp, xây dựng, nông
nghiệp, giao thông vận tải và cục lập kế hoạch kinh tế là 255.261 người. Số
người này được phân chia và hoạt động theo nguyên tắc đã trình bày ở trên.
5-\ Hệ thống các phương tiện và các công cụ điều chỉnh kinh tế của Nhà
nước ở các nước tư bản phát triển:
a. Khu vực sản xuất thuộc sở hữu của Nhà nước: là đối tượng điều chỉnh
kinh tế có vai trò thúc đẩy sự vận động của nền kinh tế vì mục đích duy trì
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Nhà nước có thể thu hẹp hoặc mở
rộng khu vực sản xuất của mình để nâng đỡ và hỗ trợ kinh doanh tư nhân.
b. Tài chính Nhà nước: là phương tiện cơ bản nằm trong tay Nhà nước 3040% thu nhập quốc dân nắm trong tay nên nó điều chỉnh kinh tế thông qua các
chức năng tạo nguồn thu cho ngân sách, phân phối lại thu nhập quốc dân thông
qua thuế và tài trợ Nhà nước, Nhà nước tư bản phát triển đã đảo ngược nguyên
tắc: chi luôn vượt thu, chi không phụ thuộc vào thu mà phụ thuộc vào yêu cầu
điều chỉnh kinh tế xã hội, điều đó cho thấy Nhà nước tư bản sử dụng tài chính
không đơn lẻ mà kết hợp các công cụ khác như tiền tệ - tín dụng, lãi suất,...
c. Tiền tệ tín dụng: tiền tệ tín dụng và hệ thống ngân hàng là hệ thần kinh
của nền kinh tế: ta biết rằng quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế
có mối quan hệ tương hỗ với sự vận động của nền kinh tế theo định hướng
mình, Nhà nước có thể chủ động điều chỉnh khối lượng tiền lưu động thông
qua công cụ phát hành và thay đổi tỷ suất.
d. Các công cụ hành pháp: Nhà nước ra các văn bản hành chính để tổ
chức hướng dẫn thi hành các đạo luật kinh tế như: luật đầu tư,... khi cần thiết
Nhà nước ra sắc lệnh đình chỉ sản xuất hay lưu thông một số mặt hàng nào đó.



Đặc trưng của hệ thống công cụ này là áp đặt, cưỡng bức buộc các chủ thể
kinh tế phải thi hành.
e. Các công cụ kỹ thuật: hệ thống công cụ máy móc thu thập thông tin
kinh tế, phân tích các tình huống, xử lí các thông tin truyền tin kinh tế. Nhờ hệ
thống công cụ này mà hiệu lực của Nhà nước được nâng cao.
Toàn bộ công cụ điều chỉnh kinh tế của Nhà nước trên đã tạo thành một
kết cấu hữu cơ trong hệ thống điều chỉnh kinh tế. Song bộ máy và công cụ
điều chỉnh kinh tế chỉ phản ánh mặt thiết chế tổ chức trong hệ thống điều
chỉnh kinh tế. Để hoàn thiện hơn hệ thống này chúng ta cần nghiên cứu nó
dưới hình thái thể chế hoá thành đường lối, chính sách.

II. Quá trình điều tiết kinh tế của các nhà nước tư sản hiện
đại
1-\Trong thập kỷ 90
Kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triẻn không đều. Điển hình là trong khi
kinh tế Nhật Bản lâm vào suy thoái khủng hoảng thì kinh tế Mĩ lai có sự tăng
trưởng đáng kể.
ở Nhật bản, nếu từ cuối những năm 80 trở về trước nhiều người tưởng
rằng câu chuyện thần kì kinh tế Nhật Bản sẽ không có hồi kết thúc, thế mà từ
khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ, Nhật Bản đã chìm sâu vào khủng hoảng và
đang rất khó tìm thấy đường ra.Từ năm 1991 đến nay, nhiều năm kinh tế phát
triển dưới 1% và dù cho Nhật đã nhiều lần đưa ra đối sách, song chưa có năm
nào tốc độ tăng trưởng vựot quá 3%. Trong hai năm liền 1997 và 1998, tốc
độ tăng trưởng là âm(-0,7% và -2,8%)còn trong năm1999 kinh tế khó khăn
lắm mới đạt được tốc độ 0,5%- 0.6%. Vào đầu những năm 90, giá cổ phiếu


và giá đất hạ 50%, khiến cho tình trạng mắc nợ không có khả năng thu hồilên

tới cả nghìn tỉ đôla. Tỷ lệ thâm hụt ngân sách ở mức cao nhất trong nhóm
G7(5,4%) và nợ nhà nước lên tới 120% GDP hiện nay, gấp đôi so với năm
1992 và là mức cao nhất trong các nước công nghiệp phát triển. Số công ty bị
phá sản lên tới mức kỷ lục, gần 20.000 công ty vào năm 1998. Khủng hoản
kinh tế lần này cũng không buông tha ngay cả những nghành công nghiệp
mũi nhọn như ô tô, điện tử, thông tin vốn được coi là những trụ cột của nền
kinh tế. Điều đáng nói và nghiêm trọng hơn cả là lần này ngay cả các ngân
hàng các công ty chứng khoán và các tổ chức tài chính khổng lồ, luôn đước
coi là con cưng của các chính sách điều chỉnh của Chính phủ, cũng không
tránh khỏi số phận bị phá sản thảm hại, buộc phải sát nhập hoặc nhường bớt
cổ phần cho các đối tác nước ngoài. Kinh tế kho khăn, số công ty phá sản
ngày càng tăng đã khiến cho số người bị mất việc làm lên tới mức kỷ lục. Số
người thất nghiệp đã lên tới chừng 3,5 triệu, chiếm 4,9% và còn cao hơn cả
Mĩ. Ngoài ra so với Mĩ, Nhật Bản còn thua kém cả về sản xuất công nghiệp
lẫn năng suất lao động. Khủng hoảng kinh tế thập kỷ 90 ở Nhật Bản có thể
nói là nghiêm trọng nhất sau chiến tranh và là kết quả của nhiều nguyên
nhân, tóm lại có thể thấy ba nguyên nhân chính là:
1.

Nguyên nhân liên quan đến mặt cầu của nền kinh tế, trong đó có sự

thất bại trong chính sách quản lý vĩ mô. Chính phủ và ngân hàng trung ương
đã không thấy hết sự năng động thích ứng của xí nghiệp, phản ứng của thị
trường nên các chính sách tiền tệ tài chính áp dụng không linh hoạt và không
thích hợp về các thời điểm, dẫn đến hình thành rồi đổ vỡ nền “kinh tế bong
bóng”
2.

Các nguyên nhân nảy sinh từ sự sụp đổ nền kinh tế bong bóng mà


hậu quả là tiền nợ không đòi lại được lên đến con số rất cao, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hệ thống tín dụng, ngân hàng. Tình trạng này ảnh hưởng


trực tiếp đến một bộ phận khác về mặt cầu là đầu tư của xí nghiệp. Ngân
hàng chưa xử lý được các món nợ khó thu hồi, không tích cực hoặc không có
khả năng cho vay đối với các dự án mới, ảnh hưởng đến các xí nghiệp vừa và
nhỏ. Nhiều xí nghiệp lớn thì dư thừa thiết bị và bất an về định hướng kinh tế
nên không tích cực đầu tư, không ít xí nghiệp đang chịu nợ chồng chất nên
không giám vay thêm để đầu tư.
3.

Một số nguyên nhân có tính cơ cấu, cơ chế chế độ kinh tế, hầu hế

liên quan đến mặt cung của nền kinh tế làm giảm hiệu quả của các chính sách
kích cầu hoặc gây trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chẳng hạn
Nhà nước chậm tháo gỡ các cơ chế ràng buộc, hạn chế hoạt động kinh doanh
trong nhiều nghành thuộc lĩnh vực dịch vụ như bất động sản, lưu thông phân
phối, thương nghiệp. Việc bảo hộ các nghành tài chính ngân hàngtrong một
thời gian quá lâu, làm mất đi tính năng động khả năng cạnh tranh của các ngân
hàng này.
Để vực dậy nền kinh tế khổng lồ thứ hai thế giới và đang bị ốm yếu
này, trong mấy năm qua, chính phủ Nhật Bản đã liên tục đưa ra các chương
trình cũng như các giải pháp khác nhau như cân bằng ngân sách, ổn định giá
cả, bơm thêm tiền vào các công trình công cộng, xoá bỏ một phần nợ cho các
công ty bất động sản...Tuy nhiên do những dặc điểm cố hữu của nền kinh tế,
sự lạc hậu của hệ thống tài chính ngân hàng mang nặng tính bao cấp cứng
nhắc cũng như thiếu minh bạch của bộ máy tài chính trong việc quản lý và
điều hành nền kinh tế. Do đó có thể nói rằng nền kinh tế và xã hội Nhật sẽ
không thể chấn hưng và không thể tiếp tục phát triển được nếu chính phủ Nhật

không có những cải cách căn bản, lâu dài theo hướng laọi bỏ các quan điểm
bảo thủ, bảo hộ cứng nhắc, chuyển sang một nền kinh tế có tính cởi mở tự do
và có tính quốc tế hoá hơn. Nhận thức đước điều đó, từ khi nhậm chức vào


năm 1996, thủ tướng R. Hasimoto và các chính phủ kế tiếp sau này đã vạch ra
quyêt tâm thực hiên những hướng cải cách và cải tổ lớn và cải tổ sau đây:
1.Phi điều chỉnh kinh tế.
Trước thực trạng kinh tế tài chính hết sức khó khăn hiện nay- hậu
quả tất yếu của sự can thiệp và điều chỉnh lâu dài và chặt chẽ của nhà nước,
chính phủ và giới kinh doanh Nhật Bản tỏ rõ quyết tâm gia tăng hơn nữa nhịp
độ phi điều chỉnh kinh tế theo hướng giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào
kinh tế. Đồng thời hàng loạt các quy chế, luật lệ hạn chế quyền tự do kinh
doanh của tư nhân cũng được giảm bớt, cho phép mở rộng hơn nữa các thị
trường Nhật Bản ( cả thị trường hàng hoá thông thường lẫn thị trường tài
chính, tiền tệ, lao động...) cho các đối tác nước ngoài, tư nhân hoá rộng rãi và
nhanh hơn các doanh nghiệp nhà nước... Mực đíchlà tạo cho nền kinh tế Nhật
Bản vận hành triệt để hơn theo các qui luật của kinh tế thị trường, tạo ra một
sân chơi kinh tế tương tự và bình đẳng như các quốc gia công nghiệp khác.

2. Cải cách hành chính
Quá trình cải cách hành chính nhằm xây dựng một cơ cấu bộ máy
nhà nước gọn nhẹ song tinh hơn. Trong đó đáng chú ý là lấy lại lòng tin cho
hệ thống tài chính Nhật Bản
3. Cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội
Nhằm tạo lập một hệ thống bảo hiểm xã hội đáp ứng được các nhu
cầu mới của một xã hội đang già hoá, chương trình cải cách mới sẽ cho phép
khu vực tư nhân tham gia rộng rãi hơn vào lĩnh vực bảo hiểm và tạo ra môi
trường cạnh tranh lành mạnh giữa nhà nước và tư nhân và giữa các công ty tư
nhân với nhau nhằm nâng cao hiệu suất và giảm chi phí. Từ tháng 7 năm

1998, việc xác định tỷ lệ phí bảo hiểm nhân thọ đã được tư do hoá dần và ranh


giới hoạt động giữa các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính ở cấp công ty
con sẽ được xoá bỏ vào tháng 3 năm 2000. Ngoài ra chính phủ còn cải cách
chế độ hưu bổng, chăm sóc sức khoẻ và phúc lợi... theo hướng người dân sẽ
phải tự bỏ tiền túi của mình ra nhiều hơn để đóng góp cho các khoản đó.
4. Cải cách giáo dục
Giáo dục nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, được coi là
yếu tố quyết định tưong lai của đất nước. Do vậy cải cách giáo dục sẽ được
coi là chương trình ưu tiên và được đẩy nhanh hơn nữa nhằm phát tuy tính
sáng tạo độc lập và sự đa dạng trong học sinh, sinh viên Nhật Bản. Chính sách
này nhằm vào một số định hướng như: Cải tổ các trường đại học; giảm dần sự
can thiệp và kiểm soát của Bộ giáo dục đối với hệ thống giáo dục; đa dạng hoá
các loại hình nhà trường, nâng cao tính thực tiễn của các chương trình giảng
dạy
5. Để có sức cạnh tranh lớn hơn trong thời đại cách mạng khoa học
công nghệ, quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế, bản thân cơ cấu tổ chức
và quản lý của các công ty Nhật cũng dần dần phải có những thay đổi đáng kể.
Một số hướng thay đổi chủ yếu có thể được khải quat như sau:
- Các ngân hàng tài chính của các Keitretsu khác nhau sẽ được sát
nhập với nhau làm mất đi tính khép kín và biệt lập của các tập đoàn
này.
- Hệ thống phân phối khép kín đối với các đối tác bên ngoài tập đoàn
và ngoài nước sẽ được nới lỏng và dơn giản hoá dần theo hướng
giảm bớt các khâu bán buôn, tăng diện tích các cửa hàng bán lẻ...
- Chế độ làm việc suôt đời và thăng thưởng theo thâm niên sẽ mất
dần ý nghĩa, và tuổi trẻ năg lực chuyên môn và thành tích cá nhân
sẽ được coi trọng hơn.



ở Mĩ, chiến tranh lạnh kết thúc vào đầu thập kỷ 90, đã để lại những hậu
quả rất nặng nề cho nền kinh tế Mĩ. Đồng thời cùng với cuộc khủng hoảng
kinh tế trong thời kỳ 1989-1991, nền kinh tế Mĩ càng thêm điêu đứng. Tất cả
những gì mà Mĩ có thời ấy, thời kỳ B.Clinton lên làm tổng thống gồm toàn
những vấn đề cần phải giải quyết gấp, giải quyết đúng mới đưa Mĩ bước vào
thời kỳ ổn định. Những vấn đề đó là suy thoái kinh tws nặng nề, tăng trưởng
tụt xuống thấp, thâm hụt ngân sách ở mức cao. Mĩ chỉ có hai lần thặng dư
ngân sách vào năm 1960 là 0,3 tỷ USD và năm 1969 là 3,2 tỷ USD. Đến năm
1992 thâm hụt ngân sách là 290,4 tỷ USD và năm 1995 là 200 tỷ USD. Chính
vì thâm hụt ngân sách nên nợ liên bang cũng tăng từ 832,6 tỷ năm 1970 lên
3.336,6 tỷ năm 1993 và 4.390 tỷ năm 1995. Số tiền lại của tổng số nợ liên
bang theo đó cũng tăng và đạt đến 2000 tỷ USD tương đương 14,8 % GDP
vào năm 1990. Tỷ lệ lãi phải trả cho các con số nợ này rất lớn, vì chi phí cho
an ninh quốc phòng là khoản chi lớn nhất chiếm 2,93% GDP, chi cho khoa
học công nghệ và vũ trụ gộp lại 5,4% GDP. Tỷ lệ thất nghiệp lên tới 7,1%, cơ
cấu kinh tế còn nhiều điều chưa hợp lý dẫn đến trong một số nghành công
nghiệp chế tạo khả năng cạnh tranh thấp hơn Nhật Bản và một số nước châu
Âu. Sự dư thừa công suất trong các nghành công nghiệp quân sự dẫn đến lãng
phí. Kinh tế- Xã hội của Mĩ trong bối cảnh đó đã làm cho dân chúng giảm
lòng tin vào chính quyền.
Để vực dậy sự suy giảm kinh tế nhằm đạt được mục tiêu lãmh đạo thế giới,
chính quyền B.Clintơn đã hành động như thế nào và đã đạt được những kết
quả gì?
Thứ nhất, chinh quyền Clinton đã đưa ra chương trình kinh tế với mục
tiêu giảm thâm hụt ngân sách, đi tới cân bằng ngân sách bằng cách tăng cường
sự can thiệp của nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Các chính sách điều tiết
này là tăng thuế thu nhập cá nhân, tăng thuế thu nhập công ty, giảm chi phí



liên bang kể cả chi phí cho quốc phòng, tăng kinh phí cho các chương trình
phúc lợi xã hội và cải cách hành chính.
Thứ hai, điều chỉnh chính sách công nghiệp và chính sách khoa học
công nghệ. Ưu tiên phát triển công nghệ cao và những nghành kỹ thuật mũi
nhọn đón đầu thế kỷ 21 như công nghệ thông tin sinh học lase... với chi phí
lên tới 17 tỷ USD. Đồng thời chính phủ cũng chi 16,7 tỷ đôla cho dự án nâng
cao dự án giáo dục, đào tạo công nhân lành nghề để tạo ra các cơ hội việc làm
mới.
Thứ ba, ưu tiên cho các hoạt động thương mại, đặc biệt đẩy mạnh xuất
khẩu, coi đây là nội dung quan trọng của chiến lược phục hưng nền kinh tế
Mĩ. Mĩ tăng cường sức ép mở cửa thị trường nước ngoài cho các sản phẩm
của mình. Đẩy mạnh xu thế nhất thể hoá thương mại ở khu vực Bắc Mĩ, mở
rộng khu vực thương mại tự do Bắc Mĩ cho cả châu Mĩ. Sau đó là thúc đẩy tự
do hoá thương mại thông qua Tổ chức thương mại thế giới (WTO), mà Mĩ là
nước có vai trò chủ chốt để cho việc buôn bán có lợi cho Mĩ.
Bằng những nỗ lực về các giải pháp chính sáchdo chính quyền B.
Clinton đề ra trong nhiệm kỳ thứ nhất(1992-1996) kinh tế Mĩ đã mau chóng
hồi phục và đạt được những thành quả khả quan:
-Năm 1992 tốc độ tăng trưởng đạt được 2,7%, năm 1994 là 3,5% và
năm 1995 là 2,4%. Theo thống kê của Bộ thương mại Mĩ, thời kỳ 1994-1995,
kinh tế Mĩ đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhất so với những năm đầu thập
kỷ 80, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 2,6%
-Tỷ lệ lạm phát giảm xuông còn 2,5%, tỷ lệ này là thấp nhất so với
nhiều năm qua, kinh tế phục hồi, Mĩ vượt qua chu kì suy thoái nhanh nhất.
Ngay từ năm 1993, đã có chuyển biến rõ rệt trong khi Tây Âu và Nhật Bản
vẫn ở trong tình trạng trì trệ.


-Mĩ là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Từ năm 1987 đến năm
1996 tốc độ tăng xuất khẩu hàng năm là 9%, con số đó ở Nhật Bản là 6,6%

vad ở Đức là 4,2%. Vòng đàm phán Uruguay kết thúc càng có lợi cho Mĩ và
các nước phương Tây.
- Trong hai năm 1994 và 1995, Mĩ đã tạo ra hơn 2 triệu việc làm mới,
tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 6,9% năm 1991 và 7,5% vào năm 1992.
Trong nhiệm kỳ thứ hai của B.Clinton (1996-2000) tốc độ tăng trưởng
kinh tế cuả Mĩ luôn ở mức cao, năm 1996 tốc độ tăng trưởng là 2,4%, năm
1997 là 3,8%, năm 1999 là 3,98%. Năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế Mĩ
đã đạt tốc độ tăng trưởng kỷ lục 5,2%. Tỷ lệ thất nghiệp đạt mức thấp nhất so
với hơn ba thập kỷ qua, năm 1997 tỷ lệ thất nghiệp là 4,9% năm 2000 tỷ lệ
thất nghiệp của Mĩ dao động tronb khoảng 4,4%- 4,5%. Khác với các nước
công nghiệp phát triển khác , trong khi tỷ lệ thất nghiệp của Mĩ giảm dần từ
7,5% của năm 1992 xuống còn 4,2% năm 1999 thì tại Nhật Bản thất nghiệp
lại có chiều hướng tăng. Điều này chứng tỏ các chính sách chống thất nghiệp
của Mĩ tốt hơn Nhật Bản. Mặt khác kinh tế Mĩ tăng trưởng kiên tục trong
nhiệm kỳ thứ hai của Clinton đã tạo ra mhiều việc làm mới. Nhiều người mau
chóng tìm kiếm được chỗ làn việc tạm thời. Năm 1997, ấn tượng mạnh mẽ
nhất là tỷ lệ lạm phát của Mĩ chỉ còn 1,7%, năm 1998 là 1,6%.Những thành
quả đạt được trong hai nhiệm kỳ tổng thống của B. Clinton đã tạo những nền
tảng vững chắc, lâu dài cho kinh tế Mĩ phát triển. Tuy nhiên không phải
những nền tảng đó là hoàn toàn thuận lợi và không hề bị cản trở trong những
năm tới.
2-\Giai đoạn cuối thế kỷ 20, đầu của thế kỷ 21 là những năm không mấy
suôn sẻ đối với nền kinh tế thế giới nói chung và với nền kinh tế các nước tư
bản nói riêng. Ngay từ cuối quý I năm 2001 đã xuất hiện nhiều dấu hiệu suy
giảm ở cả ba khu vực kinh tế tư bản chủ nghĩa lớn là Mĩ, Nhật Bản và Liên


minh châu Âu(EU). Sự kiện ngày 11 tháng 9 ở Mĩ và cuộc chiến trả đũa do
Mĩ tiến hành ở Afganistan cũng gây nhiều tác động xấu đến nền kinh tế thế
giới. Ngân hàng thế giới (WB), và quĩ tiền tệ thế giới(IMF) và Liên hiệp

quốc(UN) đã vài lần hạ thấp mức dự đoán tăng trưởng kinh tế thế giới.Theo
bản báo cáo gần đây nhất của IMF, mức tăng trưởng kinh tế năm 2001 của
thế giới chỉ đạt 2,6% tức là thấp nhất từ năm 1993 trở lại đây. Còn theo ngân
hàng thế giới(WB) bức tranh kinh thế thế giới còn ảm đạm hơn nhiều, mức
tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2001 chỉ đạt 1,3% và sẽ tăng lên 1,6% vào
năm 2002. Theo báo cáo ngày 31-10-2001 của WB, mức tăng trưởng của các
nước phát triển 0,9% năm 2001 và 3,4% năm 2000. Kinh tế Mĩ chỉ đạt mức
1,3% so với mức 4,1% năm 2000. Ngày 26-11, văn phòng nghiên cứu quốc
gia của Mĩ chính thức thông báo: kinh tế Mĩ đã bước vào thời kỳ suy thoái kể
từ tháng 3-2001 sau 10 năm tăng trưởng liên tục ( thời kỳ tăng trưởng kinh tế
dài nhất trong lịch sử nước Mĩ). Chỉ số công nghiệp Dowjones sau sự kiện
ngày 11-9 đẫ giảm 55 điểm chỉ còn ở mức 9,965 điểm . Bức tranh kinh tế
Nhật Bản lại càng ảm đạm. Những lạc quan về tốc độ tăng trưởng đạt 1,7%
năm 2000 cùng với việc vị thủ tướng “cải cách” Koizumi lên năm quyền
nhanh chóng đi qua khi chương trình “kích thích kinh tế cả gói” của thời
Obuchi và Mori kết thúc và kinh tế Nhật Bản lại rơi vào suy thoái kỹ thuật.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) mới đây đã công bố mức tăng trưởng
kinh tế Nhật Bản trong năm 2001 chỉ đạt –0,9% thấp hơn nhiều so với dự
đoấn trước đó. Kinh tế EU cũng suy giảm ngoài dự tính, đặc biệt là kinh tế
Đức. Cuối năm 2000 cộng đồng kinh tế đã lạc quan về kinh tế EU phát triển
lành mạnh và bền vững hơn cả kinh tế Mĩ, nó sẽ hấp thụ được nguồn hàng và
đồng vốn thế giới do kinh tế Mĩ suy giảm. Thật không may trong thế giới
ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, kinh tế Mĩ giảm sút khiến lợi nhuận của các
tập đoàn châu Âu co hẹp kéo theo sự giảm tóc của kinh tế EU. Theo quỹ tiền


tệ quốc tế, năm 2001 kinh tế của 12 nước sử dụng đồng EURO chỉ đạt mức
tăng trung bình 1,6%. Kinh tế Đức chỉ đạt 0.8%, kinh tế Italia 1,8%, kinh tế
Pháp là khá hơn cả, đạt mức 2,0%. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp của Pháp lại
đang tăng cao, dừng lại ở mức 9% vào tháng 12-2001. Tuy nhiên theo các

chuyên gia kinh tế thì sự suy giảm kinh tế của EU không trầm trọng như Mỹ
và EU sẽ không rơi vào suy thoái, triển vọng trong những năm tới của 12
nước khu vực đồng EURO sẽ sáng sủa hơn. Để lý giải cho sự suy giảm nhịp
độ tăng trưởng của nền kinh tế tư bản, có thể thấy ba nguyên nhân chủ yếu là:
1. Do giá dầu mỏ tăng cao đột biến trong những năm 1999-2000 và
chính sách thắt chặt tiền tệ của cục dự trữ liên bang Mĩ (FED) trong năm
1999-2000 đã khiến các doanh nghiệp Mĩ cạn vốn, lợi nhuận giảm, thị trường
chứng khoán sụt giảm tác động nhỏ đến giới đầu tư lẫn người tiêu dùng Mĩ.
Sự điều chỉnh thị trường vốn nhằm làm cho nền kinh tế bớt nóng đã kéo theo
sự sụt giảm các thị trường vốn trên toàn cầu.
2.

Các nền kinh tế Đông á, đặc biệt là Nhật, vốn phụ thuộc quá

nhiều vào đầu tư bên ngoài và xuất khẩu sang Mĩ mà không lo củng cố và
kích thích tiêu dùng trong nước nên khi kinh tế Mĩ suy giảm thì kinh tế các
nước này cũng nhanh chóng suy giảm theo. Theo ước tính hiện nay Mĩ nhập
tới hơn 30% hàng xuất khẩu của thế giới, chủ yếu đến từ Nhật Bản, Hàn
quốc, Mêhicô nên nếu kinh tế Mĩ “cảm cúm” thì nhiều nền kinh tế khác cũng
phải sôt theo.
3.

Từ vụ khủng bố nước Mĩ hôm 11-9. Việc chính phủ Mĩ phải bỏ

ra những khoản tiền lớn hàng trăm tỷ đola cho khắc phục hậu quả hôm 11-9
và những chi phí tốn kém của cuộc chiến chốnh khủng bố đã đẩy nền kinh tế
nước này đến sự suy giảm trầm trọng hơn. Ngân sách Liên bang Mĩ từ chỗ
thặng dư hàng trăm tỷ đô la nay có thể đã chuyển sang thâm hụt. Lần thứ 10



trong năm, cục dự trữ liên bang đã cắt giảm lãi suất xuống còn 2%, mức thấp
nhất trong vòng những năm qua.
Để đưa nước Nhật ra khỏi khủng hoảng, tháng 4 năm 2001, Koizumi
Junichiro đựơc bầu làm thủ tướng, ông tuyên bố cương quyết tiến hành cải
cách kinh tế. Chương trình cải cách của Koizumi gồm 7 điểm, tập trung hai
vấn đề: xử lí nợ dài hạn và khai thác các yếu tố phát triển mới. Cụ thể là:
1. Giải quyết vấn đề nợ khó đòi để bình thường hoá hệ thống tín dụng.
Tập trung giải quyết vấn đề nợ khó đòi của các ngân hàng lớn (12700tỉ
trong số 48000 tỉ ) những nợ khó đòi mới phát sinh sau đó cũng sẽ được sử lý
trong vòng 3 năm. Với các cách giải quyết: một là, tư nhân hóa. Cải cách có
tính điều chỉnh, tối đa hoá việc sử dụng lĩnh vực tư nhân; hai là, chủ trương hỗ
trợ cá nhân hướng tới một xã hội khuyến khích khả năng cá nhân; ba là tăng
cường bảo hiểm và phúc lợi giúp nhân dân an toàn và ổn định; bốn là, tăng
cường vốn kỹ thuật, phát triển vốn con người thông qua sự lựa chon cá nhân;
năm là, chuẩn mức đời sống, tạo cơ sở hạ tầng cho phép mọi người sống và
làm việc theo ý muốn; sáu là, tăng cường sự độc lập và phục hồi địa phương,
sự tối đa hoá quyền lực của chính quyền địa phương; bảy là, cải cách hành
chính, kiến tạo một chính phủ đơn giản hiệu quả, phù hợp cho thế kỷ 21.Xây
dựng một hệ thống tài chính ổn định thích hợp bằng cách chú trọng vào lưu
lượng tiền gửi, thông qua tài chính trực tiếp và tiến hành những cải cách để
hạn chế những rủi ro của cổ đông trong ngân hàng.

2. Giảm chi tiêu công cộng.
Việc giảm chi tiêu trước nhất được thực hiện trong việc xây dựng
đường xá để hướng tới việc cân bằng ngân sách trong tương lai, có kế hoạch
giảm công nợ mỗi năm 3000 tỉ yên( tổng kim nghạch công nợ là 389.000 tỉ


yên vào cuối tháng 3 năm 2002) Năm 2002 là năm đầu tiên của quá trình cải
cách, công trái phát hành lên tới 3000 tỉ yên, giảm ODA 10%, giảm đầu tư

công cộng 10%.
3. Cải cách thuế để kích thích phát triển.
Giảm phụ đảm của cá nhân và xí nghiệp trong hoạt động kinh tế, giảm
thuế mua bán chứng khoán để cá nhân tham gia nhiều hơn vào thị trường
chứng khoán. Hiện nay tiền để dành của người Nhật đã lên tới 1.400.000 tỉ
yênn nhưng trong đó hơn 50% là tiền để dành ở ngân hàng và 70% là do
người già năm giữ. Bây giờ có một hiện tượng nghịch lý là người già dùng
một phần lương hưu bỏ vào tiết kiệm vì lo âu vì tương lai. Nêú cải cách thuế
một phần số tiền đó sẽ dùng để mua chứng khoán và gía chứng khoán sẽ lên.
Ngoài ra, các cải cách khác bao gồm cải cách thị trường lao động, công
nghệ thông tin( trong 5 năm biến nước Nhật thành một nước tiên tiến nhất về
công nghệ thông tin), cải tổ đại học...
Theo tính toán của những nhà đặt kế hoạch cải cách của thủ tướng
Koizumi với những cải cách này kinh tế phải phát triển ở mức rất thấp trong
vài năm tới 0-4% nhưng sang năm 2004, cùng với sự xác lập cơ chế xã hội
mới trong đó sáng kiến và nỗ lức của xí nghiệp và cá nhân được phát huy,
mức tăng trưởng tiềm năng sẽ lên 2-3%. Qua cải cách này hi vọng dân chúng
và xí nghiệp bớt lo âu về tương lai, chi tiêu cá nhân và đầu tư sẽ tăng bảo đảm
cho kinh tế phát triển hêt tiềm năng. Tuy nhiên chương trình cải cách đang đối
mặt với một hoàn cảnh không thuận lợi. Sự suy thoái công nghệ thông tin ở
Mĩ lan rộng ngoài dự tưởng, việc tỉ lệ thất nghiệp đang tăng và có khuynh
hướng tăng trong năm tới cũng là vấn đề bức xúc khó giải quyết ngay. Qua sử
lý nợ khó đòi, cải tổ cơ cấu tài chính và các công ty lớn đang có kế hoach điếu
chỉnh cơ cấu mà trọng tâm là giảm biên chế làm cho sự lo âu về thất nghiệp
trong xã hội ngày càng tăng. Trong dài hạn , kinh tế phục hồi và qua các cải


cách về cơ chế, các lĩnh vực dịch vụ phục vụ người già, y tế, giáo dục, công
nghệ sẽ tạo ra thêm việc làm để thu hút số người thất nghiệp. Tuy nhiên các
hiệu quả nằy chưa thấy được trong ngững năm trước mắt trong khi tâht nghiệp

tiếp tục tăng.
Tóm lại 3-4 năm tới là giai đoạn khó khăn, Nhật Bản vừa phải đối phó
với tình huống vừa phải tiến hành cải cách. Các biện pháp để đối phó tình
huống thì không còn nhiều. Chính sách tài chính đã áp dụng nhưng không có
hiệu quả và hiện nay khả năng ngân sách cũng không cho phép áp dụng nữa.
Hiện nay lãi suất đã giảm xuống mức zero, chính sách tiền tệ cũng không còn
chỗ để áp dụng. Chính phủ hầu như bị động chỉ còn cách ủng hộ mạng lưới an
toàn xã hội để giảm ảnh hưởng của tình trạng thất nghiệp và kiên trì tiến hành
các cải cách để tạo niềm tin, tránh bi quan hơn trong dân chúng. Tình hình
kinh tế trong mấy năm tới phụ thuộc nhiều vào khả năng phục hồi của kinh tế
Mĩ. Trong một tầm nhìn dài hạn hơn, hướng đi của kinh tế Nhật sẽ phụ thuộc
vào khả năng tăng sức cạnh tranh trong thời đại hậu công nghiệp, sự thay đổi
trong cơ cấu phân công quốc tế giữa Nhật với các nước Châu á khác, khả năng
giải quyết các vấn đề ở mặt cung cấp như lao động ( cơ cấu lão hoá dân số...),
đất đai( sử dụng hiệu quả hơn)...
ở Mĩ, trường phái lạc quan cho rằng với nền tảng kinh tế đã có, với sức
mạnh của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, kinh tế Mĩ sẽ đạt tăng
trưởng 3% một năm trong thập kỷ tới. Nừu chính sách kinh tế của Mĩ trong
nhiệm kì của tổng thống G. Bush thành công ngăn chặn được tình trạng trì trệ
có tính chất chu kì của nền kinh tế, giảm được tỷ lệ thâm hụt ngân sách thì
ttốc độ tăng trưởng kinh tế của Mĩ có thể đạt tỷ lệ cao hơn trong thời kỳ 20012010. Những căn cứ cho chép dự báo lạc quan chính là những yếu tố đã tạo ra
những thành công cho nền kinh tế Mĩ suốt cả thập kỷ 90. Trong đó có một số
yếu tố nổi trội.


- Toàn cầu hoá là yếu tố tác động lâu dài tới sự phát triển của kinh tế
Mĩ. Do vị trí hàng đầu của cá nhân, Mĩ không có sư cách biệt giữa nền dân
chủ chính trị và nền dân chỉ thị trường. Và như vậy toàn cầu hoá là sự thúc
đẩy phhàn còn lại của thế giới theo kịp mô hình cộng đồng tự chọn của Mĩ,
bởi vì không gian kinh tế, vị trí địa chính trị của Mĩ đang được mở rộng. Lúc

đầu chính quyền Mĩ củng cố liên minh Mĩ- Nhật- Tâu Âu, giúp đỡ các nền
kinh tế Mĩ la tinh phục hồi, thực hiện NAFTA, sau đó mở rộng chiến lược liên
kết kinh tế toàn cầu bằnh chiến dịch sản xuất và đầu tư của các công ty xuyên
quốc gia. Hàng trăm công ty xuyên quốc gia của Mĩ đang mở rộng hoạt động
sản xuất ra khỏi biên giới của Mĩ. Việc chủ trương mở rộng sản xuất hàng hoá
và dich vụ để xuất khẩu ra thị trường toàn cầu là một yếu tố quan trọng cho sự
tăng trưởng kinh tế của Mĩ. Cùng với hoạt động thương mại, hoạt động đầu tư
ra nước ngoài cũn tăng mạnh. Mĩ đã dự vào nền kinh tế toàn cầu, vào các hiệp
định khung của WTO để thực hiện các mục tiêu kinh tế gây ảnh hưởng tới các
khu vực khác trên thế giới khi vị thế của các công ty xuyên quốc gia của Mĩ
dựoc củng cố trên thế giới, khả năng thực trạng các thành tựu của tiến bộ khoa
học kỹ thuật, việc đưa ra các yêu sách chuyển giao công nghệ có lợi cho Mĩ là
nằm trong tầm tay của họ. Dựa vào khoa học công nghệ, các công ty xuyên
quốc gia của Mĩ đã hình thành mạng lưới sản xuất mới tìm kiếm các đối tác
mới để tăng mức sản xuất hàng hoá dịch vụ để thực hiện mục tiêu tăng trưởng
kinh tế của Mĩ, thực hiện chính sách thương mại có lợi cho Mĩ.
- Kinh tế Mĩ mau chóng thoát khỏi thời kỳ trì trệ và đạt tốc độ tăng
trưởng cao nhờ chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế mới, kinh tế tri
thức. Do đó, hiện nay các chính sách của chính quyền Mĩ vẫn tăng cường tập
trung vào khoa học công nghệ một nhân tố thành công cho nền kinh tế tri
thức. Muốn tăng cường năng lực cho khoa học công nghệ phải tạo ra đội ngũ
nhân lực có chuyên môn cao. Do đó không lấy gì làm ngạc nhiên khi Mĩ


chuyển hướng mạnh đầu tư cho giáo dục. Bằng những chính sách cu thể,
những năm gần đây Mĩ đã đầu tư cho khu vực tri thức, truyền bá tri thức
khoảng 20%GDP. Hiện nay có khoản 60% công nhân Mĩ là công nhân tri
thức.Tỷ trọng của những nghành công nghệ cao trong tổng giá trị của công
nghiệp chế biến và các sản phẩm xuất khẩu thuộc nghành công nghệ cao tăng
nhanh. Công nghệ thông tin là nghành có vị trí rất quan trọng đối với Mĩ, nó

luôn đứng ở vị trí hàng đầu trong mức đầu tư. Tuy nhiên đầu tư cho công nghệ
thông tin của Mĩ hướng vào đầu tư chiều sâu nên không gây ra tình trạng dư
thừa công suất giống như Nhật Bản. Không phải chỉ tập trung đầu tư cho công
nghệ thông tin mà nhiều nghành công nghệ khác mang lợi ích thương mại
cũng được Mĩ chú ý. Thí dụ công nghệ sinh học, với ký thuật di truyền là cơ
sở để sản xuất ra dược phẩm, mỹ phẩm và hạt giiống. Nhiều công ty của Mĩ
đã kiểm soát hoàn toàn các thị trường thế giới về các loại sản phẩm này.
-

Còn một nhân tố tích cực tác động đến nền kinh tế của Mĩ là sự phát

triển mạnh mẽ của kinh tế đông á . Các nước ở khu vực này đã trở thành bạn
hàng lớn của Mĩ về cả hàng hoá và dịch vụ. Tại Đông á thì Nhật Bản và Trung
Quốc là hai đối tác quan trọng của Mĩ, nhưng Mĩ đang luôn trong tình trạng
nhập siêu. Để hạn chế nhập siêu một mặt Mĩ thúc ép các nước này mở cửa thị
trường, mặt khác ký kết các hiệp định với các nước này nhằm đạt được những
thoả thuận trong thương mại đối với các sản phẩm viễn thông, dịch vụ ngân
hàng và bảo hiểm. Những hiệp định đó có thể giúp Mĩ giành được lợi thế và
giảm thâm hụt thương mại.
Châu á - Thái Bình Dương là khu vực kinh tế năng động, Mĩ đã đặt ra
những mục tiêu to lớn nhằm liên kết nhiều mặt với 20 nền kinh tế, hướng diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC) vào mục tiêu kinh tế
của Mĩ trong tầm dài hạn. Để tăng cường ảnh hưởng của mình tại khu vực
này, Mĩ đặt lợi ích kinh tế lên ngang tầm với lợi ích an ninh. Tự do hoá


thương mại và đầu tư trong khuôn khổ rộng lớn hơn là con đường tạo ra nhiều
cơ hội và việc làm cho lao động Mĩ, tiếp thêm sức sống cho các nền kinh tế
ven bờ Thái Bình Đương và tất nhiên Mĩ sẽ là quốc gia thu được nhiều lợi ích
hơn cả về kinh tế và an ninh chính trị.

Tóm lại, những thành quả đạt được của kinh tế Mĩ trong những năm
qua, những lợi thế đó vẫn tiếp tục được duy trì trong thập kỷ tới, có thể nói là
nhờ những thay đổi cơ chế điều tiết kinh tế sau đây:
- Kinh tế Mĩ chuyển đổi nhanh từ nền kinh tế công nghiệp sang nền
kinh tế mới. Trong nền kinh tế đó các hàng hoá được sản xuất ra có
hàm lượng vốn và công nghệ cao, khả năng cạnh tranh các loại
hàng hoá đó tren thị trường thế giới được nâng lên.
- Sự can thiệp trực tiếp của nhà nước lên các hoạt đọng kinh tế ngày
càng giảm đi. Như vậy sẽ giảm được các khoản chi từ ngân sách
quốc gia, từ đó có thể giành các khoản đầu tư cho các nghành kinh
tế khác, cho dịch vụ công cộng và hỗ trợ cho khu vực sản xuất nông
nghiệp.
- Đã có sự thay đổi rất lớn về cơ cấu tài chính hầu hết các tổ chức tài
chính truyền thống đã nhưỡng chỗ cho các quỹ vốn liên doanh và
địa phương. Những công ty tài chính lớn thế hệ mới ra đời và đang
đóng vai trò rất quan trọng trong chương trình đầu tư phát triển.
- Trình độ quản lý của các công ty Mĩ ngày cành hoàn thiện. Cùng
với sự phát triển của mạng thông tin, nhiều cải tiến đề xuất về công
tác quản lý mới được đưa ra để thích ứng với nền kinh tế tri thức
trong xu thế toàn cầu hoá mới theo phương châm lấy tri thức toàn
cầu làm nền tảng
- Địa vị của thung lũng Silicon trong thế giới hiện đại được đánh giá
rất cao. Then chốt thành công của các thung lũng Silicon không


phải hoàn toàn dựa vào yếu tố kỹ thuật mà các yếu tố nhân văn có
quan hệ mật thiết. Trong các nhân tố này bao gồm truyền thống
sáng tạo của Mĩ, mạo hiểm thử sức hào phóng với đầu tư và tính
khoan dung đối với thất bại. Bằng cách đó hội tụ được các nhân tài
khắp đất nước và trên thế giới.

Tuy có nhiều lợi thế như đã trình bày theo kịch bản lạc quan dự báo ở
trên, Kinh tế Mĩ vần phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức và nguy cơ
từ bên ngoài đe doạ trực tiếp đến an ninh kinh tế-xã hội quốc gia. Bên cạnh
các biến động kinh tế như: nhu cầu tiêu dùng tăng mà hàng trong nước không
đáp ứng được nên nhập khẩu tăng; giá đồng đôla tăng so với đồng yên và
đồng euro; giá chứng khoán tiếp tục giảm sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế vì Mĩ có tới 39% vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán; nguy
cơ về khủng hoảng kinh tế vẫn luôn tiềm ẩn. Đặc biệt, kể từ sau vụ khủng bố
kinh hoàng ngày11-9, diện mạo kinh tế Mĩ đã có những thay đổi ngoài dự
kiến. Chưa có khi nào nước Mĩ lại bị đe doạ nghiêm trọng như thế. Do đó
trong bảng công bố chi tiêu ngân sách năm 2003,ngân sách quân sự của Mĩ đẫ
lên đến 397 tỷ USD, tăng 48 tỷ USD với lý do chống khủng bố, cụ thể là xây
dựng hệ thống phòng thủ, tiến hành chiến tranh ở Afganistan, chuẩn bị lực
lượng sẵn sàng gây chiến ở Irắc...Để thực hiện được tham vọng này, chính
quyền Bush đã thúc ép Cục dự trữ liên bang thắt chặt chính sách tài chính tín
dụng bằng cách cắt giảm lãi suất, do đó đồng đôla đã sụt giá đáng kể so với
các đồng tiền mạnh như euro, yên..., nhập khẩu tất nhiên sẽ tăng do mức tiêu
dùng của thị trường nội địa đang tăng. Khi nhập khẩu tăng, giá hàng hoá tiêu
dùng, và giá nguyên liệu, giá dầu cũng sẽ tăng và sẽ đẩy tỷ lệ lạm phát lên
cao. Kèm theo đó khi ngân sách cho quốc phòng tăng nhanh thì khoản đầu tư
cho chương trình phát triển, nghiên cứu khoa học, thiết kế thử nghiệm phục vụ
dân sinh và các khoản phúc lợi xã hội cũng bị cắt giảm, tất yếu sẽ ảnh hưởng


×