Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

THỜI KỲ HẬU HỆ THỐNG BRETTON WOODS.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.37 KB, 17 trang )

THỜI KỲ HẬU HỆ THỐNG BRETTON WOODS
I. CÚ SỐC DẦU HỎA ĐẦU TIÊN
1. Ngun nhân
Tình hình chính trị bất ổn và thiếu hụt dầu dường như đã trở thành “cơ duyên”
của “khủng hoảng dầu mỏ”. Nhưng sự thực có phải chỉ đơn giản như vậy không? Thời
gian xảy ra “khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất” trùng hợp hay lại khá khớp với với thời
gian các nước Arập khởi động “vũ khí dầu mỏ”,tẩy chay chống lại Mỹ và Israel
Hơn nữa, nguyên nhân sâu xa là vào tháng 8 năm 1971, tổng thống tạm nhiệm
Nixon tuyên bố “chính sách kinh tế mới”, chính sách tiền tệ đặt trọng tâm vào đồng USD
theo “hệ thống Bretton Woods” được thiết lập sau chiến tranh thế giới đã phá sản, nước
Mỹ không tiếp tục theo đuổi việc đáp ứng các nghĩa vụ đổi USD thành vàng cho các
nước khác. Hậu quả trực tiếp của việc đồng đô la tách rời khỏi vàng là: đô la rớt giá thảm
hại, giá hàng công nghiệp tăng vọt. Các nước OPEC, chủ yếu là các nước vùng Vịnh, vốn
lệ thuộc vào việc xuất khẩu dầu thô đổi lấy đô la Mỹ để mua những mặt hàng công
nghiệp và lương thực cần dùng.
“Chính sách kinh tế mới” Nixon tung ra khiến đô la dầu mỏ của họ rớt giá, ngoại
trừ việc tăng giá dầu, các nước này không còn đường nào khác. Tháng 10 và tháng 12
năm 1973, 6 thành viên vùng Vịnh của OPEC liên tiếp 2 lần nâng giá dầu thô, từ mức
3,01 USD/thùng lên tới 11,65 USD/thùng, mức tăng là gần 4 lần. Trong bầu khơng khí
hoảng loạn, từng hàng xe xếp dài trước các trạm đổ xăng trên khắp nước Mỹ. Đó chính là
“cuộc khủng hoảng dầu thô lần thứ nhất”.

2. Tác động
Giá tăng đồng nghĩa với việc làm xấu đi nghiêm trọng điều kiện thương mại và
cán cân vãng lai của các nước nhập khẩu dầu
Điều kiện thương mại được đo bằng tỷ số:
Giá cả xuất khẩu trung bình/ Gia nhập khẩu trung bình


Các nước kém phát triển( LDCs) không xuất khẩu dầu cũng gặp khó khăn đặc
biệt, một mặt là do giá dầu nhập khẩu tăng và mặt khác do kinh tế các nước cơng nghiệp


bị suy thối nên xuất khẩu vào các nước này bị giảm sút. Để hỗ trợ các nước kém phát
triển IMF thiết lập “hạn mức tín dụng dầu” bằng cách đi vay các nước OPEC để cho vay
lại các nước LDCs.
Mức độ ảnh hưởng của cú sốc giá dầu lên các nước phụ thuộc nhiều vào tỷ lệ
nhập khẩu nhiều của mỗi nước. Do mức độ ảnh hưởng là khác nhau và do các chính phủ
sử dụng các chính sách để phản ứng với cú sốc giá dầu là khác nhau đã làm cho tỷ lệ lạm
phát giữa các nước cũng chênh lệch nhau đáng kể.
Italia và Anh là những nước đã áp dụng chính sách mở rộng kinh tế vĩ mô nhằm
mong muốn tránh được một cuộc suy thối, có thể sử dụng hai cơng cụ chính sách cơ bản
như: chính sách tài chính bao gồm nhiều mức độ khác nhau về việc mua vào các hàng
hố và dịch vụ của chính phủ và trong các mức độ thuế để tác động lên nền kinh tế, chính
sách tiền tệ liên quan đến nhiều mức độ khác nhau của việc cung ứng tiền tệ và các mức
độ của tỷ lệ lãi suất để tác động lên nền kinh tế, như vậy cùng với ảnh hưởng của cú sốc
giá dầu tăng làm cho tỷ lệ lạm phát tăng lên nhanh chóng và cán cân vãng lai trở nên xấu
đi trầm trọng, theo đó tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng cao và dẫn đến trạng thái lạm phát đình
đốn.
Bên cạnh đó, các quốc gia như Đức và Nhật, do có sự tập trung vào việc kiểm
sốt tỷ lệ lạm phát nên đã áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ
Đồng tiền Yên Nhật Bản trước đây được phép tăng giá so với đồng đôla Mỹ sau
sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods vào năm 1971, đã suy yếu đáng kể sau cú sốc dầu
mỏ. Nền kinh tế Nhật Bản vốn được đánh giá là dễ bị tổn thương hơn cả khi gặp phải
những biến động co giãn của giá cả dầu mỏ. Tiền Yên Nhật Bản trước đợt cấm vận dầu
mỏ được định giá ở mức 265 Yên cho một đơla Mỹ. Sau đó đồng tiền này sụt giảm xuống
cịn 300 n cho 01 đơla vào giữa năm 1974, rồi dao động hẹp xung quang mức này cho
đến năm 1977, thời điểm mà tổng thống mới đắc nhiệm Carter quyết định thực hiện
nhiệm vụ giải quyết mức thậm hụt tăng nhanh trong cán cân thương mại với Nhật Bản.
Đồng Mác Đức cũng phải đối mặt với một chiều hướng tương tự như đồng Yên Nhật,
nhưng sự sụt giảm không nhiều như đồng Yên và cũng hồi phục nhanh hơn so với đồng



Yên. Đồng Mác đã giảm từ 2,40 Mác cho 01 Đơla trước cấm vận dầu mỏ xuống cịn 2,80
Mác cho 01 Đôla vào tháng 01 năm 1974. Tuy nhiên cho đến cuối năm 1974, đồng Mác
đã mạnh hơn so với trước thời điểm khủng hoảng dầu mỏ và nó tiếp tục tăng so với đồng
Đơla sau đó.
Có thể nói rằng ảnh hưởng của cú sốc giá dầu lên nền kinh tế tồn cầu, mà biểu
hiện chính là hiệu ứng lên cán cân vãng lai của các nước đã dẩy thế giới vào cuộc suy
thoái trong những năm 1974-1975 với mức tăng trưởng kinh tế âm của các nước như Mỹ,
Nhật, Anh và Đức. Cùng với sự suy thoái kinh tế này là mức thất nghiệp gia tăng ở hầu
hết các nước.

II. Cú sốc giá dầu lần thứ 2 (1979- 1981)
1. Nguyên nhân
Một sự kiện địa chính trị khác với những hậu quả lịch sử to lớn đã châm ngòi cho
cuộc khủng hoảng dầu mỏ thứ hai. Bước vào năm 1979, OPEC quyết định tận dụng
quyền lực định giá của mình sau một giai đoạn kiềm chế bằng cách công bố một mức
tăng giá 15% cho năm 1979. Tuy nhiên động thái nói trên của OPEC sau đó nhanh chóng
trở nên vô nghĩa với các sự kiện gây chấn động tại Iran. Sản xuất dầu mỏ tại Iran bắt đầu
giảm sút khi những biến động xã hội leo thang. Tình hình thị trường xấu đi thậm chí ngay
cả trước khi Đảng Shah bị lật đổ và sứ quán Mỹ tại Tehran bị các tay súng bao vây vào
tháng 11 năm 1979. Cuộc cách mạng tại Iran đã gây ra thiệt hại từ 2 triệu đến 2,5 triệu
thùng dầu khai thác mỗi ngày trong giai đoạn từ tháng 11 năm 1978 cho đến tháng 06
năm 1979. Sau đó thì việc sản xuất hầu như dừng hẳn, dẫn đến giá dầu tăng. Mặc dù mức
suy thối khơng bằng lần 1 nhưng suy thối của các nước công nghiệp lại tỏ ra sâu sắc.
Iraq tiến hành xâm lược Iran vào tháng 09 năm 1980. Chỉ trong vài tuần tổng sản
lượng dầu mỏ của cả hai nước tham chiến này chỉ còn ở mức vài triệu thùng mỗi ngày
hoặc có thể tính là 6,5 triệu thùng mỗi ngày ít hơn so với một năm trước đó. Trong năm
1979, sản lượng dầu thơ tồn thế giới đã giảm 10%. Cũng trong thời gian này, rất nhiều
nước quay lại nỗ lực củng cố các kho xăng dầu dự trữ. Cho đến thời điểm thị trường dầu
thô đạt đỉnh vào giai đồn 1980 - 1981, giá dầu thơ nhẹ của Ả Rập Sêút đã tăng lên sát



mức 40 Đôla một thùng, mức tăng 25 Đôla mỗi thùng hay gấp 3 lần so với mức giá trung
bình năm 1978.

2. Tác động
Tình hình này dẫn đến sự suy thối của các nước cơng ngiệp cũng như ảnh hưởng
đến thị trường tiền tệ lúc bấy giờ. Cuộc cách mạng Iran diễn ra ngay sau khi chính quyền
Carter trong tháng 11 năm 1978 đưa ra chương trình chi tiết bảo vệ giá trị đồng Đơla.
Chương trình này bao gồm việc vay tín dụng từ IMF cũng như phát hành các trái phiếu
có tên gọi là trái phiếu Carter, theo đó Kho bạc Hoa Kỳ đứng ra vay các loại tiền tệ khác
ngồi đồng Đơla. Chương trình này có hiệu quả trong một thời gian khi khôi phục lại đôi
chút niềm tin thị trường, và đồng Đôla đã tăng lên đôi chút trong bảng tỷ giá. Cũng giống
như thời điểm sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất, trong lần khủng hoảng thứ hai
đồng Yên Nhật Bản lại tiếp tục phải chịu sức ép trên thị trường ngoại hối quốc tế. Phản
ứng của đồng Mác Đức cũng lại khác. Cho đến cuối năm 1979, khi tỷ lệ lạm phát của Mỹ
bắt đầu tăng lên, đồng Mác Đức đã bắt đầu tăng giá mạnh mẽ. Xu hướng này đã tiếp tục
cho đến vào năm 1980.
Trong bối cảnh lúc bấy giờ, rút kinh nghiệm từ cú sốc giá dầu lần trước, lần này
các chính phủ kiên quyết hơn trong việc tránh hậu quả của các chính sách lạm phát. Kết
quả là các NHTW của các nước cơng nghiệp đều áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để
phản ứng lại cú sốc giá dầu lần này bằng cách thực hiện những biện pháp nhằm rút bớt
lượng tiền trong lưu thông, dẫn đến làm tăng mức lãi suất thế giới, kết quả là cuộc suy
thoái kinh tế trong năm 1980-1981, đặc biệt ở Anh và Mỹ.

III. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐƠNG Á
1. Giới thiệu:
Cuộc khủng hoảng bắt đầu ở Thái Lan vào tháng 7/1997 rồi lan sang các thị
trường tài chính khác trong đó có cả các con hổ châu Á.
Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan là những nước chịu tác động mạnh nhất.
Hongkong, Lào, Philippines, Malaysia cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình.

Trung Hoa Đại Lục, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng.


Khủng hoảng 1997 là khủng hoảng tồn cầu vì tác động của nó lan tới tận các
nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.

2. Biểu hiện:
Sự mất giá nhanh của các đồng tiền với quy mơ chưa từng có.
Sự thua lỗ và phá sản với quy mô và tốc độ bất thường của hệ thống ngân hàng và
tài chính quốc gia.
Sự thua lỗ và phá sản với quy mô và tốc độ bất thường của các doanh nghiệp.

3. Nguyên nhân:
a. Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém:
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á cố gắng thực hiện bộ ba chính sách khơng
thể đồng thời: cố định đồng tiền của nước mình vào USD, tự do hóa tài khoản vốn, thắt
chặt tiền tệ. Chính điều này đã tạo sức ép tăng giá đồng nội tệ. Để giữ tỷ giá cố định, các
NHTW đã thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, dẫn tới lạm phát. Thực hiện chính sách
vơ hiệu hóa để chống lạm phát vơ hình chung đẩy mạnh các dòng vốn vào nền kinh tế.
Hàn Quốc vào giữa những năm 1990, đồng Won không ngừng lên giá so với USD
làm hàng hóa xuất khẩu của Hàn Quốc tăng giá trên thị trường quốc tế, tài khoản vãng lai
suy yếu. Đồng thời Hàn Quốc lại theo đuổi chế độ tỷ giá neo lỏng lẻo và chính sách tự do
hóa tài khoản vốn làm thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp bằng các khoản vay nước
ngoài mà chủ yếu là vay ngắn hạn và khơng có bảo hiểm rủi ro.

b. Các dịng vốn nước ngồi kéo vào:
Do các nước châu Á thực hiện tự do hóa tài khoản vốn và lãi suất các nước này
cao hơn các nước phát triển nên thu hút các nhà đầu tư nước ngoài từ các trung tâm tiền
tệ lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và châu Âu vốn đang tìm cách thay đổi danh mục đầu tư
của mình.

Cho đến năm 1997, châu Á thu hút gần một nửa tổng số vốn nước ngoài dành cho
những nước đang phát triển. Các nền kinh tế Đơng Nam Á có tỷ lệ lợi tức cao đặc biệt có
sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngồi tìm kiếm tỷ lệ hồn vốn cao. Kết quả là


nhiều nền kinh tế trong khu vực thu nhận được một lượng lớn "tiền nóng" và kinh qua
một thời kỳ giá tài sản tăng vọt mạnh mẽ.

c. Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới:
Từ đầu thập niên 90, Nhật Bản – một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất
của các nước châu Á – bị trì trệ.
Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố
khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của
Đông Nam Á.
Nền kinh tế Mỹ hồi phục, FED quyết định tăng lãi suất để ngăn chặn lạm phát
khiến cho thị trường Mỹ hấp dẫn hơn các nước Đơng Á, từ đó thu hút nguồn vốn ngắn
hạn, làm cho đồng USD lên giá và hàng hóa các nước neo tỷ giá cố định theo USD kém
cạnh tranh. Điều này làm suy yếu tài khoản vãng lai.

d. Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt: (Ngun nhân trực tiếp)
Người ta khơng cịn tin chính phủ có thể tiếp tục giữ tỷ giá cố định. Khi phát hiện
thấy những điểm yếu của nền kinh tế, một số thể chế đầu cô vĩ mô đã tấn công tiền tệ
châu Á.
Do năng lực xử lý khủng hoảng yếu kém, thay vì thả nổi đồng nội tệ ngay khi có
đầu cơ thì các nước lại ra sức bảo vệ tỷ giá. Hiện tượng đầu cơ tiếp tục kéo dài.

4. Diễn biến:
a. Thái Lan:
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân
hàng năm là 9%.

Đến 1996, IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong
bong kinh tế có thể khơng giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khốn Thái
Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng
khoán đều giảm đi.


Đến giữa tháng 5/1997, đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ lớn.
Ngày 30/6/1997, thủ tướng Thái Lan tuyên bố sẽ không phá giá Baht, song rốt cục
lại thả nổi Baht vào ngày 2 tháng 7, chấm dứt thời kỳ dài duy trì chế độ tỷ giá gần như cố
định theo USD (1991: 25.28, 1992: 25.32, 1993: 25.54, 1994: 25.09, 1995: 25.19, 1996:
25.61). Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức
56 Baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức
1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường
vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống cịn 23,5 tỷ USD. Finance One, cơng ty tài chính lớn
nhất Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị
giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thơng qua một gói cứu trợ nữa
trị giá 3,9 tỷ dollar.

b. Philippines:
Ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị
trường ngoại hối để bảo vệ đồng pesobằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay
qua đêm) từ 15% lên 24%.
Khủng hoảng trở nên nghiêm trọng hơn do khủng hoảng chính trị liên quan đến
các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada.
Giá trị đồng peso chỉ được phục hồi khi Gloria Macapagal – Arroyo lên làm tổng
thống.

c. Hongkong:
Vào tháng 10/1997, HKD bị tấn công đầu cơ dù tỷ giá là 7,8 HKD/USD nhưng do
lạm phát nước này cao hơn ở Mỹ. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu nên cơ quan Tiền tệ

Hongkong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Ngày 15 tháng 8 năm
1998, Hongkong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức
nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hongkong bắt đầu mua vào các loại cổ


phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu, công khai
tuyên chiến với các nhà đầu cơ.
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hongkong và thị trường chứng khoán của
nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi
chính sách điều tiết dịng vốn nước ngồi của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của
thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.
Tỷ giá neo giữa Dollar Hongkong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.

d. Hàn Quốc:
Vào thời điểm xảy ra khủng hoảng, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngồi
khổng lồ. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11
các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mơ lớn. Chứng khốn
của Hàn Quốc giảm giá.
Đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000
KRW/USD.

e. Malaysia:
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, đồng Ringgit của Malaysia và thị
trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ
mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá
đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài.
Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái
bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sự giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai.
Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dịng vốn chảy ra
nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm

1997.

f. Indonesia:


Khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới
rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%.
Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn cơng và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đối
thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất
giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ
Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar
Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều
giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc
biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngồi của các cơng ty tăng lên. Trước tình hình
đó, nhiều cơng ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ
thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF
khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng
lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới
500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới
khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1.
Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.

5. Hậu quả:
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá
tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều
doanh nghiệp bị phá sản.
Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị.

Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình qn đầu người
tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá.


6. Ý nghĩa – Bài học kinh nghiệm:
Cần thiết phải có một hệ thống tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch.
Các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngồi và vốn vay ngân hàng nước ngồi có
thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế nên cần ban hành những quy chế nhằm
điều tiết các dịng vốn này.
Cần có những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng ngừa
khủng hoảng tái diễn.

IV. CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở MỸ HIỆN NAY:
1. Thực trạng:
Những yếu kém của nền kinh tế Mỹ đã bộc lộ rõ từ trước năm 2000 nhưng đến
nay mới bùng nổ. Thiếu hụt cán cân thanh toán đã tới trên 400 tỷ từ 2000, trên 4% GDP
và tiếp tục tăng mức thiếu hụt, đạt 811 tỷ năm 2006 bằng 6% GDP. Năm 2007, đồng
USD mất giá, có làm giảm mức thiếu hụt xuống 734 tỷ, nhưng cũng ở mức rất cao. Các
nước khác nếu thiếu hụt ở mức 3% GDP thì đã phải lo lắng bằng mọi cách nhằm điều
chỉnh để giảm mức thiếu hụt này.
Nền kinh tế Mỹ trong hơn 10 năm, có lợi thế là được sự tin tưởng của cả thế giới,
nên tiền đổ vào để cho dân chúng đầu tư và tiêu xài. Hiện nay số tiền đầu tư vào trái
phiếu ở Mỹ lên tới 25,9 ngàn tỷ tính tới tháng 5 năm 2006.
Tiền đổ vào làm thị trường chứng khoán và tài sản lên giá q mức giá trị của nó.
Điều này thì ai cũng biết, nhưng rất nhiều người vẫn không tin là giá có thể xuống. Đặc
biệt là các nhà kinh doanh tiền tệ, họ phải thổi phồng vì càng lên giá, càng say sưa với thị
trường thì giao dịch càng tăng, vay mượn càng nhiều và phí dịch vụ càng lớn.
Bong bóng thị trường chứng khốn đã tự nó giải quyết bằng cách xuống giá, và để
nhằm giữ nền kinh tế khỏi tuột dốc, Cục dự trữ Liên bang (Fed) đã giữ lãi suất ở mức rất



thấp và lại kéo dài thời gian quá lâu, đầu tư vào nhà cửa tiếp tục tăng, giá nhà cửa trở
thành bong bóng. Trong 5 năm qua giá nhà khắp nơi tăng, thấp nhất ở các bang hẻo lánh
nhiều đất cũng tăng ít nhất 17%, và ở nơi có nhiều đầu cơ tăng hơn gấp đôi. Nếu kể từ
năm 1980, giá nhà ở những bang như New York, California, Massachussets tăng 5, 6 lần.

2. Nguyên nhân:
2.1 Mở rộng thị trường cạnh tranh, nhưng lầm lẫn giữa “rào cản” cần phá bỏ và các
“kiểm soát” cần bảo vệ.
Nước Mỹ hơn 20 năm qua, từ thời Tổng thống Reagan, là nước cổ vũ mạnh mẽ
cho việc xoá bỏ các luật lệ và cơ quan kiểm soát nhà nước đối với sản xuất và thương mại
trong nước Mỹ, và dùng mọi biện pháp áp đặt các nước khác mở cửa tự do cho tư bản
Mỹ.
Thứ nhất, cho phép ngân hàng thương mại hoạt động đa năng và rộng khắp cả nước, thay
vì hạn chế mỗi ngân hàng ở một bang, ngân hàng được phép hoạt động trên khắp liên
bang. Trước đó ngân hàng thương mại chỉ hoạt động thu nhận tiền ký gửi rồi cho vay.
Sau thay đổi, ngân hàng thương mại cũng được hoạt động như một cơng ty đầu tư tài
chính, loại công ty này chỉ được làm dịch vụ tạo vốn đầu tư, tức là phát hành và buôn bán
cổ phiếu công ty, trái phiếu, v.v. Loại hoạt động nhận tiền ký gửi và cho vay chịu sự kiểm
soát chặt chẽ của nhà nước như Fed còn loại hoạt động sau liên quan đến chứng khốn
khơng bị một rào cản nào, trừ việc tuân thủ các định chế buôn bán chứng khoán trên thị
trường và nội dung các hợp đồng đã ký kết. Sau đại khủng hoảng năm 1929, Quốc hội đã
ra luật Glass-Steagall 1933-35 phân biệt hai loại công ty hoạt động, và không cho phép
ngân hàng làm dịch vụ phát hành và buôn bán cổ phiếu và trái phiếu, và bảo hiểm. Sự
phá sản của các công ty đầu tư tài chính như Bear Sterns và Lehman, sự sát nhập của
Merrill Lynch vào ngân hàng thương mại, và việc xin phép biến thành ngân hàng thương
mại của hai đại gia còn lại là Goldman Sachs, Morgan Stanley trong kỳ khủng hoảng này
coi như đã xoá sổ sự khác biệt giữa hai loại công ty trên nước Mỹ.
Thứ hai, mở cửa tự do cho mọi loại công cụ tài chính mới xuất hiện mà khơng có sự
kiểm sốt nào, kể cả việc thu thập chính thức các thơng tin thống kê về chúng để theo



dõi. Mục đích chính là tạo cơ hội cho các hoạt động đầu tư rủi ro, cho phép các nhà đầu
tư sử dụng mọi lỗ hổng, tạo ra sự tin tưởng mù qng của đám đơng để làm giàu. Thí dụ
cho cơng ty bảo hiểm bảo hiểm cả những gì không thể bảo hiểm được, như bảo hiểm giá
trị chứng khốn (nợ hay cổ phiếu), nhất là chứng khốn khơng có bảo chứng - hồn tồn
chỉ dựa vào niềm tin là thị trường (nhìn một cách tổng thể) khơng bao giờ xuống dốc. Khi
thị trường xuống dốc toàn diện, các công ty bảo hiểm loại này tất phải phá sản, vì khơng
thể lấy số thu của người thắng trả cho người thua, do ai cũng thua cả. Thí dụ đáng kể nữa
và là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng hiện nay là các chứng khoán lấy nợ mua
nhà làm bảo chứng. Các công ty đầu tư, hoặc tập trung tiền của các nhà đầu tư, hoặc
mượn tiền ngắn hạn rồi cho vay (mua nhà hoặc mua các tài sản khác kể cả tài sản tài
chính) hoặc mua lại các giấy nợ, sau đó gộp chung các giấy nợ lại, chia làm các chứng
khoán nhỏ đem bán cho các nhà đầu tư. Vì lịng tham, họ khuyến khích cho vay cả những
người khơng có bảo chứng về tài sản hoặc thu nhập, lại nhử bằng lãi suất ban đầu rất
thấp, đây là loại lãi suất biến thiên, sau 3 hoặc 5 năm là phình bong bóng theo lãi suất thị
trường. Không những dân chúng mua, mà các ngân hàng, cơng ty tài chính, quĩ tín dụng,
nhà đầu tư nước ngoài cũng tin tưởng mù quáng vào tương lai của thị trường nhà cửa.
Ngân hàng thay vì hoạt động mơi giới giữa người ký gửi tiền và người đi vay thì họ cũng
xơng vào đầu tư, mua giữ các CMO (trái phiếu hay chứng khoán thế chấp bằng nợ cho
vay mua nhà ) rác này. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2007, 8 ngân hàng lớn và công ty
tài chính lớn của Mỹ như Merrill Lynch, Golden Sachs, City Group, Morgan Chase,
Bank of America đã phát hành 286 tỷ CMO dưới chuẩn. Khi lãi suất tăng, dù không
nhiều, tiền mượn mua nhà mất khả năng chi trả, các CMO trở thành rác thật, khơng cịn
mang giá trị gì nữa vì chúng chỉ có giá khi có tiền chi trả của người đi vay. Các ngân
hàng, cơng ty tài chính, không những ở Mỹ mà ở khắp thế giới đang mất vốn lớn và có
thể đi đến phá sản. Tháng 10 và 11 năm 2007 vừa qua, tập đoàn City Group khai mất 8,4
tỷ vốn, công ty Morgan-Stanley mất 3,7 tỷ vốn và nhiều ngân hàng như Bank of America
và nhiều quĩ tài chính khác mất vốn lên hàng tỷ. Nhiều tên tuổi khác sẽ tiếp tục khai mất
vốn vì đây chỉ là khởi đầu của khủng hoảng.

Thứ ba, cho phép các hành động đầu tư hồn tồn mang tính đầu cơ. Bán khống trần trụi
(naked shorting) là một thí dụ. Đây là hành động mà giới tài chính có thể sử dụng để đẩy


giá một loại chứng khốn nào đó xuống để làm giàu. Họ bán chứng khốn ra (dù khơng
có chứng khốn trong tay) – tức là bán được giá cao- và làm thế giá chứng khoán bị đẩy
xuống, họ mua lại với giá thấp. Vì tình hình nguy ngập hiện nay, Ủy ban chứng khoán
(SEC) đã phải ra lệnh cấm cả việc bán khống bình thường (tức là phải vay chứng khốn
của ai đó thì mới có quyền bán) đối với một loạt các cổ phiếu công ty.

2.2 Sử dụng hai công ty nhằm giúp dân nghèo mua nhà Fannie Mae, Freddie
Mac nhằm phục vụ ý đồ chính trị và chính sách lãi suất thấp kéo dài quá lâu
nhằm vực dậy thị trường chứng khốn.
Chính trị mị dân và hai cơng ty địa ốc Fannie Mae và Freddie Mac là điều kiện để
tự do tài chính tung hồnh. Hai cơng ty này trước năm 1968 là hai cơ quan nhà nước làm
nhiệm vụ bảo hiểm nhà ở cho dân có thu nhập trung bình thấp nhằm khuyến khích ngân
hàng cho họ vay tiền mua nhà. Điều kiện mua nhà thường đòi hỏi một số vốn tối thiểu
(thường là 20% nhưng ít nhất là 10% giá nhà) và một điều kiện là tiền trả góp hàng tháng
khơng hơn 30% thu nhập. Từ 1968 trở đi, Hạ viện Mỹ biến hai cơ quan này thành hai
cơng ty tư nhân có cổ phần viên, nhưng được nhà nuớc bảo trợ nên không bị đánh thuế
tiểu bang và liên bang. Đến năm 1999, Hạ viện Mỹ lại quyết định giảm thiểu, gần như
xoá bỏ các điều kiện mua nhà, kể cả việc không phải trả trong vòng hai năm, và lãi suất
dưới mức thị trường 1%. Việc các nhà chính trị hành động tạo điều kiện thuận lợi như thế
vừa nhằm mua chuộc cử tri nghèo mà tranh thủ “ơn” mà hai công ty sẵn sàng đóng góp
cho việc tranh cử; ơn này lên tới 200 triệu USD trong vòng 10 năm qua. Những người
lãnh đạo cơng ty cũng tự trả lương cho mình ở mức q cao mà khơng có sự kiểm sốt
nào (lương năm lên tới 7-8 triệu và tiền trả lúc về hưu lên tới 20 triệu).
Cùng với Fannie Mae và Freddie Mac, các cơng ty tài chính khác cũng lao vào tạo
ra và bán các chứng khoán dựa vào vốn cho vay từ hai cơng ty này. Các loại chứng khốn



khác xuất phát từ các loại chứng khoán trên (như bảo hiểm) ra đời như những con thiêu
thân thu hút bởi ánh sáng của đồng tiền. Lãi suất thấp khiến việc mua nhà tương đối dễ
dàng, giá mua tiếp tục tăng nên người tham gia đều tin tưởng rằng giá nhà sẽ không bao
giờ giảm; họ chỉ cần mua rồi bán lại ngay là có thể làm giàu. Hơn nữa các nhà đầu tư lại
đánh giá là nếu có sự cố thì nhà nước sẽ nhảy vào cứu giúp. Các công ty đánh giá trên thị
trường đều thi nhau cho hạng cao các loại chứng khốn trên. Chính vì thế, riêng hai công
ty trên đã nắm tài sản cũng như trách nhiệm chi trả 6.000 tỷ USD (gồm cho vay, bảo
hiểm tiền cho vay, và sở hữu chứng khoán dựa vào nợ mua nhà), bằng ½ số cho vay địa
ốc gia cư. Trong số trên, có thể đến trên 2.000 tỷ dưới chuẩn, hiện nay không ai muốn
mua.

3. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay:
3.1 Tác động về mặt kinh tế:
Suy thối ngày càng mang tính tồn cầu:lạm phát ở Mỹ quí hai bất ngờ tăng 3,3%
tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu và tăng chi tiêu quốc phịng. Nhưng điều này sẽ khơng
tiếp tục vì đồng Mỹ đang lên giá trở lại và dấu hiệu chi tiêu của dân chúng sẽ giảm mạnh,
nhất là vào tháng 8, số thất nghiệp tăng lên 6,1% và thêm 84 ngàn người mất việc.
Vừa qua quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF ước lượng thiệt hại đối với các tập đoàn tài chính –
ngân hàng có thể lên tới 945 tỉ USD. Con số này chưa tính đến thiệt hại trực tiếp đối với
người tiêu dùng Mỹ.
Kể từ tháng 8 năm 2007 đến hết tháng 8 năm 2008, trên 770000 căn nhà ở Mỹ bị
ngân hàng xiết nợ do các gia đình không đủ khả năng trả nợ tiền vay mua nhà. Cuộc
khủng hoảng bất động sản cũng khiến hàng trăm ngàn người mất việc làm.
Sự mất giá của các tài sản nhà đất cũng sẽ đẩy tỉ lệ nợ trên tài sản sở hữu của người tiêu
dùng Mỹ lên cao hơn con số 18% hiên nay, bắt buộc họ phải thắt chặt hầu bao. Sự thay
đổi thói quen tiêu dùng này sẽ tác động lớn lên nền kinh tế Mỹ vốn phụ thuộc chính vào
tiêu dùng nội địa, cũng như nền kinh tế của các quốc gia xuất khẩu vào Mỹ.



Khoản tiền cứu trợ 700 tỉ USD, chưa kể hàng trăm tỉ USD chính phủ Mỹ đã chi trong
năm qua nhằm cứu nguy cho các công ty bất động sản, tài chính và ngân hàng, sẽ là gánh
nặng lớn đối với ngân sách của chính phủ Mỹ trong nhiệm kì tới.
Hiện tại, chưa kể những khoản tiền cứu trợ này, thâm hụt ngân sách trong năm 2008 đã
ước tính lên tới con số 482 tỉ USD, cao nhất trong lịch sử, và số tiền nợ của chính phủ
Mỹ đã lên tới con số kỉ lục trên 9.600 tỉ USD, tương đương khoảng 60% Tổng thu nhập
Quốc dân của Mỹ.

3.2 Tác động tới thị trường tài chính:
Khủng hoảng kinh tế khơng chỉ diễn ra ở nước Mỹ mà nó đã và đang ảnh hưởng trực tiếp
các nền kinh tế khác (châu Âu).


Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng
thấp và khơng bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5
của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các
khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.



Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên
tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới
chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ
chính phủ.



Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa
vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp
Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.




11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac
Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay
sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.




31/7: Deutsche Bank cơng bố khoản trích lập dự phịng tiếp theo là 3,6 tỷ USD,
nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một
trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng tồn cầu



7/9: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm sốt hai
tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường
nhà đất Mỹ.



15/9: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại
sau vụ khủng bố 2 tồ tháp đơi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp
đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp
thâu tóm; American International Group - tập đồn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất
khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.




16/9: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị
trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng
của hệ thống tài chính tồn cầu.



25/9: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ
đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo
hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm sốt WaMu và sau đó bán các
tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9
tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn
nhất trong lịch sử Mỹ.

4. Nhận định xu hướng:
Cuộc khủng hoảng có thể kéo dài trên 18 tháng. Tiến sĩ Vũ Quang Việt cho rằng
nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm từ vài thập kỷ qua thì khơng có cuộc khủng hoảng kinh tế
nào quá 18 tháng. Tuy nhiên tình hình hiện nay có điểm khác biệt. Tâm lý đang phổ biến
trong xã hội Mỹ cho rằng khả năng phá sản của ngân hàng khá dễ dàng do đó ngân hàng
rất khó vay của nhau, dân chúng cũng mất niềm tin vào các ngân hàng, đặc biệt là các
ngân hàng nhỏ và yếu. Vì vậy các cơng ty và dân chúng đầu tư mua các cơng cụ tài chính


tương đối an tồn hơn. Trong khi đó ngân hàng đang ơm các chứng khốn rác lại mất khả
năng thu hút tiền gửi nên rất kỹ lưỡng trong việc cho vay.
Tỷ giá trong tương lai có thể ít biến động do khủng hoảng hiện nay không chỉ tác
động trong phạm vi nước Mỹ mà cịn đang lan rộng tồn cầu.
Lãi suất trong ngắn hạn có thể giảm để kích thích đầu tư, ổn định và vực dậy nền
kinh tế trì trệ.




×