Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phương thức thanh toán và một số biện pháp hạn chế rủi ro thanh toán trong thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.34 KB, 18 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, Internet đã phát triển một cách nhanh chóng, trở thành một phần
quan trọng, áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống- kinh tế, đặc biệt trong lĩnh
vực thương mại toàn cầu. Trên thực tế, việc kinh doanh thương mại đã và đang
mang lại những nguồn thu khổng lồ cho thương mại thế giới. Trong tương lai,
thương mại vẫn tiếp tục phát triển với tốc độ tăng chóng mặt và thực sự trở thành
một công cụ đắc lực giúp cho kinh tế thế giới có những bước chuyển mới. Nhờ có
kinh doanh điện tử, mà những hạn chế về không gian và thời gian đều được khắc
phục, giúp cho việc kinh doanh được mở rộng và phát triển. Trong xu thế hội nhập
và phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam không thể đứng ngoài vòng xoáy của
nhân loại, đó là thương mại điện tử. Kinh doanh điện tử chắc chắn sẽ là dụng cụ
tiềm năng nhất để doanh nghiệp Việt Nam xây dựng lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên,
cho đến nay, những hiểu biết và áp dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp
Việt Nam còn rất hạn chế, mới chỉ ở mức sơ khai. Trong thương mại nói chung,
thanh toán là vấn đề khá nhạy cảm và luôn được cả hai bên mua và bán dành sự
quan tâm đặc biệt, vì thanh toán thực sự liên quan đến lợi ích của cả hai bên. Khi
hoạt động thương mại được tiến hành trên mạng thì các phương thức thanh toán
điện tử cũng khác so với cách thức thanh toán truyền thống. Do vậy, việc tìm hiểu
cách thức thanh toán điện tử là điều rất quan trọng, tạo điều kiện cho việc kinh
doanh thương mại điện tử diễn ra suôn sẻ, qua đó tìm ra một số biện pháp để hạn
chế rủi ro thanh toán trong thương mại điện tử.
Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài
“Phương thức thanh toán và một số biện pháp hạn chế rủi ro thanh toán trong
thương mại điện tử”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là nhằm hiểu rõ về các thanh toán trong thương mại điện
tử. Tìm hiểu về việc áp dụng thanh toán thương mại điện tử ở Việt Nam. Từ đó, đề
ra những biện pháp để hạn chế rủi ro thanh toán trong thương mại điện tử.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Tập trung vào việc nghiên cứu tổng quan về thương mại điện tử và thanh


toán trong thương mại điện tử; đề ra một số biện pháp để hạn chế rủi ro thanh toán
trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu có sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, logic, so sánh để thực hiện các nhiệm vụ của đề tài.
1


5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
Nhằm hiểu rõ hơn về thương mại điện tử và thanh toán trong thương mại
điện tử; về thực trạng thanh toán điện tử ở Việt Nam; đưa ra một số biện pháp để
hạn chế rủi ro thanh toán trong thương mại điện tử ở Việt Nam.
6. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung được chia thành 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử và thanh toán trong thương mại
điện tử
Chương 2: Thực trạng thanh toán điện tử ở Việt Nam
Chương 3: Một số biện pháp để hạn chế rủi ro thanh toán trong thương mại
điện tử ở Việt Nam.

2


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ
THANH TOÁN TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Tổng quan về thương mại điện tử
1.1.1. Khái niệm
Thương mại điện tử (TMĐT) là hình thức mua bán hàng hóa và dịch vụ
thông qua mạng máy tính toàn cầu. Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định

nghĩa trong Luật mẫu về Thương mại điệ n tử của Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật
Thương mại Quốc tế (UNCITRAL):
“Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các
vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có
hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất
cứ giao dịch nào về thương mại nào về cun g cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc
dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng;
cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp
vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh các
hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay
hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ.”
Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của Thương mại điện tử rất rộng, bao quát
hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là
một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của Thương mại điện tử. Theo nghĩa hẹp
thương mại điện tử chỉ gồm các hoạt động thương mại đư ợc tiến hành trên mạng
máy tính mở như Internet. Trên thực tế, chính các hoạt động thương mại thông qua
mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điện tử.
Thương mại điện tử gồm các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua
phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền
điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác
thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tuyến tới người tiêu
dùng và các dịch vụ sau bán hàng.
Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ
như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ
như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền
thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục ) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị
ảo). Thương mại điện tử đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách
thức mua sắm của con người.
1.1.2. Lợi ích của Thương mại điện tử
3



- Thu thập được nhiều thông tin
TMĐT giúp người ta tham gia thu được nhiều thông tin về thị trường, đối
tác, giảm chi phí tiếp thị và giao dịch, rút ngắn thời gian sản xuất, tạo dựng và củng
cố quan hệ bạn hàng. Các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế
thị trường, nhờ đó có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích
hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Điều này
đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện nay đang được nhiều
nước quan tâm, coi là một trong những động lực phát triển kinh tế.
- Giảm chi phí sản xuất
TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn
phòng không giấy tờ (paperless office) chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí
tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần (trong đó khâu in ấn hầu như được bỏ
hẳn); theo số liệu của hãng General Electricity của Mỹ, tiết kiệm trên hướng này
đạt tới 30%. Điều quan trọng hơn, với góc độ chiến lược, là các nhân viên có năng
lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên cứu
phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài.
- Giảm chi phí bán hàng, tiếp thị và giao dịch
TMĐT giúp giảm thấp chi bán hàng và chi phí tiế p thị. Bằng phương tiện
Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rấ t nhiều khách
hàng, catalogue điện tử (electronic catalogue) trên Web phong phú hơn nhi ều và
thường xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn
luôn lỗi thời. Theo số liệu của hãng máy bay Boeing của Mỹ, đã có tới 50% khách
hàng đặt mua 9% phụ tùng qua Internet (và nhiều các đơn hàng về lao vụ kỹ thuật),
và mỗi ngày giảm bán được 600 cuộc gọi điện thoại.
TMĐT qua Internet/Web giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng
kể thời gian và chi phí giao dịch (giao dịch được hiểu là từ quá trình quảng cáo,
tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàn g, giao dịch thanh toán). Thời gian giao dịch
qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0.5 phần

nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện
tử qua Internet chỉ bằng từ 10% đến 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường.
Tổng hợp tất cả các lợi ích trên, chu trình sản xuất (cycle time) được rút
ngắn, nhờ đó sản phẩm mới xuất hiện nhanh và hoàn thiện hơn.
- Xây dựng quan hệ với đối tác
TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các
thành viên tham gia vào quá trình thương mại: thông q ua mạng (Internet/ Web) các
thành viên tham gia (người tiêu thụ, doanh nghiệp, các cơ quan Chính ph ủ...) có
thể giao tiếp trực tiếp (liên lạc “ trực tuyến”) và liên tục với nhau, có cảm giác như
không có khoảng cách về địa lý và thời gian nữa; nhờ đó sự hợp tác và sự quản lý
4


đều được tiến hành nhanh chóng một cách liên tục: các bạn hàng mới, các cơ hội
kinh doanh mới được phát hiện nhanh chóng trên phạm vi toàn quốc, toàn khu vực,
toàn thế giới, và có nhiều cơ hội để lựa chọn hơn.
- Tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế trí thức
Trước hết, TMĐT sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin
tạo cơ sở cho phát triển kinh tế tri thức. Lợi ích này có một ý ng hĩa lớn đối với các
nước đang phát triển: nếu không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri th ức thì sau
khoảng một thập kỷ nữa, nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh
lợi ích này mang tính chiến lược công nghệ và tính chính sách phát triển cần cho
các nước công nghiệp hóa.
Như vậy, TMĐT đã đem lại những lợi ích tiềm tàng không chỉ đối với các
doanh nghiệp mà còn đối với hệ thống ngân hàng, các tổ chức và người tiêu dùng.
Khách hàng có thêm thông tin phong phú về thị trường và đối tác, giảm chi phí dễ
dàng tạo dựng và củng cố mối quan hệ; rút ngắn chu trình sản xuất, tái tạo nhiều
sản phẩm mới trên quan điểm chiến lược lâu dài; giúp và thúc đẩy cho sự phát triển
công nghệ thông tin trong giai đoạn chuyển tiếp sang kinh tế số hóa, kinh tế tri
thức, một xã hội thông tin với một xu thế tất yếu không thể đảo ngược.

1.2. Thanh toán trong thương mại điện tử
1.2.1. Khái niệm
Thanh toán điện tử (hay còn gọi là thanh toán trực tuyến) là một mô hình
giao dịch không dùng tiền mặt đã phổ biến trên thế giới, là việc thanh toán tiền qua
thông điệp điện tử (electronic message) thay cho việc giao tay tiền mặt.
Thông qua thanh toán điện tử người dùng sẽ không sử dụng tiền mặt để
thanh toán chi trả các hoạt động giao dịch mua bán của mình mà thay vào đó là sử
dụng các loại thẻ tín dụng, các thẻ này đã được chứng thực và được sự bảo đảm của
các Ngân hàng. Điều này rất an toàn và tiện dụng, có tính bảo mật cao.
Theo cách hiểu như trên thanh toán điện tử (TTĐT) là hệ thống thanh toán
dựa trên nền tảng công nghệ thông tin. Việc thanh toán được thực hiện qua máy
tính và mạng máy tính, nối mạng với các đơn vị thành viên tham gia thanh toán.
Chuyển những chứng từ bằng giấy thành những “chứng từ điện tử” đã làm cho
khoảng cách giữa các đơn vị thành viên được thu hẹp lại như trong cùng một ngân
hàng, giúp cho quá trình thanh toán nhanh chóng đáp ứng được nhu cầu chu chuyển
vốn của khách hàng và nền kinh tế.
1.2.2. Những ưu thế và sự phát triển tất yếu của thanh toán điện tử.
- Thanh toán điện tử không bị hạn chế bởi thời gian và không gian.
Dưới giác độ của thương mại điện tử, hoạt động thương mại không chỉ hạn
chế trong phạm vi một địa bàn, một quốc gia mà được thực hiện với hệ thống thị
5


trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường tài chính - tiền tệ được kết nối trên phạm vi
toàn cầu, trong suốt 24/24 giờ trong ngày và 7 ngày/tuần. Nhu cầu thanh toán cũng
được đáp ứng liên tục 24/24 giờ trong ngày trên phạm vi toàn cầu.
- Thanh toán với thời gian thực.
Thanh toán điện tử là hệ thống thanh toán thông qua mạng máy tính và viễn
thông đạt được tốc độ thanh toán với thời gian thực (real time), đặc biệt là hệ thống
thanh toán điện tử trực tuyến (on line) diện rộng giữa các ngân hàng và khách hàng.

Nhờ ưu thế tuyệt đối nêu trên, đặc biệt khi so sánh với thanh toán dùng tiền mặt,
thanh toán điện tử là xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia phát triển và kể các các
quốc gia đang phát triển, nhằm phục vụ cho hoạt động kinh tế, kinh doanh trên
phạm vi toàn cầu.
1.2.3. So sánh giữa TTĐT truyền thống và TTĐT trong TMĐT
1.2.3.1. Những điểm giống nhau
- Về phương tiện, công cụ thanh toán:
Cả hai hình thức, thanh toán điện tử “thông thường” và thanh toán điện tử
trong TMĐT đều không sử dụng tiền mặt, séc hoặc các chứng từ có giá khác.
- Về môi trường hoạt động:
Cả hai hình thức thanh toán đều phải dựa trên môi trường hoạt động như
nhau cả về môi trường pháp lý, cơ sở hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin và hệ
thống bảo mật.
1.2.3.2. Những điểm khác nhau
- Về phạm vi thanh toán:
Không phải tất cả các hình thức thanh toán điện tử đều phục vụ cho hoạt
động thương mại điện tử. Ví dụ mạng lưới máy trả tiền tự động ATM 24/24 giờ là
một công cụ chuyển tiền điện tử, rút tiền nhưng không được coi là một hình thức
thanh toán điện tử trong TMĐT. Các điểm bán hàng chấp nhận các loại thẻ thanh
toán cũng không được coi là hình thức thanh toán điện tử trong thương mại điện tử.
Như vậy phạm vi thanh toán của thanh toán điện tử trong thương mại điện tử
nhỏ hơn thanh toán điện tử truyền thống - TTĐT thông thường.
- Về quy trình thanh toán:
Mặc dù các hình thức thanh toán điện tử thông thường và thanh toán điện tử
trong thương mại điện tử có nhiều điểm tương đồng nhưng điểm căn bản để phân
biệt là thanh toán điện tử trong thương mại điện tử cần có xác nhận giao dịch về
người cung ứng sản phẩm, dịch vụ và người mua hàng do các tổ chức phát hành
xác nhận (C.A) thực hiện. Các hình thức thanh toán điện tử thông thường không
cần tới các xác nhận này.
6



1.2.4. Hình thức thanh toán điện tử
Thanh toán điện tử trong việc mua bán, giao dịch hàng trực tuyến có nhiều
hình thức khác nhau và đặc điểm cơ bản của hình thức này là người mua không
nhất thiết phải gặp trực tiếp người bán để thanh toán; không bị giới hạn bởi không
gian, địa lý, bất cứ nơi đâu bạn cũng có thể mua được hàng.
Hiện nay có 3 hình thức thanh toán phổ biến nhất là:
- Thẻ tín dụng
- Định danh hay ID hóa số
- Xe mua hàng điện tử
Nhưng phổ biến nhất là thanh toán thông qua thẻ tín dụng. Đây là một hình
thức thanh toán phổ biến và tương đối rộng rãi trên thế giới.
1.2.5. Những lợi ích khi thanh toán trong TMĐT
- Giảm chi phí giao dịch
- Kích cầu và tăng trưởng GDP
- Nâng cao năng lực quản lý hành chính
- Khuyến khích phát triển các trung gian tài chính
- Tăng cường minh bạch tài chính
- Không bị hạn chế không gian và thời gian
- Thanh toán với thời gian thực.
1.2.6. Các rủi ro thanh toán trong TMĐT
- Sử dụng thẻ bất hợp pháp
- Hủy lệnh thanh toán trước khi hàng hóa được gửi đi
- Thông tin thẻ bị đánh cắp
- Tài khoản thẻ bị sử dụng
- Sử dụng thẻ giả.
1.2.7. Quy định của pháp luật về chống gian lận trong thanh toán
Thực tế, phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thông qua việc sử
dụng thẻ tín dụng, phương tiện thanh toán hữu hiệu ở các nước có nền kinh tế phát

triển. Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và phương thức
thanh toán bằng thẻ tín dụng nói riêng đã góp phần thúc đẩy giao thương hàng hóa,
phát triển sản xuất và hạn chế được lưu lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế.
Pháp luật Việt Nam đã có những quy định cơ bản để thị trường thẻ vận hành để hạn
7


chế đến mức tối thiểu những rủi ro, theo Điều 30 Quyết định số 04/VBHN-NHNN
quy định những hành vi sau đây bị cấm trong hoạt động sử dụng thẻ tín dụng:
- Làm, sử dụng, chuyển nhượng và lưu trữ thẻ giả
- Chủ thẻ chuyển nhượng thẻ cho người khác (trừ trường hợp đối với thẻ trả
trước vô danh)
- Sử dụng trái phép thẻ không phải do tổ chức phát hành cho chính mình
- Khai báo sai thông tin cá nhân, tổ chức hoặc giả mạo giấy tờ khi lập hồ sơ
đề nghị sử dụng thẻ hoặc trong quá trình sử dụng thẻ
- Sử dụng thẻ đã được thông báo không được phép lưu hành
- Xâm nhập hoặc tìm cách xâm nhập trái phép vào chương trình hoặc CSDL
của hệ thống phát hành, thanh toán thẻ, thanh toán bù trừ giao dịch thẻ
- Thực hiện các giao dịch giả mạo
- Lấy cắp, thông đồng để lấy cắp thông tin trên thẻ
1.3. Thanh toán điện tử và ngân hàng điện tử ở một số quốc gia trên thế
giới.
1.3.1. Thanh toán điện tử và ngân hàng điện tử ở Mỹ
Công nghệ thông tin đã phát triển mạnh và được ứng dụng vào lĩnh vực ngân
hàng ở Mỹ từ những năm đầu của thập niên 70. Hai mạng thanh toán liên ngân
hàng đầu tiên trên thế giới là CHIP (Clearing House for International Payment)
dành cho các thanh toán quốc tế sử dụng đồng đô la Mỹ và Fed Wire sử dụng cho
các thanh toán trong nước đều được xây dựng tại Mỹ và là hình mẫu cho việc xây
dựng hệ thống thanh toán điện tử bù trừ trong hệ thống ngân hàng của các quốc gia
khác.

Khi công nghệ Internet đưa ra một bước đột phá mới trong công nghệ thông
tin viễn thông, Mỹ cũng là nước đầu tiên đưa những ứng dụng Internet vào ngân
hàng. Hiện nay Mỹ là nước có tỷ lệ bình quân cũng như số tuyệt đối về người sử
dụng Internet và giao dịch ngân hàng qua mạng cao nhất trên thế giới. Theo các số
liệu gần đúng hiện nay cứ 100 gia đình người Mỹ thì có 38 gia đình có máy tính. từ
năm 1995 tới 1997 công nghệ thông tin ở Mỹ đóng góp 28 - 41% tổng số gia tăng
GDP. Mỹ đang chiếm tỷ trọng trên 70% trong tổng doanh số thương mại điện tử
toàn thế giới.
Trong lĩnh vực ngân hàng tài chính, hiện nay các ngân hàng Mỹ đã có thể
cung cấp hầu hết các dịch vụ ngân hàng bán lẻ trực tuyến cho khách hàng. Tiến
trình phát triển Internet-banking của Mỹ có thể chia làm ba giai đoạn chính như
sau:
8


Giai đoạn 1: Khách hàng có thể kiểm tra số dư tài khoản, lấy các thông tin về
tài chính, tỷ giá, kiểm tra việc trả lãi vv...
Giai đoạn 2: Gửi tiền, thanh toán hoá đơn, tín dụng (vay cầm cố mua nhà, thẻ
tín dụng, hạn mức thấu chi) được thực hiện trực tuyến.
Giai đoạn 3: Đầu tư (các quỹ ủy thác, thị trường chứng khoán), môi giới, tư
vấn trực tiếp với ngân hàng.
Trong thời gian tới các ngân hàng Mỹ sẽ cung cấp cho khách hàng những
dịch vụ mới qua mạng Internet như ‘Két an toàn ảo”, “Đầu tư qua đêm”, thanh toán
quốc tế (xuất trình chứng từ, hối phiếu trên mạng).
Mỹ cũng đã thành lập các ngân hàng ảo ví dụ như Net.B@nk vào cuối năm
1998. Lợi thế của các ngân hàng ảo này là:
a. Đối với khách hàng:
- Thực hiện các yêu cầu của khách hàng tức thì (ngân hàng 24/24 giờ);
- Chi phí thấp tính trên mỗi giao dịch;
- Khả năng chọn lựa sản phẩm, dịch vụ phong phú;

- Có thể tiếp cận với nguồn thông tin cực lớn, thông tin cập nhật để đưa ra
các quyết định đầu tư của bản thân;
- Nhận tư vấn trực tiếp từ ngân hàng.
b. Đối với ngân hàng:
- Lợi thế cạnh tranh trong chiến lược marketing;
- Giảm thiểu chi phí cơ sở hạ tầng và nhân công;
- Mức độ tăng trưởng nhanh (tài sản/ lợi nhuận/ thị trường);
- Khả năng cung ứng các sản phẩm, dịch vụ đa dạng cho khách hàng;
- Hiệu quả sử dụng vốn cao;
- Quan hệ gắn bó với khách hàng.
1.3.2. Thanh toán điện tử và ngân hàng điện tử ở Nhật.
Sự phát triển về hệ thống thanh toán trong các ngân hàng Nhật Bản có thể
tạm chia làm bốn giai đoạn :
Giai đoạn 1: Trong thời kỳ này các ngân hàng Nhật Bản xây dựng một hệ
thống thông tin trực tuyến nội bộ (mạng LAN) từ trụ sở chính tới các chi nhánh. Hệ
thống thông tin này cho phép ngân hàng quản lý tập trung sổ cái. Việc chuyển tiền
giữa các chi nhánh và trụ sở chính được tự động hóa. Trụ sở chinh kiểm soát các
dịch vụ tiền gửi, và cho vay tại chi nhánh. Cũng trong giai đoạn này, ngân hàng đầu
tiên của Nhật tham gia vào hệ thống Interbank.
9


Giai đoạn 2: Dựa trên cơ sở kết nối trực tuyến, các ngân hàng Nhật Bản đã
liên kết được các tài khoản khách hàng, vì vậy các sản phẩm và dịch vụ được đa
dạng hoá. Ngân hàng có thể quản lý khách hàng tốt hơn, các giải pháp đồng bộ kết
hợp các sản phẩm dịch vụ được giới thiệu với khách hàng. Các “điểm bán hàng”,
máy rút tiền tự động ra đời trong giai đoạn này. Các hoạt động thanh toán liên ngân
hàng được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả.
Giai đoạn 3: Thay thế hệ thống máy tính cũ, xây dựng lại hệ thống thông tin,
hệ thống an ninh và nâng cao chất lượng dịch vụ trong hoạt động thương mại quốc

tế. Giai đoạn hiện nay: Các ngân hàng Nhật bản chú trọng vào hoạt động marketing
và thương mại điện tử. Trong giai đoạn này, thế hệ máy tính thứ năm được sử dụng
với “CHIP” mới và thiết bị đầu cuối đa phương tiện với mạng tích hợp. Đầu tháng
5 năm 2000, ngân hàng ảo đầu tiên, liên doanh giữa ngân hàng Sakura và công ty
Fujitsu đã ra đời. Cũng trong năm 2000, một số các tập đoàn lớn như Sony sẽ thành
lập các ngân hàng ảo riêng của tập đoàn dựa trên những tiến bộ về công nghệ thông
tin và sự phổ cập của Internet tới đại chúng. Mục tiêu chính của các ngân hàng là
tìm kiếm lợi nhuận từ các dịch vụ tổng thể cho khách hàng (one-stop-shopping).

10


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THANH TOÁN ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng thanh toán bằng thẻ
Lịch sử hình thành phương thức thanh toán bằng thẻ nói chung được ghi
nhận vào năm 1914. Khi đó một công ty của Mỹ là Westem Union đã cung cấp một
dịch vụ thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, theo đó công ty này phát hành một
tấm thẻ bằng kim loại với một số thông tin được in nổi lên trên để đảm bảo hai
chức năng cơ bản:
- Nhận dạng được khách hàng.
- Có thể lưu giữ lại các thông tin được in nổi trên tấm kim loại.
Chính vì thấy được sự tiện lợi từ thẻ đó nên công ty General Petroleum của
Mỹ cũng đã phát hành thẻ xăng dầu đầu tiên vào năm 1924, theo đó cho phép các
khác hàng của công ty này có thể mua xăng dầu tại các cửa hàng bán xăng dầu của
công ty trên nước Mỹ.
Như vậy có thể nói những tấm thẻ kim loại là nền tảng cho việc ra đời những
tấm thẻ nhựa sau này. Tấm thẻ nhựa đầu tiên được phát hành là vào năm 1950 bởi
công ty Dinner Club. Khi đó ông Frank McNamara ngưới sáng lập ra công ty trên
đã hết sức bối rối sau khi tham dự một buổi tiệc tại một nhà hàng đã phát hiện ra

mình quên mang theo ví tiền. Chính vì vậy ông đã có ý nghĩ là phát hành những
tấm thẻ nhựa để cho phép khách hàng có thể thanh toán sau. Đến năm 1958 công ty
American express đã phát hành các thẻ nhựa trong đó tập trung vầo các lĩnh vực du
lịch và giải trí. Tiếp theo sau đó vào cuối những năm 60, một số ngân hàng của Mỹ
đã liên kết lại với nhau để phát hành ra thẻ của ngân hàng mình và đây là cơ sở để
hình thành hai loại thẻ sử dụng phổ biến nhất trên thế giới ngày nay, đó là thẻ Visa
và MasterCard.
Ngày nay, có thể nói bốn loại thẻ nhựa nêu trên được khách hàng ưa chuộng
và sử dụng rộng rãi trên thế giới. Và các loại thẻ này cũng đã du nhập vào Việt nam
vào đầu những năm 90. Mặc dù thẻ ngân hàng chỉ mới du nhập vào thị trường Việt
nam từ đầu những năm 90 nhưng đã có sự phát triển nhanh chóng. Thực vậy nếu
như trong những năm đầu hoạt đông, doanh số hoạt động thanh toán thẻ hàng năm
đạt được chưa đến 30 triệu USD thì từ những năm 1996 đến 1998 doanh số hoạt
động thanh toán thẻ đạt được 160 triệu USD. Đặc biệt trong những năm gần đây
cho thấy doanh số hoạt động thanh toán thẻ đã tăng từ 160 triệu USD vào năm
1998 đã tăng lên 194 triệu USD vào năm 1999 và trong năm 2000 đã đạt được 203
triệu USD. Đối với hoạt động phát hành thẻ dù chỉ mới đi vào hoạt động hơn 3 năm
nhưng doanh số hoạt động phát hành thẻ đã tăng nhanh qua mỗi năm. Nếu như
11


trong năm 1998 doanh số phát hành thẻ đạt được 110 tỷ đồng thì trong năm 1999
doanh số này là 170 tỷ đồng và đến năm 2000 đạt được 280 tỷ đồng.
Số người sử dụng thẻ: Hiện nay chúng ta đang phục vụ thanh toán thẻ cho
khách nước ngoài là chủ yếu. Sắp tới nên quan tâm tuyên truyền và mở rộng số
người sử dụng thẻ trong nước. Muốn vậy cần đẩy mạnh việc mở tài khoản cá nhân
để từ đó phát triển việc thanh toán bằng séc và nhất là bằng thẻ. Đây là yếu tố có
tính quyết định cho sự nghiệp mở rộng thanh toán bằng thẻ.
Số cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ: Hiện nay mới có các khách sạn lớn và cơ
sở dịch vụ du lịch nhận thanh toán thẻ. Sắp tới cần tuyên truyền và có giải pháp

phát triển các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ không chỉ trong lĩnh vực dịch vụ du
lịch mà chủ yếu là các cơ sở thương mại và dịch vụ khác. Cần nghiên cứu các giải
pháp làm giảm chi phí và thuế để các cơ sở chấp nhận thẻ được nhanh chóng được
nhân lên do hoạt động có hiệu quả, có lãi.
Số ngân hàng tham gia dịch vụ thanh toán bằng thẻ: Cần tạo điều kiện về
vốn, thiết bị, đào tạo cán bộ để mở rộng mạng lưới các ngân hàng tham gia phát
hành, chấp nhận và thanh toán thẻ. Không có hệ thống các ngân hàng làm dịch vụ
thanh toán thẻ thì sự nghiệp này sẽ dậm chân tại chỗ. Về phần mình, các tổ chức tín
dụng cần hiểu rằng đây là công cụ cạnh tranh lợi hại nhằm thu hút khách hàng, huy
động vốn và mở mang tín dụng.
2.2. Thực trạng cơ sở thanh toán tự động ở nước ta.
Việt nam chấp nhận thanh toán thẻ từ những năm 1990. Thời gian đầu chỉ có
ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thực hiện nghiệp vụ thẻ, VCD lúc đó cũng chỉ
là đại lý cho các ngân hàng nước ngoài. Tháng 4 /1995, VCB chính thức trở thành
thành viên của tổ chức thẻ quốc tế MasterCard. Tháng 4/ 1996 chiếc thẻ tín dụng
quốc tế đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam được VCD chính thức phát hành. Kể từ
thời điểm đó thẻ ngân hàng mới thực sự góp phần là một công cụ thanh toán mới,
hiện đại trong nền kinh tế Việt nam. Cùng với VCB, ACB cũng bắt đầu bước vào
hoạt động trong lĩnh vực thanh toán thẻ và trở thành ngân hàng thứ hai được ngân
hàng nhà nước cho phép phát hành thẻ tín dụng quóc tế. Cho đến nay vẫn chỉ hai
ngân hàng này đang phát hành thẻ tín dụng ở Việt nam. Bên cạnh hai ngân hàng
này nhiều ngân hàng thương mại khác cũng đã thực hiện các nghiệp vụ thẻ với quy
cách làm đại lý thanh toán cho các NHPH và cho các tổ chức thẻ quốc tế
MasterCard, VisaCard.. Theo các chuyên gia ngành ngân hàng, tuy đã có những
tiến bộ trong việc phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng, nhưng sự phát triển thẻ
thanh toán tại Việt nam cũng bộc lộ những khó khăn, trở ngại không nhỏ.
Về kỹ thuật- công nghệ việc phát triển mạng lưới thanh toán thẻ đòi hỏi trang
thiết bị kỹ thuật cao và công nghệ hiện đại với đội ngũ cán bộ có đủ khả năng quản
lý và vận hành hệ thống theo tiêu chuẩn quốc tế. Trong giai đoạn thí điểm phát
hành và thanh toán thẻ ngân hàng, việc vận hành máy móc, nối mạng viễn thông, in

12


ấn thẻ đều còn rất mới mẻ đối với cấn bộ tác nghiệp. Nhiều ngân hàng đã cố gắng
tự trang bị cho mình phần mềm đáp ứng các yêu cầu theo tiêu chuẩn cơ bản chung
của công nghệ quản lý giao dịch thẻ. Tuy nhiên khó khăn xuất phát chủ yếu từ các
trang bị phần cứng của hệ thống sử lý thẻ. Phần cứng của hệ thống được sử dụng đa
dạng song lại mang tính chất đặc thù. Tại Việt Nam chưa có đơn vị bảo dưỡng điều
này đòi hỏi phải có thiết bị dự phòng, dẫn tới phải tăng chi phí đầu tư. Những hỏng
hóc kỹ thuật nhất là các máy in thẻ khó khắc phục và phức tạp.
Việc giao nhận, sửa chữa thiết bị không được miễn thuế buộc các NHPH
phải tăng chi phí mua thiết bị dự phòng. Tình trạng đường viễn thông như hiện nay
là một trở ngại đáng kể cho vận hành hệ thống. Thông tin liên lạc giữa các ngân
hàng còn hạn chế đã làm tăng tính rủi ro trong hoạt động thanh toán và phát hành
thẻ ngân hàng. Thẻ tín dụng quốc tế do các ngân hàng trong nước phát hành bị hạn
chế về khả năng sử dụng ở nước ngoài. Ngược lại việc sử dụng thẻ trrong nước còn
hạn chế vì số lượng đơn vị chấp nhận thẻ trong thanh toán chưa nhiều hiện chỉ có
khoảng 4000 cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ ở Việt nam. Loại hình giao dịch chưa
phong phú, sự phân bố các điểm chấp nhận thẻ không đều vẫn chủ yếu tập trung ở
những nơi phục vụ khách hàng nước ngoài có quy mô kinh doanh lớn như khách
sạn, nhà hàng, siêu thị... Các điểm chấp nhận thẻ còn thích nhận tiền mặt trong
thanh toán chưa thay đổi ý thích chấp nhận thanh toán ther đẻ thu hút khách, tăng
doanh số, thậm chí còn áp đặt các phụ phí làm chủ thẻ ít muốn sử dụng thẻ. Đối với
rút thẻ tự động ATM, đối tượng sử dụng chủ yếu mới chỉ là các cán bộ ngân hàng,
một số ngưới Việt nam đang làm việc cho các công ty nước ngoài và một số người
nước ngoài trong phạm vi hẹp. Thẻ ATM chưa được phát hành rộng rãi một phần là
do sự hạn chế trong việc mở tài khoản và thanh toán qua tài khoản trong khu vực
dân cư .

13



CHƯƠNG III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO THANH TOÁN TRONG
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Phải phát triển hoạt động kinh doanh thẻ ở việt nam. Mặc dù thị trường thẻ ở
ngân hàng Việt nam đã phát triển nhanh chóng trong 3 năm gần đây, nhưng theo
đánh giá chung của các ngân hàng thì sự phát triển này vẫn chưa tương xứng so với
tiềm năng của thị trường thẻ ở Việt nam. Điều này có thể là do một số nguyên nhân
cơ bản như sau:
Thứ nhất, các ngân hàng chưa chú trọng đến hoạt động phát hành thẻ mmà
chhủ yếu chỉ chú trọng đến hoạt động tổ chức chấp nhận thẻ.
Thứ hai, hệ thống cơ sở hạ tầng có liên quan phục vụ cho hoạt động phát
hành thẻ chưa phát triển tương xứng.
Thứ ba, rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ là tương đối cao, ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng.
Thứ tư, thông tin về thẻ ngân hàng còn hạn chế.
Với một số nguyên nhân cơ bản nêu trên, để phát triển hoạt động kinh doanh
thẻ ở Việt nam sau đây xin đề xuất một số giải pháp:
Thứ nhất, các ngân hàng cần mạnh dạn phát triển hoạt động phát hành thẻ.
Với số liệu thống kê cho thấy nhu cầu sử dụng thẻ của người dân Việt nam ngày
càng tăng, trong đó đặc biệt là nhu cầu sử dụng thẻ của các doanh nhân, du học
sinh đi học ở nước ngoài.. Với đà phát triển như hiện nay, dự đoán từ nay đến năm
2005 ,số lượng thẻ phát hành ở Việt nam sẽ lên đến 100000 thẻ. Như vậy tiềm năng
đối với thị trường thẻ ở Việt nam ttrong thời gian tới là rất lớn. Chính vì vậy, ngay
từ bây giờ các ngân hàng cần có chiến lược phát triên thích hợp.
Thứ hai, cần phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động kinh
doanh thẻ. Để phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động kinh doanh
thẻ , trong đó đặc biệt là phát triển rộng rãi mạng lưới chấp nhận thanh toán thẻ và
hệ thống máy ATM là hết sức khó khăn đối với các ngân hàng thương mại Việt nam

trong điều kiện của các ngân hàng còn hạn chế. Để tháo gỡ khó khăn này chúng ta
cần xem xét các khả năng như sau:
- Các ngân hàng nên thoả thuận với nhau để lắp đật,trang bị số lượng may
móc thích hợp tại một đơn vị chấp nhận thẻ để tránh trường hợp nhiều ngân hàng
cùng lắp đặt, trang bị nhiều máy móc tại một đơn vị .
- Hợp tác với các công ty cho thuê tài chính để thuê lại các máy móc, thiết
bị...
14


Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, tiếp thị. Trong thời gian qua, các
ngân hàng chưa chú trọng đến các hoạt động quảng cáo, tiếp thị để giới thiệu về thẻ
ngân hàng. Chính vì vậy, thẻ ngân hàng vẫn còn là sản phẩm mới lạ đối với đại bộ
phận dân cư là điều dễ hiểu. Để thẻ ngân hàng trở lên quen thuộc đối với dân cư,
trong đó đặc biệt là giới thiệu những tiện ích khi sử dụng thẻ, thiết nghĩ các ngân
hàng cần đẩy mạnh các hoạt động quảng cáo, tiếp thị ...
Thứ tư, các ngân hàng cần có sự hợp tác để quản lý và kiểm soát rủi ro có
hiệu quả. Để có thể quản lý và kiểm soát rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ có
hiệu quả, trước hết các ngân hàng cần có sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ với nhau
nhằm đẻ kịp thời phát hiện và sử lý các trường hợp thanh toán và sử dụng thẻ giả
mạo, góp phần giảm thiểu rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ. Sau cùng, ngân
hàng nhà nước cần quan tâm và hỗ trợ cấc ngân hàng thương mại của Việt nam để
thúc đẩy hoạt động thanh toán và phát hành thẻ ngân hàng ở Việt Nam phát triển
hơn nữa.
Ngoài những giải pháp trên, cần đảm bảo thêm một số nội dung sau:
Thứ nhất, Bảo mật trong giao dịch: Trong giao dịch thương mại nói chung,
và giao dịch thương mại điện tử nói riêng, việc bảo đảm tuyệt đối sự bí mật của
giao dịch luôn phải được đặt lên hàng đầu. Bằng không, doanh nghiệp có thể gặp
những nguy cơ như nghe trộm, giả mạo, mạo danh hay chối cãi nguồn gốc…
Thứ hai, Lưu trữ dữ liệu nhiều nơi với nhiều hình thức: Để đề phòng những

rủi ro hiểm hoạ do thiên tai, sự cố bất ngờ hay những hành động chiến tranh khủng
bố… thì việc lưu trữ dữ liệu trong thương mại điện tử ở nhiều nơi với nhiều hình
thức là việc làm rất có ý nghĩa. Việc làm này tạo sự an toàn và liên tục trong hoạt
động kinh doanh trên mạng.
Thứ ba, Cài đặt các phần mềm chống Virút tấn công: Virút luôn là hiểm họa
đối với các doanh nghiệp kinh doanh trên mạng. Sự phá hoại của virút là không thể
lường hết được; Virút máy tính có độ phát tán nhanh và ảnh hưởng trong một phạm
vi rộng. Các virút có cấu tạo ngày càng phức tạp và sự phá hoại ngày càng lớn với
mức độ nghiêm trọng.
Thứ tư, Tham gia bảo hiểm: Các biện pháp nêu trên đều là những biện pháp
cần thiết để phòng tránh những rủi ro bất trắc trong thương mại điện tử. Song cho
dù có áp dụng biện pháp nào đi chăng nữa cũng không thể đảm bảo an toàn một
cách tuyệt đối bởi có rất nhiều rủi ro mang tính khách quan. Rủi ro có thể xảy ra
hoặc không, lúc này hay lúc khác, mang lại tai hoạ lớn, vừa hay nhỏ… con người
đều hoàn toàn không lường trước được.
Tóm lại, với các giải pháp được đề xuất trên cùng với sự nỗ lực không ngừng
của ngành ngân hàng Việt nam trong công cuộc thực hiện hiện đại hoá công nghệ
ngân hàng, chắc chắn rằng hoạt động thanh toán và phát hành thẻ ngân hàng ở Việt
15


Nam sẽ phát triển mạnh mẽ trong một tương lai không xa. Muốn tăng cường thanh
toán không dùng tiền mặt cần bác bỏ loại ngân phiếu thanh toán.

16


KẾT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, chúng ta đã có được cái nhìn rõ nét và
sâu sắc hơn về vấn đề thanh toán trong thương mại điện tử, từ những lợi ích mà nó

mang lại, những rủi ro có khả năng xảy ra, đến những quy định mà Pháp luật Việt
Nam đã quy định tại Điều 30 Quyết định số 04/VBHN-NHNN,…từ đó đã khẳng
định một điều rằng thanh toán trong thương mại điện tử phải được hoàn thiện cqacs
quy định pháp luật để hạn chế rủi ro thanh toán trong thương mại điện tử.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá, so sánh việc thanh toán điện tử với một số
nước trên thế giới, từ đó rút ra được kết luận đó là chúng ta chỉ mới phần nào đáp
ứng được các điều kiện để phát triển thanh toán điện tử, còn nhiều quy định cần
phải hoàn thiện.
Tóm lại, muốn hạn chế được các rủi ro trong thanh toán thương mại điện tử,
trước tiên phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh toán thương mại điện tử, đòi
hỏi cần có sự phối hợp chặt chẽ và cố gắng hơn nữa từ nhiều đối tượng, không chỉ
các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm mà còn đòi hỏi có sự hợp tác của các doanh
nghiệp kinh doanh và người dân./.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về Thương
mại điện tử.
2. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Tìm hiểu về thương mại điện
tử. NXB Chính trị Quốc gia, 2005.
3. Quyết định số 04/VBHN-NHNN 2014 ban hành Quy chế phát hành thanh
toán sử dụng hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng.
4. “Thanh toán trong thương mại điện tử”. Truy cập ngày 04/12/2015.
/>
18




×