Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Tòa án huyện Đức Thọ - Hà Tỉnh đẩy mạnh Công tác phát triển chính trị với hoạtđộng xét xử án hôn nhân và gia đình trong giai đoạn 2005 - 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.39 KB, 41 trang )

I. Lý do chon đề tài
Hiện nay cùng với xu hướng của quá trình phát triển kinh tế là những biến
đổi của các vấn đề xã hội.Do đó việc thực thi và áp dụng pháp luật ở địa
phương cũng có nhiều vấn đề bất cập trong quá trình thực hiện.
Tòa án nhân dân Huyện Đức thọ là cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động xét xử và thi hành các vụ án, gắn liền với thực tế của địa phương.Để
nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử và thực thi pháp luật, cần phải đổi
mới về mọi mặt như việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật, thì
bên cạnh đó vấn đề về xây dựng phát triển công tác tư tưởng chính trị ở đơn vị
nghành tòa án cũng là vấn đề quan trong để góp phần nâng cao hiệu quả công
tác xét xử và đáp ứng yêu cầu của thực tế.
Với đăc thù của mình là nghành học Chính tri-luật, luôn mang trong
mình tư tưởng chính trị, và trí thức pháp luật.Chúng tôi đã được làm quen với
môi trường thực tế ở địa phương, sau một thời gian ngắn học tập và tìm hiểu
trong môi trường mới chúng tôi nhận thấy được tầm quan trọng của công tác
tư tưởng chính trị ở các cơ quan thực thi pháp luật.Nếu làm tốt công tác này sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả công việc và chuyên môn pháp luật.
Từ những bài học kinh nghiệm đó tôi đã quyết định chọn đề tài: “Tòa án
huyện Đức Thọ - Hà Tỉnh đẩy mạnh Công tác phát triển chính trị với hoạt
động xét xử án hôn nhân và gia đình trong giai đoạn 2005 - 2009”.
Với sự hướng dẫn của cán bộ lãnh đạo cơ quan và quá trình thu thập số
liệu hoạt động của đơn vị đã giúp tôi có đầy đủ điều kiện để hoàn thành bài
báo cáo này.Tuy nhiên trong quá trình viết do kiến thức còn nhiều hạn chế
nhưng tôi mong với bài báo cáo này sẽ giúp các bạn hình dung tốt hơn thực
tiễn và hoạt động của đơn vị với thực tế địa phương.
II. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Thông qua việc tìm hiểu tình hình hoạt động và xét xử của cơ quan Tòa
án để thấy được cơ cấu tổ chức, hoạt động và vai trò của cơ quan trong việc

1



thực thi pháp lật ở địa phương.Mặt khác nó phản ánh tình hình công tác phát
triển chính trị ở đơn vị để góp phần nâng cao hiệu quả chuyên môn.
Quá trình tìm hiểu đề tài sẽ giúp chúng ta có cách nhìn khác quan hơn về
tình hình thực thi và áp dụng pháp luật ở địa phương, những vấn đề mang tính
phổ biến, những mặt được và hạn chế trong quá trình thực hiện.Từ đó nhằm
tìm ra các giải pháp tối ưu góp phần hoàn thiện các văn bản pháp luật.Bên
cạnh đó phải tính đến việc phát triển công tác Đảng, chính trị ở đơn vị cũng là
yếu tố quan trọng đến hiệu quả của công tác xét xử và thực thi pháp luật.Việc
tham gia tìm hiểu đề tài này sẽ góp phần tuyên truyền pháp luật, nâng cao ý
thức và chấp hành pháp luật trong quần chúng nhân dân,cũng là kiến thức để
làm cơ sỡ cho quá trình công tác về sau.
III. Cơ sỡ pháp lý của đề tài
- Căn cứ vào nghị quyết 02 của Ban chấp hành TW Đảng ngày
01/02/2002 về việc phát triển công tác Đảng ở cơ sỡ.
- Căn cứ vào nghị quyết 35/2000/QH10 của Quốc hội khóa X Kỳ họp thứ
7 về thi hành luật Hôn nhân và gia đình.
- Căn cứ vào Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTCBTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành quyết định số 35/2000/QH10 về việc thi
hành luật hôn nhân và gia đình.
IV. Phương pháp thực hiện đề tài
Trong đề tài sử dụng những phương pháp sau đây: Phương pháp luận;
phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống
kê; phương pháp so sánh
Ngoài ra đề tài có sữ dụng phương pháp tổng hợp và phân tích số liêu sữ
dụng phương pháp so sánh và tư duy logic biện chứng để làm nổi bật các quan
điểm lý luận, từ đó rút ra được kết luận chung trong quá trình báo cáo.
Tìm hiểu các bài báo cáo, số liệu tổng kết của đơn vị trong các năm để
làm cơ sỡ phân tích.
2



Phn I
CễNG TC PHT TRIN CHNH TR TO N
HUYN C TH TRONG GIAI ON 2005 - 2009
Trong nhiệm kỳ 2005-2009, đợc sự quan tâm của huyện uỷ, HĐND,
UBND và ngành dọc cấp trên; cùng với sự phấn đấu của cán bộ Đảng viên, chi
bộ Toà án đã không ngừng vơn lên quyết tâm giữ vững là đơn vị dẫn đầu của
ngành Toà án tỉnh Hà Tĩnh. Với những kết quả đạt đợc xuất sắc toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực nên 5 năm Liên chi bộ Toà án đựơc Ban chấp hành huyện
uỷ công nhận chi bộ Toà án đạt tiêu chuẩn chi bộ trong sạch, vững mạnh; Toà
án nhân dân Tối cao tặng thởng tập thể lao động xuất sắc; Đặc biệt, năm 2009
đợc UBND tỉnh Hà Tĩnh tặng cờ thi đua xuất sắc. Hoạt động của Toà án huyện
Đức Thọ đã góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh, trật tự và an toàn xã
hội trên địa bàn huyện nhà.
Để đánh giá đúng những kết quả đã đạt đợc trong nhiệm kỳ qua, chi bộ
Toà án xin báo cáo cụ thể nh sau :
I. Những kết quả về thực hiện nhiệm vụ chính trị

Nhiệm vụ quan trọng của chi bộ Toà án là lãnh đạo thực hiện công tác xét
xử các loại án và thi hành án hình sự. Đây là nhiệm vụ trung tâm chủ yếu, là
nhiệm vụ đặc thù của đơn vị. Trong nhiệm kỳ qua, chi bộ đã lãnh đạo đơn vị
hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu do ngành và huyện phát động. Hoạt động xét
xử và thi hành án hình sự của Toà án nhân dân huyện Đức Thọ đã góp phần
tích cực phục vụ cho nhiệm vụ chính trị địa phơng.
1. Công tác xét xử án hình sự
Từ năm 2005 đến năm 2009 Toà án nhân dân huyện Đức Thọ đã thụ lý
128 vụ 331 bị cáo đã tổ chức xét xử 128/128 vụ đạt tỷ lệ 100%. Trong đó xác
định đợc 24 vụ án điểm và đã đa ra xét xử 12 vụ án điển hình, đó là các vụ án
"Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy; cớp tài sản; cỡng đoạt tài sản..."

xẩy ra trên địa bàn huyện Đức Thọ. Toà án huyện Đức Thọ đã tổ chức xét xử

3


đạt kết quả xuất sắc góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh trật tự trên
địa bàn.
Để phục vụ công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật từ năm 2005 đến
năm 2009 Toà án huyện Đức Thọ đã tổ chức xét xử lu động 65 vụ án hình sự
đạt kết quả tốt. Tất cả các vụ án hình sự đều xét xử theo tinh thần Nghị quyết
08 của Bộ chính trị, thực hiện tốt việc tranh tụng công khai tại phiên toà. Quá
trình tố tụng đảm bảo đúng pháp luật, không có oan sai, không bỏ lọt tội phạm.
Đờng lối xử lý sát đúng, không có vụ nào bị huỷ, không có vụ nào bị kháng
nghị, các vụ án kháng cáo đều đợc cấp phúc thẩm y án. Chất lợng các phiên
toà không ngừng đợc nâng cao đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tới
tham dự, đáp ứng đợc yêu cầu nguyện vọng của nhân dân góp phần tích cực
vào công tác đấu tranh phòng ngà tội phạm.
Trong số 128 vụ đã xét xử Toà án huyện Đức Thọ đã tổ chức xét xử 25 vụ
án tăng thẩm quyền đạt kết quả tốt. Trong đó có 6 vụ án kháng cáo đợc cấp
phúc thẩm y án 100%.
2. Công tác giải quyết án tranh chấp dân sự
Từ năm 2005 đến năm 2009 Toà án huyện Đức Thọ đã thụ lý 71 vụ, đã
giải quyết xong 71 vụ đạt tỷ lệ 100%. Trong 71 vụ án đã giải quyết Toà án
huyện Đức Thọ đã hoà giải thành 60 vụ, đạt tỷ lệ hoà giải thành 85%.
Quá trình giải quyết án dân sự Toà án đã tôn trọng quyền định đoạt của
các đơng sự, chú trọng công tác hoà giải, định hớng đờng lối sát đúng có sức
thuyết phục cao. Chính vì vậy trong 71 vụ án Tòa án đã hoà giải thành 60 vụ,
xét xử 11 vụ. Trong đó có vụ kiện "Tranh chấp đất đai" giữa nguyên đơn bà
Thái Thị Mai và bị đơn bà Nguyễn Thị Thìn ở xã Đức Dũng. Vụ kiện xảy ra đã
hơn 6 năm. Chính quyền địa phơng xã Đức Dũng cũng nh Phòng tài nguyên

môi trờng, Thanh tra huyện đã nhiều lần giải quyết nhng cha đạt kết quả. Sau
khi thụ lý hồ sơ Tòa án đã kiên trì hòa giải, phân tích thấu tình đạt lý nên đôi
bên đơng sự đã thỏa thuận với nhau và đóng mốc ranh giới vào ngày
01/4/2009. Việc hòa giải thành của Tòa án không chỉ giải quyết mâu thuẫn
giữa các đơng sự mà còn cũng cố tình đoàn kết trong nhân dân, góp phần đảm
4


bảo an ninh trật tự an toàn xã hội. Tiết kiệm đợc thời gian và công sức cho các
đơng sự và cho các cơ quan nhà nớc. Hòa giải thành của Tòa án góp phần hóa
giải các mâu thuẫn, xung đột, các yếu tố bất đồng trong nhân dân. Ngoài các
vụ kiện đã đợc giải quyết Tòa án đã phối hợp với UBND huyện xem xét, tìm
biện pháp để giải quyết dứt điểm nhiều vụ tranh chấp đất đai xẩy ra tại xã Thái
Yên, Đức Đồng,Đức Hoà,Đức Thuỷ ,Đức Lâm và một số xã khác. Các vụ án
này đã đợc cấp ủy , chính quyền các địa phơng và nhân dân đánh giá cao vai
trò của Toà án huyện Đức Thọ.
3. Công tác giải quyết việc dân sự
Thụ lý 24 việc đã giải quyết xong 24 việc đạt tỷ lệ 100%.
4. Công tác thi hành án phạt tù
Thực hiện nghiêm chỉnh Bộ luật Tố tụng hình sự và các nghị định của
Chính phủ từ nhiều năm nay Toà án Đức Thọ luôn phân công cán bộ theo dõi
chặt chẽ công tác Thi hành án hình sự. Từ năm 2005 đến năm 2009 tổng số bị
án Tòa án ra quyết định thi hành 327/327 đạt 100%, số bị án đã đợc ra quyết
định thi hành đúng pháp luật. Toà án huyện Đức Thọ chú trọng vận động
thuyết phục nên 100% đã tự nguyện đến trại cải tạo, không có trờng hợp nào
phải ra lệnh bắt giam hoặc cỡng chế thi hành án. Các đối tợng đợc hởng án
treo, cải tạo không giam giữ cũng đã đợc cán bộ Toà án về tận địa phơng bàn
giao hồ sơ, sổ sách đầy đủ nên đã tạo điều kiện tốt cho các địa phơng giám sát,
giáo dục góp phần vào việc cải tạo và hạn chế việc tái phạm.
Ngoài chức năng xét xử, Toà án huyện Đức Thọ đã thực hiện tốt công tác

tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Kết hợp việc xử án lu động, Toà án đã tuyên
truyền luật hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, luật đất đai, luật phòng chống
bạo lực gia đình theo yêu cầu của các xã, thị trấn. Toà án đã phối hợp với hội
liên hiệp phụ nữ huyện về tận các xã nh : thị trấn Đức Thọ, Đức Dũng, Đức
Nhân, Đức Đồng . . . tuyên truyền pháp luật theo các chủ đề cần thiết, đã đợc
các địa phơng đánh giá cao.

5


II. Công tác xây dựng Đảng

Đạt đợc kết quả trên là nhờ sự lãnh đạo của chi bộ. Trên tinh thần gơng
mẫu của Đảng viên. Hàng tháng chi bộ đều có nghị quyết sát đúng. Mặt khác
chi bộ rất coi trong công tác xây dựng Đảng, kể cả công tác chính trị t tởng, tổ
chức và công tác Đảng viện.
1. Về chính trị t tởng
Hàng tháng chi bộ đã phổ biến triển khai kịp thời, đầy đủ đến tận các
Đảng viên và quần chúng trong đơn vị các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà
nớc, các chỉ thị nghị quyết của Đảng bộ cấp trên. Tăng cờng giáo dục chính trị
t tởng để nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ
công chức việc "Học tập và làm theo tấm gơng đạo đức Hồ Chí Minh" đợc chi
bộ triển khai thờng xuyên. Chính vì vậy nhận thức về chính trị của Đảng viên
không ngừng đợc nâng cao.
Nhiều chủ trơng của Đảng nh : xoá đói giảm nghèo, xoá bỏ nhà tranh tre
tạm bợ, đền ơn đáp nghĩa... Điều đợc chi bộ thực hiên triện để.
2. Công tác tổ chức cán bộ
Từ năm 2005 đến năm 2009 thực hiện quy chế phối hợp giữa chuyên môn
và công đoàn ngay từ đầu năm đơn vị đã tổ chức hội nghị cán bộ công chức, ký
kết giao ớc thi đua hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nớc. Các quy

chế dân chủ cơ sở đợc triển khai đầy đủ, tất cả các hoạt động của cơ quan đều
đợc công khai dân chủ bàn bạc. Trong 5 năm qua đơn vị đã chú trọng về công
khai kinh tế tài chính. Nhờ thực hiện tốt quy chế dân chủ nên đoàn kết nội bộ
ngày càng cao, trí tuệ tập thể đợc phát huy đã tạo ra sức mạnh tổng hợp. Trong
5 năm qua không có cán bộ tham nhũng, tiêu cực, không có cán bộ nào bị
nhân dân ca thán, phàn nàn. Kết quả bình xét đều vợt chỉ tiêu đề ra.
Để đáp ứng yêu cầu cải cách T pháp Toà án huyện thờng xuyên chăm lo
công tác tổ chức cán bộ. Triển khai chỉ thị của Ban cán sự đảng Toà án tỉnh Hà
Tĩnh, của Ban thờng vụ Huyện uỷ Đức Thọ. Chi bộ và cơ quan đã làm quy
trình bổ nhiệm chức danh Chánh án, 2 Phó chánh án và bỏ phiếu tín nhiệm bổ
nhiệm mới một thẩm phán. Hàng tuần, hàng tháng đơn vị đều tổ chức học tập,
6


kiểm điểm uốn nắn kịp thời các sai sót, lệch lạc đồng thời chú trọng công tác
trao đổi học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Qua các phiên toà
cơ quan đã tổ chức họp rút kinh nghiệm biểu dơng khen thởng kịp thời những
Chủ toạ và Th ký hoàn thành tốt việc xét xử.
Trong điều hành quản lý Toà án huyện Đức Thọ thờng xuyên nghiên cứu
cải tiến lề lối làm việc, các thủ tục hành chính nhanh gọn, không gây phiền hà
cho nhân dân. Phối kết hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành giúp các địa phơng
về t vấn và tuyên truyền pháp luật.
Hoạt động của tổ chức công đoàn, nữ công luôn luôn phát huy quyền làm
chủ, tự giác cao trong đơn vị. Chính sách bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ
nữ luôn đợc chăm lo, tạo điều kiện tốt cho chị em phát huy khả năng. Việc xây
dựng gia đình văn hoá và công tác kế hoạch hoá gia đình thực hiện tốt. 100%
gia đình cán bộ Toà án huyện Đức Thọ là gia đình văn hoá, không có ai vi
phạm chế độ sinh đẻ có kế hoạch. Các phong trào nh : xoá đói giảm nghèo,
ủng hộ ngời tàn tật, chất độc da cam, bão lụt ... đều đợc cán bộ Toà án tham
gia ủng hộ tích cực, đóng góp vợt chỉ tiêu tính theo đầu ngời. Hoạt động văn

hoá văn nghệ - thể dục thể thao luôn đợc duy trì đều đặn.
Đội ngũ Hội thẩm nhân dân huyện Đức Thọ hoạt động có hiệu quả. Các vị
Hội thẩm đã đợc tập huấn nghiệp vụ và trang bị tài liệu đầy đủ. Việc phân
công xét xử và tham gia xét xử đồng đều.
3. Công tác Đảng viên
Thời gian qua chi bộ Toà án đã phát huy tinh thần đấu tranh tự phê bình
và phê bình thẳng thắn, hàng tuần hàng tháng chi bộ cơ quan đều có chơng
trình quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên đồng thời có chơng trình
học tập trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ. Công tác quản lý cán bộ Đảng viên
luôn đợc quan tâm. Chính vì vậy, việc rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức
Đảng viên đựơc thực hiện tốt. Trong nhiệm kỳ qua chi bộ không để xẩy ra tình
trạng Đảng viên cán bộ tham nhũng tiêu cực, nói và làm trái nghị quyết của
Đảng. Trong các đợt bình xét phân loại Đảng viên cuối năm, 100% Đảng viên

7


chi bộ Toà án đều đợc xếp loại đủ t cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, 2 đồng chí
bí th và phó bí th đợc xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Thực hiện nghị quyết 76 chi bộ Toà án đã giới thiệu tất cả các Đảng viên
về nơi c trú sinh hoạt. Các Đảng viên đều thực hiện đầy đủ trách nhiệm của
Đảng viên nơi gia đình mình c trú . Theo xác nhận của các cấp uỷ nơi Đảng
viên c trú, 100% Đảng viên chi bộ Toà án đều đợc nhận xét vào loại tốt.
Công tác phát hiện Đảng, trong nhiệm kỳ qua chi bộ đã kết nạp đợc 1
Đảng viên mới và giới thiệu 1 Đoàn viên u tú cho đi học lớp đối tợng Đảng.
Công tác quản lý hồ sơ, sổ sách Đảng viên theo quy định của ban tổ chức
trung ơng đã đợc chi bộ thực hiện đầy đủ. Tất cả các hồ sơ đều đợc bổ sung, lu
giữ cẩn thận. Việc đóng đảng phí và thực hiện chế độ sinh hoạt chi bộ đã duy
trì đều đặn. Chất lợng sinh hoạt chi Bộ ngày càng đợc nâng cao. Hàng tháng
vào ngày thứ 02 đầu tuần chi Bộ tổ chức chào cờ và cử 1 Đảng viên kể một

mẫu chuyện về "tấm gơng đạo đạo Hồ Chí Minh".
III. Những tồn tại và khuyết điểm

Trong nhiệm kỳ qua, tuy đã đạt nhiều kết quả nêu trên nhng chi bộ Toà
án cũng đã nghiêm túc rút kinh nghiệm và thấy rằng còn có những thiếu sót
tồn tại cụ thể nh sau :
Một là. Cha xây dựng đợc quy chế hoạt động giữa các tổ chức đoàn thể
trong đơn vị, cha phân định trách nhiệm của mỗi đảng viên. Chính vì vậy nhiều
lúc còn lúng túng, bị động trong việc phân loại đánh giá chất lợng cán bộ.
Hai là. Trong sinh hoạt chi bộ đã có nhiều đổi mới nhng chất lợng cha
cao. Vai trò các đoàn thể có lúc cha phát huy đợc hết trách nhiệm của mình.
Ba là. Việc xây dựng cơ sở vật chất cha đợc quan tâm đầy đủ, đúng mức.
Nhà công vụ cha đợc xây nên nơi ăn, nghỉ của cán bộ công chức ở xa còn gặp
nhiều khó khăn. Vai trò điều hành chỉ đạo của cấp uỷ viên nhiều lúc còn thiếu
kiên quyết, còn nể nang mang tính gia đình, lãnh đạo còn quán xuyến quá
nhiều việc.
Các Đảng viên còn vi phạm về giờ giấc làm việc hàng ngày.
IV. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm :
8


- Trong nhiệm kỳ qua, chi bộ đã luôn luôn nhận đợc sự quan tâm chỉ đạo
của huyện uỷ, HĐND,UBND và ngành dọc cấp trên. Các chỉ thị nghị quyết
của cấp trên đều đợc triển khai đầy đủ kịp thời đã tạo ra nhận thức, t tởng và
hành động thống nhất trong chi Bộ.
- Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy quyền làm chủ trên
tất cả các lĩnh vực hoạt động. Công khai hoá công tác tổ chức cán bộ, kế hoạch
tài chính và chuyên môn nghiệp vụ. Đấu tranh tự phê bình và phê bình thẳng
thắn. Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở đã tạo nên bầu không khí dân chủ,
thoải mái, xây dựng đựơc sự đoàn kết, nhất trí ngày càng cao trong nội bộ.

- Duy trì chế độ kiểm tra thờng xuyên, thực hiện việc xử phạt công minh
đồng thời chú trọng khuyến khích khen thởng kịp thời đối với các điển hình
tiên tiến.
- Lãnh đạo liêm khiết đầu tàu, gơng mẫu trong mọi mặt, luôn luôn quan
tâm chăm lo đến lợi ích, đời sống của cán bộ công chức. Đảm bảo sự công
bằng, khách quan trong tất cả các hoạt động của đơn vị.
V. Phơng hớng, mục tiêu, nhiệm vụ của chi bộ trong
nhiệm kỳ 2010-2015

Phát huy những thành tích kết quả đã đạt đợc trong nhiệm kỳ qua chi bộ
Toà án quyết tâm thực hiện tốt những nhiệm vụ sau đây:
1. Tăng cờng công tác chính trị t tởng, tổ chức học tập quán triệt đầy đủ
các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nớc. Triển khai đầy đủ và kịp thời các
chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ cấp trên. Tiếp tục phong trào học tập và làm
theo tấm gơng đạo đức Hồ Chí Minh làm nền tảng và xuyên suốt trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ công tác của ngành, tăng cờng giáo dục chính trị t tởng để nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ
công chức. Sửa đổi lề lối làm việc, thực hành tiết kiệm chống tham ô lãng phí,
quan liêu tiêu cực. Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Thực hiện tốt chỉ thị 35 của Ban thờng vụ Tỉnh uỷ về
"xiết chặt kỷ cơng kỷ luật hành chính trong đội ngũ cán bộ công chức".

9


2. Phát huy tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình thẳng thắn, xây
dựng chi bộ cơ quan đoàn kết, trong sạch không để cán bộ Đảng viên tiêu cực,
vi phạm.
3. Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị :
Phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xét xử các loại án và thi hành án
hình sự phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phơng. Hoàn thành vợt mức chỉ tiêu

thi đua do Toà án nhân dân Tối cao và Toà án nhân dân tỉnh đề ra : xét xử án
hình sự đạt 100%. Dân sự, hôn nhân gia đình và các loại án khác đạt từ 90 95%, thi hành án hình sự đạt 100%. Chú trọng xét xử các loại án tham nhũng,
ma túy,giao thông. Tăng cờng xét xử lu động để phục vụ công tác tuyên truyền
pháp luật, mỗi năm xét xử lu động từ 13 - 15 vụ án hình sự, từ 2-3 vụ án dân
sự, hôn nhân gia đình. Thực hiện tốt việc tranh tụng công khai ở tất cả các
phiên toà theo tinh thần của nghị quyết 08 của Bộ chính trị. Đảm bảo xét xử
đúng ngời, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai, không để lọt tội phạm,
không có án bị huỷ, cải sửa. quyết tâm giữ vững là đơn vị dẫn đầu của ngành
Toà án trong toàn tỉnh.
4. Về công tác tổ chức cán bộ
Tiếp tục thực hiện tốt nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về chiến lợc cải
cách t pháp. Tăng cờng sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối với ngành Toà án,
chuẩn bị nhân sự và cơ sơ vật chất cho việc thành lập Toà án khu vực. Thực
hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở đồng thời xây dựng quy chế hoạt động sát,
đúng. Phát hiện, bồi dỡng nguồn nhân sự kế cận, xây dựng chơng trình tự học
tập nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đồng thời cử cán bộ theo
học đầy đủ các lớp về chính trị, ngoại ngữ, tin học và tập huấn chuyên môn
nghiệp vụ. Thực hiện tốt công tác phê bình và tự phê bình, đảm bảo nguyên tắc
tập trung dân chủ. Đấu tranh chống tiêu cực trong công tác và sinh hoạt, phấn
đấu 100% Đảng viên đủ t cách hoàn thành tốt nhiệm vụ. 50% trở lên hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ.
5. Công tác công đoàn và nữ công
Tăng cờng vai trò lãnh đạo của tổ chức công đoàn và nữ công. Phát huy
tốt phong trào thi đua yêu nớc trong đội ngũ cán bộ công chức. Xây dựng cảnh
10


quan cơ quan văn minh- xanh - sạch - đẹp. Giữ vững phong trào văn nghệ, thể
dục thể thao nh : Cầu lông, bóng bàn, văn nghệ... 100% gia đình cán bộ Toà án
là gia đình văn hoá, nữ công đạt tiêu chuẩn " nữ công hai giỏi", thực hiện tốt

công tác kế hoạch hoá gia đình.
6. Công tác xây dựng Đảng :
Đại hội Chi bộ Toà án nhiệm kỳ 2010-2015 đợc tiến hành ngày 22 tháng 3
năm 2010.
Đại hội có mặt 09 Đảng viên, trong đó có 09 Đảng viên chính thức, bảo
đảm 100% Đảng viên đợc triệu tập có mặt.Đại hội đã nghe báo cáo chính trị
đánh giá kết quả hoạt động nhiệm kỳ 2005-2009 và phơng hớng, mục tiêu,
nhiệm vụ nhiệm kỳ 2010-2015. Nghe báo cáo- kiểm điểm của BCH trong
nhiệm kỳ qua và báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp vào dự thảo văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và bổ sung sửa đổi Điều lệ Đảng.
*Về đánh giá kết quả hoạt động nhiệm kỳ qua của chi bộ :
Đại hội đã thống nhất đánh giá các kết quả, thành tích xuất sắc đã đạt đợc trong nhiệm kỳ qua. Cụ thể là từ năm 2005-2009 Toà án nhân dân huyện
Đức Thọ luôn luôn là đơn vị dẫn đầu của Ngành toà án. Hoạt động xét xử của
Toà án nhân dân huyện Đức Thọ đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện nhà.
Chi bộ liên tục đạt danh hiệu Chi bộ trong sạch, vững manh.
Công đoàn liên tục đạt danh hiệu Công đoàn vững mạnh. Năm 2007 và
2008 đạt danh hiệu Công đoàn vững mạnh, xuất sắc, đợc Liên đoàn lao động
tỉnh tặng bằng khen.
Nội bộ đoàn kết, quyền dân chủ đợc phát huy. Chi bộ đã xây dựng sức
mạnh tổng hợp, xây dựng đội ngũ Cán bộ, Đảng viên trong đơn vị ngày càng
vững mạnh, toàn diện, không có Đảng viên tiêu cực, vi phạm.
*Về khuyết điểm tồn tại Chi bộ thống nhất nhận định : cha xây dựng đợc
quy chế hoat động giữa các tổ chức đoàn thể, việc phân công Đảng viên cha cụ
thể. Lãnh đạo còn quán xuyến nhiều việc. Một số Đảng viên còn vi phạm giờ
giấc làm việc.

11



*Đại hội đã biểu quyết phơng hớng nhiệm vụ của Chi bộ trong nhiệm
kỳ tới gồm các nội dung chính sau đây :
. Thờng xuyên giáo dục chính trị t tởng, tổ chức học tập quán triệt đầy đủ
các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng bộ cấp trên đến từng Đảng viên Phát huy
tinh thần đấu tranh tự phê bình.Xây dựng Chi bộ Cơ quan đoàn kết, trong sach,
không để Đảng viên Cán bộ tiêu cực, vi phạm.
. Lãnh đạo đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Chính trị. Hoàn thành vợt
mức chỉ tiêu thi đua, cụ thể là : Xét xử án Hình sự đạt 100%. Dân sự , Hôn
nhân gia đình và các loại án khác đạt từ 90 - 95%, trong đó hoà giải thành
trong dân sự đạt từ 60 - 70%. Thi hành án Hình sự 100%. Chú trọng xét xử các
loại án: tham nhũng,ma tuý và vi phạm về an toàn giao thông vận tải. Mỗi năm
đa về các xã xử lu động từ 13 - 15 vụ án Hình sự, từ 2-3 vụ án Dân sự, Hôn
nhân và gia đình để phục vụ công tác tuyên truyền phổ biến Pháp luật.Thực
hiện tốt việc tranh tụng công khai ở tất cả các phiên toà theo tinh thần NQ 08
của BCT. Bảo đảm xét xử đúng ngời, đúng tội, không oan sai, không để lọt,
không để án bị huỷ, cải sửa. Quyết tâm giữ vững là Đơn vị dẫn đầu toàn Ngành
Toà án tỉnh Hà Tĩnh. Phối phối hợp với các ngành trong khối nội chính.Xác
định nhiều vụ án điểm đem ra xét xử phục vụ tốt nhiệm vụ Chính trị địa phơng.
. Về công tác tổ chức cán bộ: Tiếp tục thực hiện tốt NQ 49 của BCT về
chiến lợc cải cách t pháp, chuẩn bị nhân sự cho việc thành lập Toà án khu
vực.Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sỡ. Xây dựng chơng trình tự học tập
nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Phát hiện và bồi dỡng nguồn
nhân sự kế cận, đồng thời cử Cán bộ theo học đầy đủ các lớp về chính trị,ngoại
ngữ,tin học và tập huấn nghiệp vụ. Thực hiện tốt công tác phê bình và tự phê
bình, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; đấu tranh chống tiêu cực trong
công tác và sinh hoạt. Phấn đấu 100% Đảng viên đủ t cách hoàn thành tốt
nhiệm vụ và 50% trở lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
. Tích cực quan hệ với Toà án nhân dân Tối cao, Toà án nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh để xin đầu t cơ sở vật chất. Đặc biệt là xây dựng nhà công vụ phục vụ cho
Cán bộ công chức ở xa đến làm việc.

12


. Công tác công đoàn và nữ công : Tăng cờng vai trò lãnh đạo của tổ chức
Công đoàn và nữ công. Phát huy tốt phong trào thi đua yêu nớc trong đội ngũ
cán bộ công chức. Xây dựng cảnh quan cơ quan văn minh, xanh- sạch- đẹp.
Giữ vững các phong trào văn nghệ, thể dục thể thao, nh : Cầu lông, bóng bàn,
văn nghệ... 100% gia đình cán bộ Toà án là gia đình văn hoá, nữ công đạt tiêu
chuẩn nữ công 2 giỏi, thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá gia đình.
. Công tác xây dựng Đảng : Không ngừng cải tiến nâng cao chất lợng sinh
hoạt Chi bộ theo định kỳ. Hàng tháng Chi bộ ban hành Nghị quyết của Chi bộ
sát đúng, kịp thời bảo đảm tính khả thi. Việc đóng Đảng phí, quản lý hồ sơ sổ
sách Đảng viên theo đúng chế độ, giữ môi quan hệ thờng xuyên với cấp ủy địa
phơng nơi Đảng viên c trú. Phấn đấu trong nhiệm kỳ tới kết nạp đợc 1 Đảng
viên mới. Tiến tới 100% cán bộ Toà án là Đảng viên. Tăng cờng công tác kiểm
tra kỷ luật Đảng. Quyết tâm giữ vững danh hiệu Chi bộ trong sạch vững mạnh.
Đại hội đã bâu Ban chấp hành mới gồm 3 đồng chí: Đ/c Bí th, đ/c Phó Bí
th và 1 cấp ủy viên thay mặt Chi bộ điều hành hoạt động của Chi bộ nhiệm kỳ
2010-2015. Thực hiện các nhiệm vụ đã biểu quyết trên đây.
Đại hội đã bầu 1 Đồng chí Đại biểu chính thức và 1 Đại biểu dự khuyết đi
dự Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVIII.
Không ngừng cải tiến, nâng cao chất lợng sinh hoạt chi bộ theo định kỳ.
Hàng tháng chi bộ ban hành nghị quyết của chi bộ phải sát đúng, kịp thời đảm
bảo tính khả thi. Việc đóng đảng phí, quán lý hồ sơ Đảng viên thực hiện đúng
theo chế độ, giữ mối quan hệ thờng xuyên với cấp uỷ địa phơng nơi gia đình
Đảng viên c trú. Phấn đấu trong nhiệm kỳ tới kết nạp đợc 1 Đảng viên mới,
tiến tới 100% cán bộ Toà án là Đảng viên. Tăng cờng công tác kiểm tra, kỷ
luật Đảng viên. Quyết tâm giữ vững danh hiệu chi bộ trong sạch vững mạnh.

13



Phần II.
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ ÁN HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở TOÀ ÁN
HUYỆN ĐỨC THỌ - HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN 2005 - 2009
1. Những quy định mới hướng dẫn áp dụng luật hôn nhân và gia đình
năm 2000
Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội,
quan hệ giữa con người với con người trong đó có quan hệ hôn nhân và gia
đình cũng bị tác động mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của Toà án các cấp,
trong cả nước hàng năm số lượng các vụ án kiện về hôn nhân và gia đình mà
Toà án phải thụ lý giải quyết khoảng trên 50.000 vụ việc, chủ yếu là ly hôn và
tranh chấp tài sản.
Về mặt xã hội ly hôn là hiện tượng bất bình thường. Nếu kết hôn là mặt
phải của xã hội thì ly hôn là mặt trái của xã hội, là cái chết của một tổ ấm gia
đình. Hậu quả của việc ly hôn là làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, gây ảnh
hưởng xấu đến con cái. Ly hôn là một biện pháp chấm dứt tình trạng mâu
thuẫn gay gắt giữa vợ và chồng, vợ chồng chia tay bằng một phán quyết của
Toà án, và nó không chỉ gây hậu quả đối với các thành viên trong gia đình mà
còn gây ra nhiều hậu quả khác cho xã hội. Do vậy, ly hôn không chỉ là vấn đề
riêng của mỗi gia đình mà là vấn đề của cả xã hội quan tâm.
Ngày nay ly hôn đã được nhìn nhận đúng với bản chất tích cực và tiến bộ
của nó. Dưới góc độ pháp lý, ly hôn được ghi nhận là một chế định độc lập
của Luật Hôn nhân và gia đình, nó là cơ sở cho Toà án và các bên đương sự
giải quyết vấn đề ly hôn một cách thấu tình đạt lý, góp phần giải quyết con
người ra khỏi sự ràng buộc không cần thiết khi tình cảm vợ chồng không còn.
Ta thấy rằng, một gia đình tốt thì xã hội mới tốt và ngược lại, xã hội tốt là điều
kiện thúc đẩy gia đình tiến bộ. Mặc dù vậy, khi gia đình lâm vào tình trạng
trầm trọng, không thể tồn tại một cách ổn định, hạnh phúc, quan hệ hôn nhân
trên thực tế đã tan vỡ, sự ly hôn là cần thiết. Nhà nước đặt ra chế độ hôn nhân

14


tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận,
bền vững ngay cả khi gia đình đó tan vỡ thì sự bình đẳng về quyền và lợi ích
giữa vợ và chồng vẫn được đảm bảo. Đó là sự tiến bộ thể hiện quyền tự do ly
hôn của hai vợ chồng.
Từ khi luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời, nhà nước đã tuyên
truyền và phổ biến rộng rãi để mọi người dân hiểu biết trong việc bảo vệ
quyền lợi của mọi thành viên và xây dựng hạnh phúc gia đình XHCN. Các
cấp, các ngành mà đặc biệt là ngành Toà án đã góp phần không nhỏ vào việc
tổ chức và hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử các vụ án ly
hôn cho thấy, còn tồn tại một số vướng mắc như vấn đề xác định căn cứ ly
hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn. Nhiều vụ đã phải qua nhiều cấp xét xử do có
sự kháng cáo của đương sự và kháng nghị của người có thẩm quyền. Nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trên là do trình độ, năng lực của một số cán bộ xét xử
chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của công việc. Bên cạnh đó, cần phải nói
tới sự chưa hoàn thiện của pháp luật đã dẫn đến tình trạng các nhà áp dụng
pháp luật có cách hiểu không thống nhất nên đã vận dụng pháp luật một cách
tuỳ tiện.
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi
trường quan trọng để hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã
hội tốt thì gia đình càng tốt.
Để nâng cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát
huy truyền thống, những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt nam, xóa
bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình.
Nhằm nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc
củng cố chế độ hôn nhân và gia đình.Luật Hôn nhân và gia đình không ngừng
sữa đổi và hoàn thiện, đặc biệt là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã nói

lên tinh thần đó.So với Luật năm 1986 thì luật Hôn nhân năm 2000 sữa đổi có
nhiều Điều khoản mở rộng hơn, đặc biệt là tại chương về Ly hôn cũng có
15


nhiều quy định mới, những thay đổi nới này là cần thiết nhằm tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng Luật năm 1986 để giải quyết những
tranh chấp hiện nay, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho các bên
nhất là phụ nữ khi ly hôn.
Tại Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP của TAND TC về giải quyết một số
loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình Ngày 16/4/2003, Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao ban hành Nghị quyết số 01/2003/NQHĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh
chấp dân sự, hôn nhân và gia đình..
. Đố i vớ i cá c t ra nh chấ p về hôn n hâ n và gia đ ìn h
. Thừa kế trong trường hợp chưa có đăng ký kết hôn
a. Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987,
nếu có một bên chết trước, thì bên vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản
của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế.
b. Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày
03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong
thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003; do đó cho đến
trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng
hoặc vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của
pháp luật về thừa kế. Trong trường hợp sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa
đăng ký kết hôn mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước và có tranh chấp về
thừa kế thì trong khi chưa có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, tuỳ từng trường hợp mà Toà án xử lý như sau:
- Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý;
- Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ

việc giải quyết vụ án.
Tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Ngày 23/12/2000, Hội đồng Thẩm
16


phán Toà án Nhân dân Tối cao ban hành Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000.Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
09/6/2000.
1. Điều kiện kết hôn (Điều 9).Nam và nữ kết hôn với nhau phải tuân theo
các điều kiện quy định tại Điều 9. Khi giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái
pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn cần chú ý một số điểm sau đây:
a. Điều kiện kết hôn quy định tại điểm 1 Điều 9 là: "Nam từ hai mươi tuổi
trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên". Theo quy định này thì không bắt buộc
nam phải từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ phải từ đủ mười tám tuổi trở lên mới
được kết hôn; do đó, nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ đã bước sang tuổi
mười tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn.
b. Nếu nam và nữ kết hôn tuy có đủ các điều kiện quy định tại các điểm 1
và 3 Điều 9, nhưng họ không tự nguyện quyết định mà thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm 2 Điều 9:
b.1. Một bên ép buộc (ví dụ: đe doạ dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần
hoặc dùng vật chất...) nên buộc bên bị ép buộc đồng ý kết hôn;
b.2. Một bên lừa dối (ví dụ: lừa dối là nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù
hợp hoặc nếu kết hôn sẽ bảo lãnh ra nước ngoài; không có khả năng sinh lý
nhưng cố tình giấu; biết mình bị nhiễm HIV nhưng cố tình giấu...) nên bên bị
lừa dối đã đồng ý kết hôn;
b.3. Một bên hoặc cả hai bên nam và nữ bị người khác cưỡng ép (ví dụ:
bố mẹ của người nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người

nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ; do bố mẹ của hai bên có hứa hẹn với
nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau...) buộc người bị cưỡng
ép kết hôn trái với nguyện vọng của họ.

17


c. Điều kiện kết hôn quy định tại điểm 3 Điều 9 bị vi phạm, nếu việc kết
hôn thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 10. Cần chú ý đối
với từng trường hợp cụ thể như sau:
c.1. Người đang có vợ hoặc có chồng là:
- Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về
hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn;
- Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày
03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn;
- Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày
03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ
chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp
này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước ngày
01/01/2003).
c.2. Người mất năng lực hành vi dân sự là người mất khả năng bằng hành
vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
c.3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ là giữa cha, mẹ với con;
giữa ông, bà với cháu nội, cháu ngoại. Giữa những người có họ trong phạm vi
ba đời là giữa những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh
chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh
chị em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba.
c.4. Đối với trường hợp quy định tại điểm 4 Điều 10 cần hiểu là ngoài
việc cấm kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi thì điều luật còn cấm kết

hôn:- Giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi;- Giữa người đã từng là
bố chồng với con dâu;- Giữa người đã từng là mẹ vợ với con rể;- Giữa người
đã từng là bố dượng với con riêng của vợ;- Giữa người đã từng là mẹ kế với
con riêng của chồng.
2. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật (Điều 16)

18


Khi giải quyết huỷ việc kết hôn trái pháp luật, Toà án cần chú ý các điểm
sau đây:
a. Theo quy định tại điểm 3 Điều 8 thì kết hôn trái pháp luật là việc xác
lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn, nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do
pháp luật quy định; cụ thể là việc đăng ký kết hôn do cơ quan có thẩm quyền
quy định tại Điều 12 thực hiện và việc tổ chức đăng ký kết hôn theo đúng nghi
thức quy định tại Điều 14, nhưng vi phạm một trong các điều kiện kết hôn quy
định tại Điều 9 như đã hướng dẫn tại mục 1 Nghị quyết này.
b. Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không phải do cơ quan có thẩm
quyền quy định tại Điều 12 thực hiện (ví dụ: việc đăng ký kết hôn giữa nam và
nữ do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi không có bên nào kết hôn cư
trú thực hiện), thì việc đăng ký kết hôn đó không có giá trị pháp lý; nếu có yêu
cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, thì mặc dù có vi phạm một trong những
điều kiện kết hôn quy định tại Điều 9, Toà án không tuyên bố huỷ kết hôn trái
pháp luật mà áp dụng khoản 1 Điều 11 tuyên bố không công nhận họ là vợ
chồng.
c. Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không theo nghi thức quy định
tại Điều 14 thì việc kết hôn đó không có giá trị pháp lý, nếu có yêu cầu huỷ
việc kết hôn trái pháp luật, thì mặc dù có vi phạm một trong các điều kiện kết
hôn quy định tại Điều 9, Toà án không tuyên bố huỷ kết hôn trái pháp luật mà
áp dụng khoản 1 Điều 11 tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng. Tuy

nhiên cần chú ý:
c.1. Điều 14 không quy định cụ thể địa điểm tổ chức đăng ký kết hôn; do
đó, địa điểm tổ chức đăng ký kết hôn có thể là một nơi khác không phải là trụ
sở của cơ quan đăng ký kết hôn.
c.2. Điều 14 quy định: "Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên
nam, nữ kết hôn". Thực hiện cho thấy rằng trong một số trường hợp vì những
lý do khách quan hay chủ quan mà khi tổ chức đăng ký kết hôn chỉ có một bên
nam hoặc nữ; do đó, nếu trước khi tổ chức đăng ký kết hôn đã thực hiện đúng
19


quy định tại khoản 1 Điều 13 và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn họ thực sự về
chung sống với nhau, thì không coi là việc đăng ký kết hôn đó là không theo
nghi thức quy định tại Điều 14.
d. Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 15 có yêu cầu huỷ
việc kết hôn trái pháp luật do có vi phạm điều kiện kết hôn thì cần phân biệt:
d.1. Đối với những trường hợp kết hôn khi một bên hoặc cả hai bên chưa
đến tuổi kết hôn là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm 1 Điều 9. Tuy
nhiên, tuỳ từng trường hợp mà quyết định như sau:
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà một
bên hoặc cả hai bên vẫn chưa đến tuổi kết hôn thì quyết định huỷ việc kết hôn
trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên
tuy đã đến tuổi kết hôn, nhưng cuộc sống của họ trong thời gian đã qua không
có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, thì quyết định huỷ việc kết hôn
trái pháp luật.
- Nếu đến thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật cả hai bên
đã đến tuổi kết hôn, trong thời gian đã qua họ chung sống bình thường, đã có
con, có tài sản chung thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu
mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn thì Toà

án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
d.2. Đối với những trường hợp kết hôn khi một bên bị ép buộc, bị lừa dối
hoặc bị cưỡng ép là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm 2 Điều 9.
Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp mà quyết định như sau:
- Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà cuộc
sống không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, thì quyết định huỷ
việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà bên bị
ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép đã biết, nhưng đã thông cảm, tiếp tục
chung sống hoà thuận thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
20


Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn, thì
Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ tục chung.
d.3. Đối với những trường hợp kết hôn thuộc một trong các trường hợp
quy định tại Điều 10 là vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại điểm 3 Điều 9
và nói chung là phải quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu
thuộc trường hợp quy định tại điểm 1 Điều 10 cần chú ý:
- Nếu thuộc trường hợp cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc
hồi năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền
Bắc thì vẫn xử lý theo Thông tư số 60/TATC ngày 22/02/1978 của Toà án
nhân dân tối cao "Hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong
Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác" (Xem cuốn các văn bản về
hình sự, dân sự và tố tụng, Toà án nhân dân tối cao xuất bản năm 1990; tr 255260).
- Nếu khi một người đang có vợ hoặc có chồng, nhưng tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà đã kết hôn với người khác, thì lần
kết hôn sau là thuộc trường hợp cấm kết hôn quy định tại điểm 1 Điều 10. Tuy
nhiên, khi có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật họ đã ly hôn với vợ hoặc
chồng của lần kết hôn trước, thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp

luật đối với lần kết hôn sau. Nếu mới phát sinh mâu thuẫn và có yêu cầu Toà
án giải quyết việc ly hôn thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết ly hôn theo thủ
tục chung.
đ. Khi giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà xét thấy hành
vi vi phạm có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì Toà án yêu cầu Viện Kiểm sát
cùng cấp khởi tố vụ án hình sự. Nếu Viện Kiểm sát cùng cấp không đồng ý thì
Toà án có thể kiến nghị với Viện Kiểm sát cấp trên xem xét; nếu Viện Kiểm
sát cấp trên cũng không đồng ý thì Toà án tiếp tục giải quyết yêu cầu huỷ việc
kết hôn trái pháp luật theo thủ tục chung. Trong trường hợp Viện Kiểm sát
đồng ý khởi tố vụ án hình sự thì Toà án áp dụng điểm d khoản 1 Điều 45 Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ việc giải
21


quyết vụ án. Sau khi vụ án hình sự được xét xử xong và bản án, quyết định
hình sự đã có hiệu lực pháp luật thì Toà án tiếp tục giải quyết theo thủ tục
chung (vì lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa).
3. Tài sản chung của vợ chồng (Điều 27).
a. Khoản 1 Điều 27 đã quy định tài sản chung của vợ chồng và hình thức
sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng. "Những thu thập hợp pháp khác"
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền
trúng thưởng xổ số, mà vợ, chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác
lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247, 248, 249, 250, 251 và 252
Bộ luật dân sự... trong thời kỳ hôn nhân.
b. Khoản 2 Điều 27 quy định: "Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì
trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng".
Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống
gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng
(như: nhà ở, quyền sử dụng đất...), song cũng không phải trong mọi trường

hợp. Đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy
chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu,
thuyền vận tải...). Mặt khác, khoản 1 Điều 32 đã quy định cụ thể về tài sản
riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường
hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy
định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu
chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung
của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy
chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế
riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ
nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng
một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô
mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp
22


không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo
quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng.
4. Quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng (Điều 31)
Ngoài việc quy định cụ thể về quyền thừa kế tài sản của nhau, quản lý tài
sản khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết, khoản 3 Điều
31 còn quy định:
"Trong trường hợp yêu cầu chia tài sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình
thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những
người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất
định; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với
người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di
sản thừa kế".
Khi áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 31 cần chú ý:

a. Việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc
chồng còn sống và gia đình là trong trường hợp người chết có để lại di sản,
nhưng nếu đem di sản này chia cho những người thừa kế được hưởng thì vợ
hoặc chồng còn sống và gia đình gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống như:
không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất...
Ví dụ 1: Trước khi kết hôn anh A mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện
tích 25m2. Sau đó anh A kết hôn với chị B và không nhập ngôi nhà này vào
khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh được một người con thì anh A
bị chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu cầu chia di sản thừa kế
là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào khác và cũng chưa có
điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không thể chia được bằng
hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là ngôi nhà sẽ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con.
Ví dụ 2: Anh C và chị D kết hôn với nhau và mua được ngôi nhà có diện
tích 20m2. Sau khi sinh được một người con thì anh C bị chết và không để lại
23


di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia di sản do anh C để lại là phần nhà của
anh C trong ngôi nhà này. Chị D và con không có chỗ ở nào khác, trong khi đó
ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối
thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải thanh toán bằng tiền phần thừa kế
mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng không có khả năng. Trong trường
hợp này việc chia di sản thừa kế phần nhà của anh C trong ngôi nhà có diện
tích 20m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị D và con.
b. Khi thuộc trường hợp tại điểm a mục này thì Toà án cần giải thích cho
người có yêu cầu chia di sản thừa kế biết là họ mới chỉ có quyền yêu cầu xác
định phần di sản mà họ được hưởng và họ chỉ có quyền yêu cầu chia di sản
sau một thời hạn nhất định, cụ thể là ba năm, nếu trong thời hạn này bên còn
sống là vợ hoặc chồng của người đã chết chưa kết hôn với người khác. Nếu họ

có yêu cầu xác định phần di sản mà họ được hưởng thì Toà án thụ lý để giải
quyết. Trong trường hợp này, nếu họ không được miễn nộp tiền tạm ứng án
phí, miễn án phí thì họ phải nộp tiền tạm ứng án phí như đối với vụ án không
có giá ngạch.
c. Toà án thụ lý yêu cầu chia di sản thừa kế đối với trường hợp được nêu
tại điểm a mục 4 này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
c.1. Hết thời hạn do Toà án xác định;
c.2. Bên còn sống đã kết hôn với người khác.
Trong trường hợp này, nếu đương sự không được miễn nộp tiền tạm ứng
án phí, miễn án phí thì họ phải nộp tiền tạm ứng án phí, nộp án phí như đối với
vụ án có giá ngạch.
5. Xác định cha, mẹ, con (Điều 63, Điều 64)
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 63, thì về nguyên tắc trong các trường
hợp sau đây phải coi là con chung của vợ chồng:
- Con sinh ra sau khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến trước khi chấm
dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của
vợ hoặc chồng hoặc của cả hai vợ chồng;
24


- Con sinh ra sau khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận
hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng, nhưng
người vợ đã có thai trong thời kỳ hôn nhân (trong thời kỳ từ khi đã tổ chức
đăng ký kết hôn cho đến trước khi chấm dứt quan hệ hôn nhân).
- Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn (ngày tổ chức đăng ký kết hôn)
nhưng được cả vợ và chồng thừa nhận.
b. Theo quy định tại khoản 2 Điều 63 và Điều 64, khi có người yêu cầu
Toà án xác định một người nào đó là con của họ hay không phải là con của họ
thì phải có chứng cứ; do đó về nguyên tắc người có yêu cầu phải cung cấp
chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết thì phải giám định gien. Người có yêu

cầu giám định gien phải nộp lệ phí giám định gien.
6. Quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn (Điều 85)
Theo quy định tại Điều 85 thì vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu
cầu Toà án giải quyết việc ly hôn. Tuy nhiên, người chồng không có quyền
yêu cầu xin ly hôn khi vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Luật chỉ quy định "vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi"; do
đó, khi người vợ đang thuộc một trong các trường hợp này (không phân biệt
người vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai), mà người
chồng có yêu cầu xin ly hôn, thì giải quyết như sau:
a. Trong trường hợp chưa thụ lý vụ án thì Toà án áp dụng điểm 1 Điều 36
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trả lại đơn kiện cho người nộp
đơn.
b. Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì Toà án cần giải thích cho người
nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút
đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu
người nộp đơn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án tiến hành giải
quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết định bác yêu cầu xin ly hôn của họ.

25


×