Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Triết học Phật Giáo và ảnh hưởng của đạo Phật đối với xây dựng đời sống con người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.82 KB, 27 trang )


THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Triết học phật giáo

I. Thế giới quan Phật giáo.

OBO
OKS
.CO
M

Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4
luận thuyết cơ bản: thuyết vô thờng, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết
nhân duyên khởi.

1. Thuyết vô thờng.

Vô thờng là không thờng còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thờng
chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì
là thờng trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tởng sự vật là
yên tĩnh, là bất động nhng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến
không ngừng. Sự chuyển biến ấy diễn ra dới hai hình thức.
a) Một là Sátna( Kshana ) vô thờng: là một sự chuyển biến rất nhanh,

trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một
niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna
để chỉ một khoảng thời gian hết sức ngắn.

b) Hai là: Nhất kỳ vô thờng. Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự

vô thờng thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn


ngủi, thờng là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thờng thứ hai.
Nhất kỳ vô thờng là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ,
chuyển sang một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật:
Thành - Trụ - Hoại - Không.
hoại, không.

KI L

Vạn vật đợc cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành,
Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ vũ trụ kéo dài hàng triệu năm, một
cây có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ đợc hàng trăm năm,
bông hoa phù dung chỉ trụ trong một ngày - sớm nở, chiều tàn. Xung quanh ta
sự vật chuyển biến không ngừng. Theo luật vô thờng, không phải khi sinh ra

1



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, từng
Satna, vạn vật sống để mà chết và chết để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên
tục với nhau bất tận nh một vòng tròn.

OBO
OKS
.CO
M

Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không

ngừng chuyển biến. Nh dòng nớc thác, nh bọt bể, trong Satna này, trong
tâm ta nổi lên một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể
khơi lên một ý niệm ác. Tâm ta luôn luôn chuyển biến nh thế Phật gọi là tâm
phan duyên. Trong kinh Thủ năng Nghiệm quyển một Phật gọi cái tâm phan
duyên ấy là cái tâm biết cái này, nghĩ cái khác, cái tâm vọng động do duyên
với tiền trần mà có, theo cách trần mà luôn luôn thay đổi, chuyển biến mà
không Satna nào ngừng.

Không những tâm, thân ta chuyển biến mà các hình thái xã hội theo thời
gian cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên thuỷ --> Xã hội chiếm hữu nô
lệ --> Xã hội phong kiến --> Xã hội t bản --> Xã hội XHCN. Đó là quy luật
xã hội và cũng không phù hợp với thuyết vô thờng của Đạo Phật.
Thuyết vô thờng là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ
sở của lý luận cho phơng thức sống, cho triết lý sống của những con ngời tu
dỡng theo giáo lý phật.

Trong thế gian có những ngời không biết lý vô thờng của Phật, có những
nhận thức sai lầm về sự vật là thờng còn, là không thay đổi, không chuyển
biến. Nhận thức sai lầm nh thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn giác. Vì
nhận thức thân ta là thờng còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để

KI L

hởng thụ, để thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thờng tác động đến bản
thân thì sinh ra phiền não đau khổ.
Ngợc lại, nếu thấu lý vô thờng một cách nông cạn, cho chết là hết, đời
ngời ngắn ngủi, phải mau mau tận hởng những thú vui vật chất, phải sống
gấp, sống vội. Cuộc sống nh thế là sống trụy lạc, sa đọa trong vũng bùn của
ngũ dục, sống phiền não đau khổ trớc sự chuyển biến của sự vật, trớc sự
sinh- trụ, dị diệt, trớc sự thành, trụ hoại không nó diễn ra hàng ngày.

2. Thuyết vô ngã.
2



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Từ thuyết vô thờng. Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta. Thực
ra làm gì cũng có cái ta trờng tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không
ngừng, biến chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.

OBO
OKS
.CO
M

Một câu hỏi đợc đặt ra vậy cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta
bất biến ? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần:
Cái ta sinh tức thân.

Cái ta tâm lý tức tâm.

Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố
của bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong.

Địa đại là cái đặc cứng nh tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt, các
cơ, xơng, tủy, tim gan, thận,...

Thủy đại là những chất lỏng nh mật ở trong gan, máu, mồ hôi, bạch
huyết, nớc mắt,...


Hoả đại là những rung động của cơ thể nh hơi thở, chất hơi ở trong dạ
dầy, ở ruột.

Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhng thứ đó, những thứ đó
không thuộc về ta.

Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn bởi sự
kết hợp của da thịt, cũng nh cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không gian
giới hạn bởi gỗ, tranh, bùn để trát vách mà thôi.

Tứ đại ( địa, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh, thoáng là
của ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau trở về thể

KI L

của nó thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái ta đợc nữa. Cho nên cái mà ra
gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tởng, một nhất hợp sinh lý mà thôi.
Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với sắc ấm
che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy đợc cái ta chân thực cái ta Phật
tính, cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm giác,
suy tởng, là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ, dục.

3



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Thuyết vô ngã làm cho ngời ta không còn ai tin là có một linh hồn vĩnh
cửu, tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một linh
hồn dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.


OBO
OKS
.CO
M

Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh ra
những tình cảm, những t tởng ích kỷ, những tham dục vô bờ của những kẻ
dựa vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà họ coi là
thờng còn, bất biến. Còn đối với những ngời bị hà hiếp, bị bóc lột thì sự mê
tín có cái ta vĩnh cửu dẫn đến t tởng tiêu cực, chán đời phó mặc cho số
mệnh, hy vọng làm lại cuộc đời ở kiếp sau.

Hai thuyết vô thờng, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật. Chấp
ngã chấp có cái ta thờng còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là đầu
mối của luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con ngời. Căn cứ trên hai thuyết
vô thờng và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một phơng thức sống, một
triết lý sống lấy vị tha làm lý tởng cao cả cho cuộc sống của mình, hay nói
một cách khác một cuộc sống một ngời vì mọi ngời, mọi ngời vì một
ngời.

3. Thuyết Lý nhân duyên sinh.

Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự
vật vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành,
sự vật, vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.

Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Nh cây
lúa thì hạt lúa là nhân, nớc, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là


KI L

duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tợng đều
nơng nhau mà hành động. Nói nơng nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết
hợp, chi phối, ảnh hởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên. Nói về thứ
nhân duyên trong kinh Phật có câu:
Nhợc sử hữu, tắc bỉ hữu.

Nhợc sử sinh, tắc bỉ sinh.
Nhợc thử vô, tắc bỉ vô.

Nhợc thử diệt, tắc bỉ diệt.
4



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Có nghĩa là:
Cái này có thì cái kia có.
Cái này sinh thì cái kia sinh.

OBO
OKS
.CO
M

Cái này không thì cái kia không.
Cái này diệt, thì cái kia diệt.

Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau,

không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.

Sự vật chỉ có một cách giả tạo, một cách vô thờng.
. Nhân duyên hội họp thì sự vật là có .

. Nhân duyên tan dã thì sự vật là Không .

Ngời thế gian không tu dỡng tởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là
vĩnh viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật ( sinh mệnh, danh vọng, tiền
tài...). Nhng thực ra các pháp là vô thờng, là chuyển biến và khi tan dã thì
ngời thế gian thơng tiếc, đau khổ.

Thế giới vũ trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng
trùng điệp điệp. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hoà hợp mà
có, một cáh giả hợp mà sinh ra. Bởi thế tìm kiếm đến cùng cũng không thấy
vạn pháp có thủy và xét đến muôn đời cũng không thấy vạn pháp có
chung . Vạn pháp là vô thủy, cái nguyên nhân đầu tiên của các pháp hay cái
chung cùng của sự vật.

Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hoà
hợp, sự vật là h giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Nh vậy con ngời làm

KI L

chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình.

Cuộc sống của con ngời có tơi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ là
đều do nhân duyên mà con ngời tạo ra. Với nhận thức nh vậy, con ngời
tìm đợc một phơng thức sống, một cách sống cho ra sống, sống vì hạnh
phúc của mọi ngời, sống an lạc, tự tại, giải thoát.

4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả.
Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là một trong những
thuyết cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trơng không bao giờ tự nhiên mà có,
5



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
mà sinh ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng thiêng
liêng nào tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái nguyên
tạo ra quả đợc.

OBO
OKS
.CO
M

nhân một mình cũng không tạo ra đợc sự vật mà phải có đủ duyên thì mới
Ngời ta nói rằng: Trồng đậu đợc đậu.
Trồng da đợc da.

Nhng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn
nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân
gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể
biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác.

Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh
hởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.
Trong nhân lại có mầm mống của quả sau này nhng quả không nhất định
phải đúng nh nhân vì duyên có thể mang lại sự biến đổi cho quả - Đó là

thuyết Bất định pháp trong luật nhân quả.

Sự vật là bất định, ngời tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dỡng và tiến
tới trên con đờng giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì mỗi ý
nghĩ của tâm ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta cũng là
những hạt nhân của chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi gặp đủ
duyên sẽ nảy nở thành quả.

Theo danh từ Phật học, những hạt nhân này gọi là nghiệp. Gieo nhân tức là
gây nghiệp: ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp. Kết quả đền đáp những hành

KI L

động nói trên phật gọi là nghiệp báo. Thời gian giữa gieo nhân và hái quả có
thể dài ngắn khác nhau. Vì vậy có nhân quả đồng thời: Tức là nhân quả nối
liền nhau, vừa tạo nhân, quả liền phát sinh không phải đợi một thời gian sau
mới thành thục. Lại có nhân quả dị thời: Tức là nhân tạo ra đời trớc, đời sau
mới kết thành quả.

Ngời nào gieo nhân, ngời ấy hái quả, không một hành động nào, thiện
hay ác, dù nhỏ đến đâu, dù ta khôn khéo bng bít, giấu giếm đến mức nào
cũng không thể thoát khỏi cán cân nhân quả. Ngời học Phật, tu Phật chân
6



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
chính thấm nhuần thuyết nhân quả phải là ngời có đạo lý, không thể nào
khác đợc.
Với những luận thuyết cơ bản nh trên đã hình thành nên thề giới quan phật


OBO
OKS
.CO
M

giáo. Phật quan niệm các hiện tợng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển không
ngừng theo quy luật nhân duyên. Một hiện tợng phát sinh không phải là do
một nhân mà do nhiều nhân và duyên. Nhân không phải tự mà có mà do nhiều
nhân duyên đã có từ trớc. Nh vậy một hiện tợng có liên quan đến tất cả các
hiện tợng trong vũ trụ.

Kinh Hoa Nghiêm có ghi:
Nhất tức đa.
Đa tức nhất.

Nhất tức nhất thiết.

Nhất thiết tức nhất.
Có nghĩa là:
Một tức là nhiều.
Nhiều tức là một.
Một là tất cả.
Tất cả là một.

Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật
có danh có tớng, có thể nhận thức đợc, ý niệm đợc. Cảm giác đợc hay
dùng ngôn ngữ luận bàn, đợc đều đợc Phật gọi là pháp. Các pháp đều thuộc
một giới gọi là Pháp giới. Bản tính của pháp giới là các pháp duyên khởi ra


KI L

nhau. Tính ấy là tính của pháp giới nên gọi là pháp giới tính. Do pháp giới tính
là bản tính của các pháp nên gọi là chân, vì vậy pháp giới tính còn gọi là chân
nh tính.

Giác ngộ đợc chân nh tính thì gọi là tự giác, nhng thế thì cha nhận thức
đầy đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ đợc bản lai
tự tính còn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trờng hợp khác để thấy
đợc cái dụng to lớn của pháp giới tính.

7



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Nh vậy, ngời tu hành chỉ khi nào công hạnh giác tha đợc viên mãn lúc
đó mới chứng thực đợc toàn thể, toàn dụng của pháp giới tính. Nói một cách
đợc pháp thân.

OBO
OKS
.CO
M

khác là chứng đợc toàn thể của sự vật gồm cả ba vẻ: thể, tởng, dụng, chứng
II. Nhận thức luận Phật giáo.

1. Bản chất, đối tợng của nhận thức luận.


Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn đối
tợng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tợng, là cả vũ trụ.
Vạn vật là vô thuỷ vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật
cuối cùng. Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu
nếu không có quan hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập đợc. Để diễn đạt
ý trên, một thiền s đã dùng hai câu thơ:

Càn khôn tận thị mao đầu thợng.
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung.

Có nghĩa là:

Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu.

Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.

Nh vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai
trạng thái của tâm, của năng lợng khi ở thể tiềm tàng.

Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tợng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong
đạo Phật để thấy đợc quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thờng ngời ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh phật có

KI L

câu Nhất thiết duy tâm tạo . Nhng chữ duy tâm ở đây không phải là
duy tâm trong triết học Tây Phơng nên ta không thể nhận định nh trên. Chữ
tâm trong đạo Phật có nghĩa là một năng lợng, nó làm bản thể cho tất cả mọi
hiện tợng tâm lý, cho mọi hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn
vật. Khi ta phân tích, chia chẻ một vật đến một phần tử nhỏ nhiệm nhất, đến

phần cuối cùng thì phần tử ấy là bản thể mà ở đây cũng có vật có chất nên đâu
đâu cũng thấy có bản thể, vì vậy tâm cũng lại là to lớn vô biên.

8



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nơng vào hiện tợng sinh lý, vật lý.
Nói nơng nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tợng sinh lý, vật lý
sinh ra các hiện tợng tâm lý.

OBO
OKS
.CO
M

Hiểu nh vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những
hiện tợng sinh lý vật lý và những hiện tợng tâm lý ấy chỉ tơng sinh tơng
thành.

2. Quy trình, con đờng và phơng pháp nhận thức.

Sự nhận thức phát triển theo hai con đờng t trào: Hờng nội và hớng
ngoại. Phật giáo thờng quan tâm đến t trào hớng nội tức là mỗi ngời tự
chiêm nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phơng pháp để nhận thức là :
. Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là trí
hữu s.

. Đốn ngộ : là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là trí vô s .

Với hai phơng pháp ấy sự nhận thức Phật giáo đợc chia làm hai gia đoạn:
Giai đoạn một là từ tuỳ giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm giác và
phụ thuộc vào cảm giác đa lại. Kết quả là con ngời biết đợc cái tiếp xúc
giữa thế giới khách quan và giác quan của con ngời và từ sự tiếp xúc này tạo
nên yếu tố thọ trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là sự tiếp
xúc của sáu căn với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những khả
năng nhận thức của các giác quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên
ngoài. Nếu kích thích tơng ứng với các căn thì con ngời có cảm giác. Sáu
căn là : nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu trần là: sắc, thanh, hơng, vị, xúc,

KI L

pháp. Thọ, cho chúng ta nhận biết đợc những hiện tợng riêng lẻ, những
cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số trờng hợp khác gọi đó là kinh
nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm nêu trên, con ngời sẽ đi sâu
để nhập vào bản thể của sự vật để biết đợc cái bên trong, bản chất đó là tri
thức định lý.

Giai đoạn hai sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết quả
của giai đoạn trớc , con ngời bắt đợc cái tâm tính của những sự vật hữu

9



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
hình tái thế và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con ngời và nâng lên để nắm
đợc cái tâm siêu thoát, cái tâm trung.
Để đạt đợc sự nhận thức đó thì có nhiều phơng pháp song hai phơng


OBO
OKS
.CO
M

pháp sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
Tam học là giới, định, tuệ.

.Giới: Gồm có nhứng phơng tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt
hàng ngày của con ngời sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hớng về
thiện.

.Định: là đình chỉ mọi t tởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung t tởng
suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.

.Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu đợc lý vô thờng, vô ngã, do đó chỉ nghĩ
đến làm việc thiện, mu lợi cho chúng sinh.
.Tam huệ: là văn, tu, t.

Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm đợc bản tính thanh
tịnh, sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
T : là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe đợc, học đợc đi đến giác ngộ
bản lai t tính của mình.

Tu: là nơng theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận đợc bản tính chân nh, mà tụ
tập gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một
pháp giới tính.

Các phơng pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp pháp
để đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với nhận


KI L

thức nh thế, ngời tu hành sẽ đợc sống trong sự giải thoát, sinh tử luân hồi
sẽ không còn nữa.

III. Nhân sinh quan Phật giáo.
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật
duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô thờng,
vô ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn
đề nhân sinh quan. ở đây chúng ta sẽ lần lợt trả lời các câu hỏi:

10



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Con ngời là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ?

Vị trí của con ngời trong Đạo Phật.
Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ....

Phật là gì ?

OBO
OKS
.CO
M

Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo


Trớc khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu
đế vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.

1. Tứ diệu đế:

Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu
tiên của Phật sau khi thành đạo tại vờn Lộc giã cho năm từ khu trớc kia đi
theo Phật.

Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của
các thuyết khác trong giáo lý Phật.

Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế:

Trong tứ đế, Phật đa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao
mà khổ , phơng pháp diệt khổ và con đờng đi đến diệt khổ.
Nói nh thế có ngời hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trơng cuộc đời chỉ
toàn là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một
cách khách quan, không ru ngời ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và
cũng không làm cho ngời ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc
sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tớng của nó

KI L

và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát.

Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thờng dịch là khổ là cha thật hết
nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.

Trong phép tớng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ.
Nh vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch
sinh ra khổ thụ nhng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể
làm cho ngời ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không
phủ nhận những cảm giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra
11



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
nhiều hình thức vui. Nhng những cái vui ấy, cũng nh những cái khổ ấy đều
bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng nh những cái khổ ấy
đều là vô thờng h giả.

OBO
OKS
.CO
M

Dù ngời tu hành chứng đợc những trạng thái thiền định cao siêu thì
những lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những ngời tu hành ấy cha
thoát khỏi tam giới vô thờng, h giả.

Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái
Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui nh thế gian thờng hiểu,
thờng lầm.

Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô
thờng chi phối nên khổ.


2, Lão khổ: ngời ta mong muốn trẻ mãi nhng cái già theo thời gian vẫn
cứ đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào
da, xơng tủy thì da nhăn nheo, xơng tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì
suy yếu đến ấy làm cho ngời ta phiền não.

3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thờng ốm đau, nhất là khi già yếu,
thân thể suy nhợc, bệnh tật dễ hoành hành làm cho ngời ta đau khổ.
4, Tử khổ : Là cái khổ khi ngời ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái
thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi nh cái thân duy nhất của mình thì khi
chết thì phiền não vô cùng.

5, Cầu bất đắc khổ: Ngời ta thờng chạy theo những điều mình a thích,

KI L

mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi cha cầu đợc thì phiền não, khi cầu
đợc rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6, ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên
mình.

8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tởng ấm, hành ấm,
thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lợng
kiếp.
12



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN

b. Tập đế:

Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những
nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta.
1.Tham lam.
2.Giận dữ.
3.Si mê.
4.Kiêu mạn.
5.Nghi ngờ.

OBO
OKS
.CO
M

Nguyên nhân thì có nhiều nhng có thể tóm lại nh sau:

6.Thân kiến ( tởng thân thể là thực có là trờng tồn).

7.Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt nh chấp đoạn, chấp thởng ).
8.Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ).

9.Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng).
10.Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).

Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn
gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh đợc
thể hiện trong công thức sau:

Nghiệp


ái dục + Vô minh > Sự khổ.

ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trớc những cảnh
yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên
rong ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ớc muốn.

KI L

Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tợng trụ không
nhận rõ chân tớng, thực tớng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô
thờng mà lại lầm tởng các hiện tợng đó là thực có, là thờng còn. Vô minh
che lấp ta không nhận thấy đợc chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm,
làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có ngời của ta và thấy quý thân ta, không
quan tâm đến ngời sống quanh ta.
Nghiệp là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân
nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
13



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của
ta cũng gây nghiệp báo. Những việc nh : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì không
gây nghiệp báo.

OBO
OKS
.CO
M


Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.

Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho ngời và đem lại quả báo tốt cho
mình.

Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngơi và đem lại quả báo xấu cho
mình.

Nh vậy, Phật đặt số mệnh của con ngời trong chính tay họ. Tự con ngời
đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đa ra lý thuyết thập nhị nhân
duyên để thấy đợc nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi
dây liên tục nối tiếp con ngời trong vòng sinh tử luân hồi đó là:
1. Vô minh
2. Hành

5. Lục nhập

9. Thù

6. Xác

3. Thức
4. Danh sắc.

10. Hữu

7.Thụ

11.Sinh


8.ái

12. Lão tử.

Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ
nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên
nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái
khác, nh làn sóng trên mặt biển, lớp trớc là lớp nhân là duyên cho lớp sau và
cứ thế tiếp diễn. Nhng cái hạn chế của tập đế là cha đề cập đến nguyên
nhân từ xã hội. Đặc biệt là cha nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã

KI L

hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hớng nội hớng nội trong nhận thức
luận Phật giáo.
c. Diệt đế:

Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết
không còn luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn
khởi lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
14



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thờng - Lạc - Ngã - Tịnh.
Thờng là thờng còn, không biến đổi.

Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.

OBO
OKS
.CO
M

Ngã là chân ngã, chân thực, thờng còn.

Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.

Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não đợc thực hiện không phải ở một
nơi nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ
sự tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng
thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.

Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận
và si mê thì môn đệ đã đến đợc bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó,
con ngời phải dày công tu dỡng, xoá bỏ đợc lửa dục, lửa sân, lửa si mê để
chứng đợc cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
d. Đạo đế:

Đạo đế là con đờng, là môn pháp hớng dẫn cho chúng sinh đạt đợc đến
quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.

Pháp môn tu dỡng ra khỏi luân hồi sinh t rất nhiều, nhng thờng đợc
đề cao là phơng pháp 37 đạo phẩm.
Phơng pháp này gồm có:
1.Tứ niệm xứ: 4.
2.Tứ chính cần: 4.

3.Tứ nh ý túc: 4.
5.Ngũ lực:

5.

KI L

4.Ngũ cân:

5.

6.Bát chính đạo: 8.
7.Thất giác :

7.

Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đờng giúp
ngời ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc.
Bát chính đạo gồm có:
1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.

15



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi ngời.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đờng đạo, không đi vào các đờng tà.


OBO
OKS
.CO
M

5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những

kiến chấp mê lầm, đoạt trừ những t tởng, hành động bất chính.
6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ

xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.

7. Chính kiến : kết quả của việc sống, t duy con ngời phải có ý biến lấy

tiêu biểu là các vị Phật.

8. Chính t duy: Sau khi có niệm khởi, con ngời sẽ t duy, suy nghĩ một

cách chân chính, làm chủ đợc dòng t duy.

Để đi qua tám con đờng trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ
hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ xung
cho nhau.

1.Giới học: là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích để
kiềm chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phơng tiện để thay đổi lối suy
nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con ngời, hớng con ngời sống theo đạo,
thích hợp với đạo, tức là luôn hớng về thiện .

Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho ngời tu hành tại gia, tu xuất gia, cho

nam giới, nữ giới, cho ngời mới vào đạo và ngời tu lâu ngày. Ngời tu hành
phải giữ giới nghiêm túc thì mới định đợc. Nếu không giữ đợc tất con ngời
luôn bị vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định đợc.

KI L

2. Định học là đình chỉ mọi t tởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát

sinh những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung t
tởng, suy nghĩ làm những việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo
điều kiện cho tuệ phát ra.

3. Tuệ học : là trí tuệ sáng suốt của ngời tu hành đã diệt đợc dục vọng,

đã diệt đợc tam độc là tham, sân, si, đã thấu đợc lý vô thờng, vô ngã do đó
chỉ nghĩ đến làm điều thiện, mu lợi cho chúng sinh.

16



THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRỰC TUYẾN
Víi ph¸p tø diƯu ®Õ PhËt mn cho chóng sinh thÊy 2 c¶nh giíi kh¸c nhau
lµ NiÕt Bµn vµ Th©n Lơy: mét con ®−êng gi¸c ngé, an l¹c vµ mét con ®−êng
mª lÇm téi lçi. Vµ cïng ph−¬ng ph¸p tø diƯu ®Õ, b©y giê chóng ta cã thĨ tr¶

OBO
OKS
.CO
M


lêi ®−ỵc c¸c c©u hái ®· ®Ỉt ra ë trªn.

2. Nh÷ng quan ®iĨm vỊ nh©n sinh quan PhËt gi¸o.
a. Con ng−êi:

Con ng−êi lµ sù kÕt hỵp cđa ngò n( s¾c, thơ, t−ëng, hµnh, thøc) gåm hai
u tè chÝnh: u tè sinh lý( s¾c) vµ u tè tinh thÇn ( thơ, t−ëng, hµnh, thøc).
Ỹu tè tinh thÇn chØ ph¸t huy t¸c dơng khi nã ®−ỵc g¾n víi mét th©n thĨ.
S¾c th©n chØ tån t¹i trong mét thêi gian råi bÞ hủ diƯt.

Nh− vËy, con ng−êi chØ lµ mét gi¶ hỵp sinh lý tu©n theo quy lt: sinh, tơc,
dÞ, diƯt.Con ng−êi lµ do nh©n duyªn hoµ hỵp, kh«ng cã mét ®Êng tèi th−ỵng
siªu nhiªn t¹o ra con ng−êi còng nh− con ng−êi kh«ng ph¶i tù nhiªn mµ sinh
ra. Khi nh©n duyªn hoµ hỵp th× con ng−êi sinh, khi nh©n duyªn tan r· th× con
ng−êi chÕt. Song chÕt ch−a ph¶i lµ hÕt, linh hån còng kh«ng bÊt tư chun tõ
kiÕp nµy sang kiÕp kh¸c. Con ng−êi ë kiÕp nµy sinh ra th× con ng−êi ë kiÕp
tr−íc diƯt, nh−ng con ng−êi ë kiÕp sau kh«ng ph¶i lµ con ng−êi ë kiÕp tr−íc
nh−ng còng kh«ng kh¸c víi con ng−êi ë kiÕp tr−íc. Con ng−êi kh«ng ph¶i lµ
mét thùc thĨ tr−êng tån mµ chØ lµ mét gi¶ hỵp cđa ngò n. Trong thêi gian
ngò n kÕt hỵp, c¸c viƯc thiƯn, ¸c ®−ỵc thùc hiƯn. Con ng−êi g©y nghiƯp vµ
t¹o ra mét ®éng lùc lµm xt hiƯn nghiƯp b¸o ë kiÕp sau.

Tõ nhËn thøc trªn, con ng−êi tu PhËt lóc nµo còng ph¶i cÈn thËn trong mét

KI L

ý nghÜ, lêi nãi viƯc lµm.

b. Nh©n vÞ trong ®¹o PhËt.


§¹o PhËt lµ ®¹o chđ tr−¬ng tù do, b×nh ®¼ng, tõ bi, b¸c ¸i. ë mét thêi ®¹i cỉ
x−a c¸ch chóng ta trªn 25 thÕ kû PhËt ®· cã mét quan niƯm hÕt søc tiÕn bé ®èi
víi vÊn ®Ị b×nh ®¼ng trong x· héi. PhËt ®· tõng nãi:
“ Kh«ng cã ®¼ng cÊp trong dßng m¸u ®á nh− nhau, trong dßng n−íc m¾t
còng mỈn nh− nhau. Mçi ng−êi sinh ra kh«ng ph¶i ai còng mang s½n d©y
chun ë cỉ hay dÊu tica trªn tr¸n ( dÊu hiƯu ®¼ng cÊp cđa Ên §é ) ”.
17



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Và những quan niệm đó đợc Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình.
Phật thu nạp vào giáo hội của Ngời tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt
sang hèn, giàu nghèo. Những ngời ở tầng lớp dới sau khi tu đắc đạo đã đợc
lòng kính mến.

OBO
OKS
.CO
M

các đệ tử khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng phải tỏ
Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con ngời với con ngời mà Phật còn
đi xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính nh nhau
và đang cùng nhau: ngời trớc, vật sau, tiến bớc trên con đờng giải thoát.
Tự do theo quan niệm của Phật là con ngời sống trong an lạc, giải thoát,
không có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con ngời bị
ràng buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những
day dứt gây ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao,

cờng quyền, tham nhũng, tàn ác còn cha khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. Từ
đó, Phật chú trọng đến giải phóng con ngời ra khỏi xiềng xích của dục vọng
bằng phơng pháp tu hành diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với
bản thân mình để diệt trừ dục vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất
công.

Ngời ta gọi đạo phật là đạo từ bi, ngời tu hành là ngời giàu lòng từ bi.
Từ là hiền hoà, cho vui.

Bi là thơng xót, cứu khổ.

Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho ngời khác, cứu khổ, cứu nạn cho
chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhng từ bi không phải là

KI L

thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trớc mọi sự bất công,
áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ bi để
chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực, bạo lực
từ bi.

Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con ngời thực tâm tu
luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mu cầu lợi
ích cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích

18



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN

cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con ngời khỏi cuộc sống đau khổ trong
vô minh.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về

OBO
OKS
.CO
M

kinh tế nh lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt
tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con
ngời phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay đợc và mỗi ngời
phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.

Nh vậy, Đạo Phật đã đặt con ngời lên một vị trí hết sức quan trọng và cao
quý. Hạnh phúc của con ngời là do con ngời xây đắp nên. Con ngời thấm
nhuần giáo lý Phật, con ngời vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà
bình, an lạc, công bằng, mọi ngời sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con ngời ích kỷ chỉ biết mình, hại ngời, con ngời sống tàn bạo,
độc ác thì cái gì trong tay con ngời cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội

KI L

của những con ngời ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.

19



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN

Chơng III
ảnh hởng của đạo phật đối với xây dựng đời sống

OBO
OKS
.CO
M

con ngời Việt Nam.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ I sau công nguyên kết hợp với
phong tục, tập quán truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo
Việt Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật giáo ở Việt Nam không
ngừng phát triển, lớn mạnh và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong việc hình
thành đạo đức, nhân cách con ngời Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam. Những
ảnh hởng tích cực của Phật giáo vẫn đang đợc con ngời Việt Nam phát huy
để phục vụ cuộc sống. Song bên cạnh đó, Phật giáo cũng có những ảnh hởng
tiêu cực. Trong chơng này chúng ta sẽ đi sâu phân tích các vấn đề trên.
I. Đạo phật với việc hình thành nhân cách con ngời

Việt Nam.

Phật giáo là một tôn giáo, nh các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có
giáo lý và hoạt động tín ngỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về thế
giới và con ngời, về cách thức tu luyện và hoạt động tín ngỡng, là những
hành vi, những nghi lễ cần phải thực hiện để đạt tới ớc nguyện. Cả hai đều có
ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách của các tín đồ.

Hơn lúc nào hết, trong mấy chục năm qua ngời Phật từ Việt Nam hiện nay


KI L

rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ chăm chú lên
chùa trong những ngày sóc, vọng; họ trân trọng và thành kính trong lúc thực
hành các nghi lễ; họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm thiện. Mặt
khác, nhà chùa luôn sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ nh giải oan, cầu
siêu. Tất cả những điều đó vừa củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa quy định t
duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.

20



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Con ngời Phật giáo nhìn sự vật trong mối quan hệ nhân quả, xem cái gì
cũng là kết quả của một cái trớc và là nguyên nhân của cái sau. Mỗi khi gặp
một sự việc hệ trọng có liên quan đến bản thân hay ngời nhà, họ đều nghĩ

OBO
OKS
.CO
M

đến nguyên nhân để tìm cách khắc phục. Học còn nhìn thế giới, xã hội con
ngời ở trong dòng vận động không ngừng, ở đó không có cái gì là tồn tại
mãi, cái gì cũng đang chuyển biến từ cái này sang cái khác. Khi ngời thân
trong gia đình lão già, yếu đau, chết chóc, họ đều xem đó là điều không thể
tránh khỏi và lấy đấy làm điều an ủi. Lý thuyết nhân duyên sinh, vô thờng,
vô ngã của nhà Phật đã chi phối ý nghĩ và hành động của họ.
Nhân cách Phật giáo đã góp phần làm nên nhân cách của con ngời Việt

Nam ngày nay. Nhân cách đó có tác dụng hai mặt. Mặt tích cực là chấp nhận
sự biến đổi của thế giới và con ngời, sống có nền nếp, trong sạch, giản dị,
quan tâm đến nỗi khổ của ngời khác, thơng ngời, vị tha, cứu giúp ngời
hoạn nạn, hành động thì lấy tự giác làm đầu... Mặt tiêu cực là nhìn đời một
cách bi quan, có pha trộn chất h vô chủ nghĩa, nặng về tin tởng ở quyền
năng và phép màu nhiệm của một vị siêu nhiên mà nhẹ về tin tởng năng lực
hoạt động của con ngời, nếp sống thì khổ hạnh và không tránh khỏi nơng
theo những nghi lễ thần bí. Đặc biệt là có hiện tợng mê tín dị đoan nh: Lên
đồng, đốt vàng mã, những đồ dùng bằng giấy. Những t tởng mê lầm đó vừa
phung phí tiền bạc, thời gian lại làm xuất hiện trong xã hội những loại ngời
chỉ dựa vào những nghề nghiệp ấy mà kiếm sống gây ra một sự bất công trong
xã hội.

KI L

Tuy nhiên, nhân cách con ngời Phật giáo có những điều phù hợp với xã
hội hiện nay. Nhng những điều đó chỉ giới hạn trong những trờng hợp nhất
định và chúng ta phải phát huy những mặt đó. Vợt qua những giới hạn đó, nó
sẽ có những mâu thuẫn với giáo lý và trở nên lạc lõng, mất hiệu quả. Vậy con
ngời am hiểu đạo lý, mến đạo, mộ đạo không phải chỉ là con ngời tu hành
một cách cần mẫn mà phải có cả phần trí tuệ để biết vận dụng giáo lý vào
cuộc sống một cách hữu ích. Hiểu đợc và làm đợc nh thế, con ngời sẽ
thấy đạo đức Phật đẹp đẽ và cao thợng biết bao.
21



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
II. Đạo phật đối với việc phát triển nền văn hoá Việt
Nam.


Nhìn vào đời sống văn hoá, tinh thần của xã hội Việt Nam trong những năm

OBO
OKS
.CO
M

qua, ta thấy hiện tợng Phật giáo đang đợc phục hồi và phát triển. Bên cạnh
sự phát triển ngày một lớn mạnh của kiến trúc hiện đại, Việt Nam vẫn phục
hồi kiến trúc cổ xa qua việc tu sửa lại những đền chùa, miếu mạo, những
danh lam thắng cảnh. Đó là những nơi mà dấu ấn của đạo phật thể hiện rõ
nhất.

ở thời nhà Lý, nghệ thuật kiến trúc đã đạt tới đỉnh cao với những công trình
mang tính quy mô to lớn, vợt hẳn thời trớc và cả những thời sau đó. Nh
nền chùa Quế Giạm ( Quế Võ- Hà Bắc) trải rộng trên một diện tích với những
vết tích còn lại gồm ba cấp trải rộng trên một diện tích gần 120 mét, rộng 70
mét. Các ngôi tháp đời lý gồm nhiều tầng, cao chót vót: Tháp Bảo - thiên cao
vài mơi trợng ( khoảng trên 60 mét) gồm 12 tầng, tháp Sùng-thiện-diênlinh ( chùa Đọi, Duy Tiên, Nam Hà) cao 13 tầng, tợng Phật Di-lặc chùa
Quỳnh Lâm( Đông Chiều, Quảng Ninh) cao 6 trợng, khoảng 20 m. Chùa
Một Cột là một sách tạo về nghệ thuật, tợng trng cho 1 toà sen nở trên mặt
nớc. Những kiến trúc đó thờng hoà hợp với cảnh trí thiên nhiên chung
quanh tạo nên một khung cảnh kiến trúc hài hoà với ngoại cảnh.
Nghệ thuật kiến trúc của đời Lý lại đợc đời Trần kế tục truyền thống và
phát triển mang tính chất phóng khoáng, khoẻ và hiện thực hơn. Tháp Phổ
Minh, Bình Sơn là những công trình kiến trúc có giá trị ở đời Trần, Tháp Bình

KI L


Sơn cao 11 tầng, có bố cục chặt chẽ cân xứng.

Sang đời nhà Nguyễn nghệ thuật kiến trúc có chiều hớng ngày càng sa sút,
tuy nhiên cũng có những sáng tạo nhất định nh Văn Miếu ( Hà Nội) và một
số đình, chùa ở các làng. Đỉnh cao của kiến trúc nhà Nguyễn là chùa Tây
Phơng( Thạch Thất, Hà Tây) xây dựng thành ba lớp là lối kiến trúc phổ biến
của các chùa trong nam. Chùa Tây Phơng cũng là nơi tập trung nhiều pho
tợng có giá trị, trong đó nổi tiếng nhất là chùa Tuyết Sơn và mời tám vị La

22



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Hán. Các bức tợng lấy đề tài trong sự tích đạo Phật nhng vẫn thế hiện những
con ngời Việt Nam Hiện thực và gợi cảm.
Ngày nay, những nghệ thuật, kiến trúc đó vẫn còn tồn tại và đợc trùng tu,

OBO
OKS
.CO
M

sửa sang để làm nơi du lịch của khách thập phơng và nơi lễ bái của nhân dân
trong vùng. Những công trình đó tuy mang đậm dấu ấn Phật giáo nhng vẫn là
sáng tạo nghệ thuật dân gian phản ánh đời sống tinh thần của con ngời Việt
Nam xa.

III. Đạo phật với chiến tranh và hoà bình ở Việt Nam.
Đạo Phật chủ trơng từ, bi, hỷ, xả. Xã hội loài ngời thực hiện đợc bốn


chữ từ, bi, hỷ, xả trong cuộc sống hàng ngày là một xã hội an lạc, hạnh
phúc.

Đạo Phật chủ trơng một cuộc sống vị tha, một cuộc sống hoà hợp, loại

trừ mọi oán thù. Lịch sử Phật giáo chứng minh, trong suốt 2500 năm truyền bá
trong khắp cõi á Đông. Đạo Phật không làm rơ một giọt máu nào.
Trong giáo lý Phật, ở phần giới luật, giới thứ nhất là giới sát: với giới luật

này, chúng ta càng thấy rõ đạo Phật chủ trơng ôn hoà, hoà bình và hoà hợp
giữa các dân tộc, không muốn cho chúng sinh nói chung, loài ngời nói riêng
tàn sát lẫn nhau. Nhng ở đây chúng ta phải hiểu giới sát với đúng tinh thần
trong giáo Phật.

Giới sát có nghĩa là giới bất tàn sát.

Tàn sát có nghĩa là giết hại chúng sinh một cách hung ác, tàn bạo. Giáo lý
Phật căn cứ vào tâm ý để phân biệt thiện ác mà không căn cứ vào hành động.

KI L

Nói thế có nghĩa là một hành động chỉ đợc coi là thiện, ác khi căn cứ vào
hành động ấy mà mu đồ làm hại cho ngời khác hay cứu giúp ngời khác.
Trong kinh có câu: Nhất niệm khởi, thiện ác dĩ nhân. Muốn cho tâm niệm
mỗi khi khởi lên là một tâm niệm thiện thì Phật dạy đệ tử luôn phải giữ tâm
trong chính niệm .

Nh vậy, chúng ta phải hiểu giới sát đúng với thần trong giáo lý Phật và áp
dụng cho đúng. Nếu ta giết ngời với mục đích để diệt trừ quân xâm lăng

hung ác để bảo vệ dân nớc thì việc làm đó là việc thiện vì hành động của ta
23



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
xuất phát từ một ý niệm thiện. Chiến tranh giải phóng dân tộc của các nớc
chống xâm lợc để mang lại hoà bình, hạnh phúc cho nhân dân, mang lại độc
việc chính nghĩa.

OBO
OKS
.CO
M

lập, tự do cho dân tộc là một cuộc phóng sinh vĩ đại, là một việc thiện, một
Trái lại, nếu chúng ta giết ngời để thỏa lòng tham ác, để mu lợi ích kỷ
cho bản thân ta thì việc chém giết ấy là một việc ác, hành động ấy xuất phát
từ một ý niệm ác.

Chiến tranh xâm lợc do đế quốc tiến hành chống các nớc yếu hơn, phá
hoại độc lập, hoà bình, an ninh của các dân tộc, hủy diệt môi trờng sống là
một tội ác. Vấn đề căn cứ vào tâm, niệm để phân biệt thiện, ác là rất quan
trọng. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh những điều nói trên bằng các gơng
ngời thực việc thực.

Dới triều Lý và Trần, giặc Nguyên kéo đại quân gồm 30 vạn rồi 50 vạn
quân sang xâm lợc nớc ta tiến hành một cuộc chiến tranh đại dã man. Để
chống quân xâm lợc, Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,
những ông vua rất sùng đạo, yêu nớc này lại trở về sống tu hành ăn chay

niệm Phật.

Trong những năm gần đây, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp tiến hành hai cuộc
chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thấm nhuần giáo lý Phật nói
chung và luật giới sát nói riêng, Phật tử xuất gia ở 2 miền Nam - Bắc đã tham
gia trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu chống giặc một cách anh dũng.
Các đệ tử Phật đã nhận thức đợc đâu là chiến tranh xâm lợc, đâu là chiến

KI L

tranh vệ quốc và đã kiên quyết đứng về phía nhân dân. Đó chính là một việc
thiện, một cuộc phóng sinh vĩ đại.
IV. Đạo Phật với vấn đề chính trị.
Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hởng không nhỏ vào
đời sống chính trị xã hội. Ngày nay, ngời ta nhấn mạnh vai trò chính trị của
các nhà s thời Lý, Trần, nhấn mạnh ý nghĩa chính trị xã hội trong một số
hoạt động của phật tử hiện đại.

24



THệ VIEN ẹIEN Tệ TRệẽC TUYEN
Dới triều Lý, Trần, các nhà s trở thành một tầng lớp phong kiến tăng lữ
có thế lực trong xã hội. Nhiều nhà s tham gia tích cực vào các hoạt động
chính trị và giữ những cơng vị quan trọng trong triều đình. Nh s Vạn -

OBO
OKS
.CO

M

Hạnh là ngời đã vận động đa Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý. S
Đa - Bảo và Viên - Thông đợc tham dự, bàn bạc và quyết định các việc trong
triều nh cố vấn của nhà vua.

Ngày nay, các nhà s giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia
vào hoạt động chính trị. Nhng bên cạnh những công tác phục vụ cho công
cuộc xây dựng đất nớc thì cũng có một số phần tử đã lợi dụng chức vụ của
mình để gây rối. Hay trờng hợp của Lê Đình Nhàn ( tức Thích Huyền Quang
) thờng xuyên gây phiền nhiễu với các nhà s khác cùng tu trong chùa. Thêm
vào đó, nhiều vụ tự tử của các nhà s với những nguyên nhân ngoài đạo đã bị
cách phe phái phản động đa tin xấu, coi đó là những hành vi tử vì đạo. Và khi
những ngời đại diện pháp luật can thiệp thì chúng cho đó là hành vi bắt bố s
sãi, đàn áp Phật giáo.

Để trả lời những thông tin sai lầm đó, chính phủ Việt Nam đã khẳng định
luôn luôn tôn trọng quyền tự do tín ngỡng của nhân dân nhng những kẻ lợi
dụng tôn giáo để hoạt động chính trị cũng sẽ bị xử phạt nh bất kỳ một công
dân Việt Nam nào khác. Bởi lẽ bất kỳ một s sãi của tổ chức nào thì trớc hết
cũng là công dân của nhà nớc Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có nhiều
tôn giáo, những ngời theo đạo là một bộ phận khăngkhít của khối đại đoàn
kết dân tộc đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo

KI L

vệ Tổ quốc. Do đó, đối với Phật giáo, chính phủ Việt Nam là không có lý do
gì để phân biệt đối xử Phật tử Việt Nam là những ngời yêu nớc, luôn gắn bó
với dân tộc qua mọi bớc thăng trầm của lịch sử, luôn đứng về phía Tổ quốc
đấu tranh chống ngoại xâm. Đạo Phật đối với Việt Nam không chỉ là một tôn

giáo mà còn là một bộ phận của nền văn hoá dân tộc truyền thống.
V. Một số kiến nghị.

Đạo Phật là một đạo không chỉ để ngời ta học mà chủ yếu cho ngời ta
hành. Thực ra, những cái mà ta học đợc trong kinh điển mới chỉ là một kiến
25


×