Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Bảo tồn di sản văn hóa khu vực Tây Yên Tử gắn với phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.31 MB, 211 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Hoàng Thị Hoa

b¶o tån di s¶n v¨n hãa khu vùc t©y yªn tö
g¾n víi ph¸t triÓn du lÞch
Chuyên ngành: Quản lý Văn hóa
Mã số: 62 31 06 42

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐẶNG VĂN BÀI

Hà Nội - 2015


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản luận án tiến sĩ Bảo tồn di sản văn hóa khu
vực Tây Yên Tử gắn với phát triển du lịch là do tôi viết và chƣa công bố.
Trong quá trình thực hiện luận án, tôi đã kế thừa những nguồn tài liệu của các
nhà nghiên cứu đi trƣớc và có trích dẫn đầy đủ. Kết quả nêu trong luận án là
trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 2015
Tác giả



Hoàng Thị Hoa


2
MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ............................. 3
DANH MỤC BẢN ĐỒ TRONG LUẬN ÁN ................................................... 4
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT, TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU KHU VỰC TÂY YÊN TỬ ................................................... 11
1.1. Cơ sở lý thuyết ..................................................................................... 11
1.2. Những căn cứ xác định khu vực Tây Yên Tử ...................................... 32
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận án ..................... 36
1.4. Hệ thống di sản văn hóa khu vực Tây Yên Tử .................................... 42
Tiểu kết chƣơng 1........................................................................................ 46
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA KHU VỰC
TÂY YÊN TỬ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH ..................................... 47
2.1. Thực trạng bảo tồn di sản văn hóa tại các điểm tiêu biểu .................... 47
2.2. Thực trạng du lịch văn hóa khu vực Tây Yên Tử ................................ 62
Tiểu kết chƣơng 2........................................................................................ 84
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN DI SẢN VĂN
HÓA KHU VỰC TÂY YÊN TỬ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH ........ 86
3.1. Định hƣớng bảo tồn di sản văn hóa và phát triển du lịch khu vực Tây
Yên Tử......................................................................................................... 86
3.2. Giải pháp bảo tồn di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch khu vực

Tây Yên Tử ................................................................................................. 95
3.3. Khó khăn và thách thức...................................................................... 113
3.4. Đề xuất và kiến nghị .......................................................................... 115
Tiểu kết chƣơng 3...................................................................................... 117
KẾT LUẬN ................................................................................................... 119
DANH MỤC BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .......................... 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 126
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 139


3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

1.

BCĐ PT DL

: Ban chỉ đạo phát triển du lịch

2.

BQL

: Ban quản lý

3.

CN

: Công nghiệp


4.

CNH - HĐH

: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

5.

ĐT293

: Đƣờng tỉnh 293

6.

KCN

: Khu công nghiệp

7.

Nxb

: Nhà xuất bản

8.

PT-TH

: Phát thanh truyền hình


9.



: Quyết định

10.

QL

: Quốc lộ

11.

QL1A

: Quốc lộ 1A

12.

QL18

: Quốc lộ 18

13.

STT

: Số thứ tự


14.

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

15.

TNHH TM

: Trách nhiệm hữu hạn thƣơng mại

16.

Tr

: Trang

17.

UBND

: Ủy ban nhân dân

18.

UNESCO

: Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa

của Liên Hợp Quốc

19.

UNWTO

: Tổ chức Du lịch thế giới

20.

VHTT

: Văn hóa thông tin

21

VHTT&DL

: Văn hóa thể thao và du lịch


4
DANH MỤC BẢN ĐỒ TRONG LUẬN ÁN
Bản đồ 1: Kết nối giao thông các di tích…………………………………. 71


5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa

vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác [56]. Di sản có nhiều loại, di
sản vật thể và phi vật thể ở nhiều dạng thức tồn tại khác nhau từ di sản văn
hóa, di sản thiên nhiên, di sản hỗn hợp với dạng tồn tại đơn lẻ, dạng tồn tại
nhƣ một khu di sản với những đặc trƣng chung. Không gian sinh tồn phong
phú tồn tại và phát triển trên nhiều địa bàn, địa hình khác nhau. Chính vì vậy,
cách ứng xử đối với mỗi di sản cụ thể khác nhau và cách thức bảo tồn cho
từng loại di sản cũng khác nhau.
Văn hóa là điều kiện và môi trƣờng để cho du lịch phát sinh và phát
triển. Cùng với tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hóa là một trong những
điều kiện đặc trƣng cho việc phát triển du lịch của một quốc gia, một vùng,
một địa phƣơng. Giá trị của những di sản văn hóa: di tích lịch sử, các công
trình kiến trúc, các hình thức nghệ thuật, các tập quán, lễ hội, ngành nghề
truyền thống… cùng với các thành tựu kinh tế, chính trị, xã hội, các cơ sở văn
hóa nghệ thuật, các bảo tàng… là những đối tƣợng cho du khách khám phá,
thƣởng thức, cho du lịch khai thác và sử dụng. Sự khai thác và thu lợi nhuận
từ tài nguyên cùng việc xây dựng các khu điểm du lịch đều phản ánh trí tuệ và
sức sáng tạo của loài ngƣời. Chính những tài nguyên này không chỉ tạo ra môi
trƣờng, điều kiện cho du lịch phát sinh, phát triển mà còn quyết định quy mô,
thể loại, chất lƣợng và hiệu quả hoạt động du lịch của một quốc gia, một vùng,
một địa phƣơng.
Xét ở góc độ kinh tế, nhờ có du lịch đã tạo ra một nguồn thu nhập cho
phép các địa phƣơng tích luỹ và phát triển kinh tế - xã hội; trong đó có văn
hóa. Nhờ đó các di sản văn hóa đƣợc bảo vệ, tu sửa, tôn tạo đồng thời với
việc xây dựng mới các cơ sở văn hóa và làm phong phú thêm các giá trị văn


6
hóa đƣơng đại. Chính vì văn hóa và du lịch có mối quan hệ tƣơng tác lẫn nhau
nhƣ vậy nên văn hóa và du lịch không thể tách rời nhau và càng không thể đối

lập nhau.
Yên Tử là một dãy núi lớn ở vùng Đông Bắc của miền Bắc Việt Nam,
thuộc cánh cung Đông Triều, dài khoảng 80 km, rộng khoảng 50 km. Dãy
Yên Tử gồm nhiều đỉnh cao, đỉnh cao nhất là khu vực chùa Đồng (cao 1068
m so với mực nƣớc biển). Phía Đông dãy Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh và
phía Tây thuộc tỉnh Bắc Giang.
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, khu vực phía Đông dãy Yên Tử đã
đƣợc Chính phủ và tỉnh Quảng Ninh nghiên cứu, đầu tƣ, trùng tu, tôn tạo các
di tích lịch sử - văn hóa. Đến nay, Yên Tử đã trở thành khu du lịch văn hóa
nổi tiếng, thu hút khoảng 3 triệu lƣợt du khách mỗi năm. Du khách đến với
Yên Tử không chỉ vì cảnh quan thiên nhiên độc đáo, mà còn bởi nơi đây lƣu
giữ một hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa gắn với sự ra đời, hình thành và
phát triển của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Tƣơng tự với khu vực phía Đông Yên Tử, khu vực phía Tây Yên Tử có
cảnh quan thiên nhiên phong phú, có nhiều loại động thực vật quý hiếm. Đặc
biệt, cách chùa Đồng 2,84 km (dƣới chân núi Yên Tử) là khu bảo tồn sinh thái
Đồng Thông thuộc huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang. Ngoài ra, khu vực Tây
Yên Tử còn lƣu giữ nhiều di sản văn hóa liên quan tới thời Lý - Trần. Đầu
tiên phải kể đến chùa Vĩnh Nghiêm, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, đây là
ngôi chùa đƣợc xây dựng từ thời Lý, tới thời Trần, nơi đây đã đƣợc chọn là
trung tâm đào tạo và tu luyện của các tăng đồ Phật giáo thuộc thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử.
Nhận thức đƣợc những tiềm năng du lịch ở khu vực Tây Yên Tử, năm
2010, tỉnh Bắc Giang đã đề xuất và đƣợc Chính phủ cho phép xây dựng ĐT
293 dài 73 km nối từ trung tâm thành phố Bắc Giang tới Khu bảo tồn sinh thái
Đồng Thông (chân núi chùa Đồng - Yên Tử), dự kiến tới năm 2016 hoàn


7
thành. Tuyến đƣờng này sẽ kết nối các điểm di tích lịch sử, cảnh quan thiên

nhiên khu vực này thành một lộ trình hoàn thiện để đi lên chùa Đồng, Yên Tử.
Theo tính toán của các nhà chuyên môn, tới năm 2020, khu vực này sẽ thu hút
khoảng 2 - 2,5 triệu du khách mỗi năm.
Vậy, vấn đề đặt ra cho tỉnh Bắc Giang là cần phải bảo tồn các di sản văn
hóa, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên và phát triển các dịch vụ để phục vụ du
khách tham quan. Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có công trình khoa học nào
đánh giá tổng thể về giá trị của các di sản tại khu vực Tây Yên Tử, cũng nhƣ
chƣa có định hƣớng bảo tồn hay mô hình quản lý nào cho từng loại hình di sản
nhằm phát triển du lịch tại khu vực này. Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài
Bảo tồn di sản văn hóa khu vực Tây Yên Tử gắn với phát triển du lịch làm
nghiên cứu của luận án.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các cơ sở lý thuyết về di sản văn hóa và du lịch.
Thực trạng bảo tồn di sản văn hóa và phát triển du lịch khu vực Tây Yên Tử.
Lấy 3 điểm tiêu biểu làm nghiên cứu: chùa Vĩnh Nghiêm; khu di tích và danh
thắng Suối Mỡ; khu bảo tồn sinh thái Đồng Thông.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Khu vực Tây Yên Tử cùng với hệ thống di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể đa dạng, phong phú. Bên cạnh những giá trị văn hóa,
lịch sử tiêu biểu, Tây Yên Tử còn là khu vực có nhiều giá trị về sinh thái tự
nhiên. Trong khuôn khổ của luận án tác giả chọn các điểm nghiên cứu cụ thể:
chùa Vĩnh Nghiêm, khu di tích và danh thắng Suối Mỡ, khu bảo tồn sinh thái
Đồng Thông.
- Thời gian: Tác giả luận án khảo sát khu vực Tây Yên Tử đã đƣợc một
thời gian dài, trong luận án này chúng tôi nghiên cứu từ năm 2010 đến nay.
Chúng tôi chọn thời gian này nghiên cứu bởi vì từ năm 2010 Chính phủ cho


8
phép tỉnh Bắc Giang đầu tƣ kết cấu hạ tầng và lập quy hoạch bảo tồn tổng thể

các di sản văn hóa khu vực Tây Yên Tử.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án phân tích, đánh giá các giá trị của di sản văn hóa khu vực Tây
Yên Tử, thực trạng bảo tồn di sản văn hóa và phát huy giá trị di sản phục vụ
phát triển du lịch, từ đó, đề xuất các định hƣớng và giải pháp bảo tồn di sản
văn hóa khu vực Tây Yên Tử nhằm phát triển du lịch.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các nội dung về lý thuyết, phƣơng pháp luận về di sản
văn hóa và phát triển du lịch.
- Đánh giá thực tiễn bảo tồn di sản văn hóa và phát triển du lịch khu
vực Tây Yên Tử. Từ đó xác định tiềm năng để phát triển du lịch của khu vực
Tây Yên Tử.
- Phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức, từ đó
đƣa ra định hƣớng và giải pháp bảo tồn di sản gắn với phát triển du lịch khu
vực Tây Yên Tử.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng cách tiếp cận của các bên liên quan trong nghiên cứu
khu vực Tây Yên Tử, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của nhà nƣớc và sự
tham gia của cộng đồng vào quá trình này.
- Phƣơng pháp tiếp cận liên ngành/đa ngành: Lịch sử, nhân học, văn
hóa, du lịch học, văn hóa dân gian, quản lý văn hóa đƣợc áp dụng. Đặc biệt,
trong các thành tố liên ngành, hƣớng tiếp cận của quản lý văn hóa sẽ giúp các
vấn đề nghiên cứu đƣợc giải quyết đúng hƣớng, hiệu quả và toàn diện.
- Luận án sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học xã hội, trong
đó có các phƣơng pháp định tính và phƣơng pháp định lƣợng, một số kỹ thuật
của phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để đạt mục tiêu nghiên cứu gồm:


9

+ Phƣơng pháp nghiên cứu trƣờng hợp (case study) nhằm xác định vị
trí vai trò của từng điểm trong quá trình phát huy các giá trị di sản trong phát
triển du lịch tại địa phƣơng.
+ Phƣơng pháp điền dã: Thâm nhập thực tế, quan sát tham dự, ghi
chép, chụp ảnh làm rõ những giá trị tiềm ẩn của các di sản nhằm xác định cụ
thể vấn đề nghiên cứu, thực trạng nghiên cứu trong nội dung luận án.
+ Phƣơng pháp thống kê: Thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu liên
quan đến văn hóa và du lịch nhằm phục vụ cho quá trình phân tích các luận
điểm đƣợc trình bày trong luận án.
- Phƣơng pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến chuyên gia của tỉnh và
trung ƣơng về các vấn đề có liên quan đến văn hóa cộng đồng, sản phẩm văn
hóa, sản phẩm du lịch gắn liền với sản phẩm văn hóa.
- Phân tích tổng hợp: Phƣơng pháp này phải dùng nhiều kiến thức khác
nhau thuộc nhiều lĩnh vực để tập hợp các thông tin tài liệu đã thu thập đƣợc,
xây dựng các vấn đề có liên quan đến lý luận và thực tiễn về cộng đồng, hiện
trạng môi trƣờng và đề xuất các giải pháp đáp ứng mục tiêu đề ra.
6. Đóng góp của luận án
- Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong công
tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa qua phát triển du lịch. Trong đó,
gắn bảo tồn di sản văn hóa với phát triển du lịch với nhiều loại hình di sản,
qua các điểm nghiên cứu.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng bảo tồn di sản văn hóa và phát triển du
lịch khu vực Tây Yên Tử, đã xác định những di sản có giá trị phát triển du lịch.
- Về mặt thực tiễn: Giúp các cấp, các ngành xây dựng các chƣơng trình,
kế hoạch cụ thể nhằm khai thác có hiệu quả từng loại hình di sản. Tìm hƣớng
đi cho công tác phát huy các giá trị di sản văn hóa thông qua phát triển du lịch.
Kết nối Tây Yên Tử với Đông Yên Tử thành quần thể di tích danh thắng Yên
Tử hoàn chỉnh.



10
7. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu (6 trang), Kết luận (6 trang), Tài liệu tham khảo
(13 trang),Phụ lục (70 trang), Luận án gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết, tổng quan tình hình nghiên cứu khu vực Tây
Yên Tử (36 trang)
Chƣơng 2: Thực trạng bảo tồn di sản văn hóa khu vực Tây Yên Tử gắn
với phát triển du lịch (39 trang)
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp bảo tồn di sản văn hóa khu vực
Tây Yên Tử gắn với phát triển du lịch (33 trang).


11
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT, TỔNG QUAN
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU KHU VỰC TÂY YÊN TỬ
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Di sản văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm di sản văn hóa
Trong Công ước quốc tế về du lịch văn hóa năm 1999 đã nêu rõ: “Di
sản là một khái niệm rộng lớn gồm cả môi trƣờng thiên nhiên lẫn văn hoá:
Bao gồm cảnh quan, các tổng thể lịch sử, các di chỉ tự nhiên và do con ngƣời
xây dựng và cả tính đa dạng sinh học, các sƣu tập, các tập tục truyền thống
và hiện hành, tri thức và kinh nghiệm sống. Di sản ghi nhận và thể hiện quá
trình phát triển lịch sử lâu dài vốn đã tạo nên bản chất của các thực thể quốc
gia, khu vực, bản địa và địa phƣơng và là một bộ phận hữu cơ của đời sống
hiện đại”1
Ở nƣớc ta, di sản văn hóa đƣợc quy định trong phần nói đầu của Luật
Di sản văn hóa, ban hành năm 2001, sửa đổi bổ sung năm 2009: “Di sản văn
hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là bộ

phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng
nƣớc và giữ nƣớc của nhân dân ta” [83].
Điều 1, Luật Di sản văn hóa nói cụ thể hơn: “Di sản văn hóa bao gồm di
sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật
chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này qua thế
hệ khác ở nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [83]. Theo cách tiếp cận
giá trị văn hóa, di sản văn hóa bao gồm hầu hết các giá trị văn hóa, do con
ngƣời và thiên nhiên tạo nên trong quá khứ. Nó là phần tinh túy nhất, tiêu biểu
1

Công ƣớc quốc tế về du lịch văn hóa (đƣợc ICOMOS thông qua tại Đại Hội đồng lần thừ 12 ở
Mexico, tháng10-1999).


12
nhất đọng lại sau hàng loạt hoạt động sáng tạo của con ngƣời từ thế hệ này qua
thế hệ khác. Vì tính chất đặc thù của nó phải đƣợc thẩm định một cách khắt khe
bằng sự thừa nhận của cả cộng đồng ngƣời trong một thời gian dài, nên di sản
văn hóa về phƣơng diện giá trị là đặc biệt bền vững, về số lƣợng cũng lớn hơn
nhiều so với các giá trị của thời hiện tại. Bởi vậy, có thể nói di sản văn hóa là
một bộ phận quan trọng nhất, cơ bản nhất của nền văn hóa.
1.1.1.2. Quản lý di sản văn hóa
Quản lý văn hóa ở nƣớc ta là quá trình xây dựng đƣờng lối, chính sách
và tổ chức hoạt động nhằm bảo tồn, phát huy tốt nhất giá trị của văn hóa Việt
Nam, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu cho văn
hóa dân tộc. Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã nhận đƣợc
sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta. Ngay sau khi đất nƣớc giành
độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65-SL về bảo tồn cổ tích
trên toàn cõi Việt Nam [65]. Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nƣớc ta đã ban
hành nhiều nghị quyết, nghị định, chỉ thị về công tác bảo vệ di sản văn hóa.

Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
(khóa VIII) đã xác định 10 nhiệm vụ quan trọng về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có nhiệm vụ bảo
tồn và phát huy các di sản văn hóa.
Quản lý di sản văn hóa là quá trình theo dõi định hƣớng và điều tiết quá
trình tồn tại, phát triển các di sản văn hóa trên một địa bàn cụ thể nhằm bảo tồn,
phát huy tốt nhất các giá trị của chúng. Đây là lợi ích to lớn nhiều mặt, lâu dài
trong cộng đồng dân cƣ - chủ nhân của các di sản văn hóa đó. Đồng thời là trách
nhiệm của nhà nƣớc, doanh nghiệp hay các tổ chức xã hội, nói cách khác là quản
lý di sản là tổng hòa trách nhiệm của các bên liên quan đến di sản.
Thực tế ở nƣớc ta cho thấy quản lý di sản văn hóa là quá trình xuyên
suốt trong đời sống xã hội ở tất cả các cấp độ, các địa phƣơng. Công tác này
giúp cho đời sống văn hóa của xã hội có đƣợc nền tảng ổn định vững bền để


13
tồn tại và phát triển. Di sản văn hóa là tài sản của quá khứ để lại, lƣu giữ dấu
ấn thời gian nhƣng cũng trở thành đối tƣợng bị thời gian tàn phá, cho nên
chúng ta cần có các biện pháp bảo tồn thích hợp để có thể giữ gìn lâu dài.
Đồng thời phải làm cho các di sản đến từ quá khứ phải trở thành một phần
quan trọng của đời sống xã hội hiện đại. Tất cả các hoạt động đó đƣợc coi nhƣ
công việc thuộc về quản lý di sản văn hóa. Tuy nhiên, công tác quản lý di sản
văn hóa không chỉ dừng lại ở việc bảo tồn những giá trị đặc sắc mà còn phải
tiến hành những động thái tích cực, phù hợp để bổ sung, nâng cao giá trị để
phù hợp với yêu cầu của xã hội đƣơng đại.
Nội dung quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa đƣợc đề cập cụ thể tại
điều 54 Luật Di sản văn hóa, gồm 8 nội dung là: 1/ Xây dựng và chỉ đạo thực
hiện chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển sự nghiệp bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa; 2/ Ban hành và tổ chức thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa; 3/ Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động

bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật về di sản văn hóa; 4/ Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học, đào tạo, bồi đƣỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hóa; 5/ Huy
động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa; 6/ Tổ chức, chỉ đạo khen thƣởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa; 7/ Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy di
sản văn hóa; 8/ Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa [83].
Khi bàn về quản lý di sản văn hóa phải xem xét các tác động hai chiều
của con ngƣời đến di sản văn hóa. Không thể bỏ qua các hoạt động nghiên
cứu, sƣu tầm, kiểm kê, tu bổ, tôn tạo, khai thác, sử dụng di sản văn hóa và
phát triển kinh tế có liên quan đến di sản. Đối tƣợng quản lý ở đây không chỉ
là di sản mà bao gồm tất cả các hoạt động trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn
hóa và cả những con ngƣời thực hiện các hoạt động đó. Vì vậy, trong quản lý


14
di sản văn hóa ngƣời ta luôn quan tâm đến vai trò và trách nhiệm xã hội của
toàn thể cộng đồng.
Để hiểu rõ bản chất của quản lý di sản theo yêu cầu của UNESCO,
chúng ta cũng cần hiểu rõ khái niệm quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa. Có
thể hiểu một cách tổng quát, quản lý di sản văn hóa là quản lý các hoạt động
của con ngƣời, cộng đồng xã hội, là những tác nhân có thể tác động ở cả hai
chiều thuận và nghịch tới di sản. Nhƣ vậy, về thực chất quản lý di sản văn hóa
cũng là thiết lập mối quan hệ gắn bó giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc về
văn hóa và cộng đồng cƣ dân địa phƣơng nơi có di sản, nhằm tạo ra sự đồng
thuận về cách thức ứng xử với di sản văn hóa. Và quan trọng hơn cả là nhận
diện rõ các mặt giá trị nổi bật của di sản, đồng thời đƣa ra đƣợc những giải
pháp thích hợp làm cho các giá trị di sản trở nên thực sự cần thiết, có ích cho
hôm nay và mai sau.

Quản lý di sản văn hóa phi vật thể bao gồm các tinh hoa đã đƣợc công
bố toàn quốc hoặc những báu vật nhân văn sống, các nghệ nhân, ngƣời biểu
diễn ít đƣợc công nhận và cuối cùng, ngƣời trông coi truyền thống, hình thái
tôn giáo [92].
Những báu vật nhân văn sống là những cá nhân hoặc nhóm các cá nhân
đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy sự liên tục của di sản văn hóa phi vật
thể và đƣợc ghi nhận nhƣ ngƣời gìn giữ văn hóa quốc gia hoặc quốc tế quan
trọng. Xét từ góc độ du lịch, số lƣợng nghệ nhân có thể biểu diễn phục vụ du
lịch còn hạn chế. Vì vậy, khi làm du lịch văn hóa không dựa vào những ngƣời
biểu diễn để giải trí cho những khách du lịch là những ngƣời có thể biết rất ít
về văn hóa mà họ đang khám phá.
Người biểu diễn và nghệ nhân chiến lƣợc quản lý đang đƣợc sử dụng
để bảo vệ loại di sản phi vật thể này là thành lập các viện, trung tâm văn hóa,
hội trƣờng âm nhạc, công viên, bảo tàng ở đó những ngƣời biểu diễn và nghệ
nhân có thể đƣợc khuyến khích thƣờng xuyên. Một hành động quản lý nhƣ


15
vậy cung cấp một số lợi ích cho chính các nghệ nhân, cũng nhƣ cho công
chúng đi du lịch. Những nơi này hình thành trung tâm cho những ngƣời có thể
bị phân tán trên một khu vực địa lý rộng lớn. Hơn nữa, giá trị của những thứ,
những ngƣời biểu diễn, nghệ nhân làm đƣợc ghi lại có thể đƣợc xác nhận lại
một lần nữa.
Quản lý di sản văn hóa vật thể có thể tóm tắt thành các bƣớc trung gian
cho chƣơng trình quản lý di sản văn hóa vật thể nhƣ sau:
1. Nhận dạng, phân loại và cung cấp tài liệu của di sản và các thành tố
của nó trong vùng xác định.
2. Đánh giá các giá trị văn hóa đƣợc gợi ra bằng cơ cấu tự nhiên của di sản.
3. Phân tích các cơ hội và hạn chế sẽ có một mối quan hệ tới việc tạo ra
chính sách quản lý lần lƣợt sẽ chỉ đạo việc bảo tồn các giá trị văn hóa của di

sản. Bƣớc này cũng sẽ bao gồm việc tạo ra 1 bộ tập hợp các kiến nghị hoặc kế
hoạch bảo tồn đầy đủ với khung thời gian thực hiện.
4. Việc thực hiện các quyết định và kiến nghị đƣợc đặt ra sớm hơn
trong quá trình này, bao gồm trong đó giám sát những việc đang diễn ra hoặc
ghi chép chi tiết trƣớc khi loại bỏ tài sản di sản.
Về mặt chiến lƣợc, quản lý di sản văn hóa đặt ra những nhiệm vụ chính
phải thực hiện là: Nhận dạng các mặt giá trị tiêu biểu của di sản, tình trạng kỹ
thuật, hiện trạng môi trƣờng thiên nhiên và xã hội bao quanh di sản; làm rõ
các yếu tố tác động tới di sản theo cả 2 chiều thuận, nghịch để có định hƣớng
kiểm soát đƣợc những tác động tiêu cực làm ảnh hƣởng tới sự toàn vẹn và suy
giảm giá trị của di sản, nghiên cứu đề xuất giải pháp giảm thiểu các xung đột
có thể xảy ra trong quá trình bảo tồn và phát triển trong khu vực di sản, cũng
tức là tạo lập sự cân bằng động giữa bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kinh
tế - xã hội; truyền thông giáo dục di sản, hình thành thái độ ứng xử có văn hóa
cho cộng đồng nơi triển khai các hoạt động liên quan tới di sản. Cuối cùng là


16
huy động các nguồn lực xã hội, đồng thời đầu tƣ thỏa đáng nguồn kinh phí
của nhà nƣớc cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị của di sản.
Tất cả các hoạt động xã hội đều hƣớng đến những mục tiêu nhất định,
do đó công tác quản lý di sản văn hóa nói chung và kế hoạch quản lý di sản
thế giới nói riêng cũng phải xác định rõ một số mục tiêu cụ thể là:
- Quản lý di sản văn hóa là nhằm góp phần xây dựng môi trƣờng sống
tốt đẹp và lành mạnh - một nhân tố quan trọng cho phát triển bền vững.
- Quản lý di sản văn hóa phục vụ mục tiêu giáo dục, hình thành nhân
cách văn hóa, nguồn nhân lực có chất lƣợng, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nƣớc và hội nhập quốc tế.
- Quản lý di sản văn hóa nhằm giữ gìn lâu dài các giá trị văn hóa tiêu
biểu của đất nƣớc hay giá trị nổi bật toàn cầu của di sản hiện đang đƣợc tích

hợp trong các di sản văn hóa với tƣ cách là nguồn tƣ liệu khoa học nguyên
gốc chân thực, có khả năng cung cấp tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm sống, bài
học lịch sử có ích cho nhân loại hôm nay và mai sau.
- Di sản văn hóa với tƣ cách là tài sản văn hóa, tài nguyên du lịch, nếu
đƣợc tổ chức tốt và có những loại dịch vụ phù hợp, có thể trở thành điểm đến
du lịch, sản phẩm du lịch hấp dẫn (Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử
cũng là ví dụ điển hình) góp phần thúc đẩy phát triển du lịch bền vững ở từng
vùng và phạm vi quốc gia [8; tr.39-43].
Quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị di sản thông qua phát triển du
lịch là quá trình có sự tham gia của nhiều thành phần, nhiều chuỗi hoạt động
tạo ra các sản phẩm dịch vụ phục vụ du khách. Điều này đòi hỏi có sự sâu
chuỗi, liên kết của nhiều bên liên quan: nhà nƣớc, cộng đồng, doanh nghiệp
và du khách.
1.1.1.3. Quan điểm bảo tồn di sản văn hóa
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, bảo tồn là giữ lại không để mất đi.
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tƣợng theo dạng thức


17
vốn có của nó [66]. Trong nghiên cứu này, đối tƣợng đƣợc bảo tồn là di sản
văn hóa. Bảo tồn di sản văn hóa là hoạt động nhằm bảo đảm sự tồn tại lâu dài,
ổn định của di sản văn hóa và đƣợc chia làm 2 loại: di sản văn hóa phi vật thể
và di sản văn hóa vật thể.
Bảo tồn di sản văn hóa hiện nay đã đƣợc các học giả hết sức quan tâm
và có những công trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận này. Ở Việt Nam
và thế giới đã có những công trình nghiên cứu sâu về vấn đề lý luận này.
Ashworth [140; tr.165-191] đã tổng kết từ thực tế bảo tồn di sản ở nhiều nƣớc
trên thế giới thành ba quan điểm bảo tồn di sản.
Bảo tồn nguyên gốc: Đây là quan điểm dựa trên quan điểm bảo tồn văn
hóa vật thể của các nhà bảo tàng học. Quan điểm này cho rằng các sản phẩm

của quá khứ cần đƣợc bảo tồn nguyên dạng nhƣ nó vốn có. Quan điểm này
đƣợc các nhà bảo tàng học ủng hộ, đặc biệt là nó phù hợp với việc bảo tồn các
di sản văn hóa vật thể bao gồm các di tích và các sƣu tập trong bảo tàng.
Bảo tồn có sự kế thừa: Quan điểm này thừa nhận sự biến đổi của di
sản, nhƣng lại cho rằng mỗi di sản có nhiệm vụ lịch sử ở những không gian và
thời gian cụ thể, những mặt tích cực của chúng phải đƣợc phát huy cho phù
hợp với nhu cầu thời đại, ngƣợc lại những mặt tiêu cực phải bị loại bỏ. Di sản,
nhất là di sản văn hóa phi vật thể luôn là một thực thể hữu cơ không thể chia
cắt thành những yếu tố tích cực/tiêu cực; tiến bộ/lạc hậu; tốt/xấu... Chính vì
vậy, các nhà nghiên cứu nhận thấy quan điểm này gặp khó khăn ở chỗ cái nào
cần kế thừa, cần phát huy, yếu tố nào là thứ yếu và cần loại bỏ.
Bảo tồn - phát triển: Quan điểm này không bận tâm với việc tranh cãi
nên bảo tồn y nguyên nhƣ thế nào, nên kế thừa cái gì từ quá khứ, mà đặt trọng
tâm vào việc làm thế nào để di sản sống và phát huy đƣợc tác dụng trong đời
sống đƣơng đại. Hạt nhân của quan điểm này là khái niệm “tính chân thực”:
Nếu nhƣ các quan điểm truyền thống cho rằng độ chân thực là cốt lõi của di
sản thì ngày nay ngƣời ta lại đánh giá thấp vai trò của tính chân thực này.


18
Chân thực hay không không phải là một giá trị khách quan và độ chân thực
đƣợc đo bằng trải nghiệm.
Tác giả chọn ba quan điểm trên khi xem xét và nghiên cứu các trƣờng
hợp trong luận án. Theo tác giả, di sản văn hóa vừa là sự kế thừa của các thế
hệ trƣớc cho thế hệ hôm nay vừa là tài sản, là cuộc sống của thế hệ hôm nay
truyền lại cho thế hệ mai sau. Số ít di sản văn hóa đƣợc tiếp nhận từ quá khứ,
lƣu giữ nguyên vẹn rồi truyền lại cho thế hệ mai sau. Hầu hết các di sản văn
hóa là đƣợc tiếp nhận từ quá khứ, lƣu giữ, thực hành, phát huy và truyền lại
cho thế hệ mai sau.
1.1.2. Phát triển du lịch

1.1.2.1. Khái niệm du lịch
Cùng với sự phát triển của du lịch hiện nay, khái niệm du lịch đƣợc
hiểu theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo góc độ xem xét.
Vào năm 1942, W. Hunziker và Kraff (Thụy Sỹ) đƣa ra định nghĩa: Du
lịch là tổng hợp những hiện tƣợng và các mối quan hệ nảy sinh từ việc di
chuyển và dừng lại của con ngƣời tại nơi không phải là nơi cƣ trú thƣờng
xuyên của họ; hơn nữa, họ không ở lại đó vĩnh viễn và không có bất kỳ hoạt
động nào để có thu nhập tại nơi đến [79; tr.9].
Theo Guer Freuler, du lịch là một hiện tƣợng thời đại của chúng ta dựa
trên sự tăng trƣởng của nhu cầu khôi phục sức khoẻ và sự thay đổi của môi
trƣờng xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp
của thiên nhiên.
Theo nhà kinh tế Kalíiotis, du lịch là sự di chuyển tạm thời của cá nhân
hay tập thể từ nơi này đến nơi khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, đạo đức,
do đó tạo nên các hoạt động kinh tế.
Theo M.Coltman, du lịch là tổng thể những hiện tƣợng và những mối
quan hệ phát sinh từ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách du lịch, nhà kinh


19
doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng cƣ dân địa phƣơng trong quá
trình thu hút và lƣu giữ khách du lịch.
Theo quan điểm của Robert W.McIntosh, Charles R.Goeldner, J.R
Brent Ritcie, du lịch là tổng hợp các mối quan hệ nảy sinh từ tác động qua lại
giữa khách du lịch, nhà cung ứng, chính quyền và cộng đồng chủ nhà trong
quá trình thu hút và đón tiếp khách du lịch [79].
Với cách tiếp cận tổng hợp ấy, các thành phần tham gia vào tạo hoạt
động du lịch bao gồm:
- Các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách du lịch;
- Chính quyền sở tại;

- Cộng đồng dân cƣ địa phƣơng;
- Khách du lịch.
Tổ chức Du lịch thế giới thuộc Liên Hợp Quốc đƣa ra quan điểm du
lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những ngƣời du hành, tạm trú, trong
mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích
nghỉ ngơi, giải trí, thƣ giãn; cũng nhƣ mục đích hành nghề và những mục đích
khác nữa, trong thời gian liên tục nhƣng không quá một năm, ở bên ngoài môi
trƣờng sống định cƣ; nhƣng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là
kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trƣờng
sống khác hẳn nơi định cƣ.
Tại Việt Nam, mặc dù du lịch là một lĩnh vực khá mới mẻ nhƣng các
nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng đƣa ra các khái niệm xét trên nhiều góc
độ nghiên cứu khác nhau.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Du lịch là tập hợp các hoạt động
tích cực của con ngƣời nhằm thực hiện một dạng hành trình, là một công
nghiệp liên kết nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch… Du lịch
là cuộc hành trình mà một bên là ngƣời khởi hành với mục đích đã đƣợc


20
chọn trƣớc và một bên là những công cụ làm thỏa mãn các nhu cầu
của họ” [66].
Nhƣ vậy, du lịch đƣợc hiểu trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, du lịch là một dạng nghỉ dƣỡng sức, tham quan tích cực của
con ngƣời ngoài nơi cƣ trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật. Theo nghĩa này, du
lịch đƣợc xem xét ở góc độ cầu, góc độ ngƣời đi du lịch.
Thứ hai, du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về
nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa
dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nƣớc; đối với ngƣời nƣớc

ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực
kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ tại chỗ. Theo nghĩa này, du lịch đƣợc xem xét ở góc độ một
ngành kinh tế.
Luật Du lịch đƣợc Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7, khóa XI năm
2005 đƣa ra khái niệm và đƣợc hiểu nhƣ sau:
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con ngƣời
ngoài nơi cƣ trú thƣờng xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dƣỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ƣu thế về tài
nguyên du lịch tự nhiên, đƣợc quy hoạch, đầu tƣ phát triển nhằm đáp ứng nhu
cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi
trƣờng.
Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu
tham quan của khách du lịch.
Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở
cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt,
đƣờng thuỷ, đƣờng hàng không.


21
Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu
của khách du lịch trong chuyến đi du lịch [84; tr.2]
1.1.2.2. Quản lý nhà nước về du lịch
Theo điều 10, Luật Du lịch, nội dung quản lý nhà nƣớc về du lịch: 1/
Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch và chính sách
phát triển du lịch; 2/ Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy
phạm pháp luật, tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động du
lịch; 3/ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch; 4/
Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực; nghiên cứu,

ứng dụng khoa học và công nghệ; 5/ Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du
lịch để xây dựng quy hoạch phát triển du lịch, xác định khu du lịch, điểm du
lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch; 6/ Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về du
lịch; hoạt động xúc tiến du lịch ở trong nƣớc và nƣớc ngoài; 7/ Quy định tổ
chức bộ máy quản lý nhà nƣớc về du lịch, sự phối hợp của các cơ quan nhà
nƣớc trong việc quản lý nhà nƣớc về du lịch; 8/ Cấp, thu hồi giấy phép, giấy
chứng nhận về hoạt động du lịch; 9/ Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về du lịch.
1.1.2.3. Du lịch văn hóa
Khái niệm về du lịch văn hóa xuất hiện cùng với các câu chuyện của
những nhà leo núi ở Himalaya. Họ đƣợc thăm các khu di tích tôn giáo, tìm
hiểu lối sống cộng đồng cƣ dân và tham dự các lễ hội. Cùng với đó là mô hình
quản lý linh hoạt của chính quyền cho phép du khách đến các miền đất lạ để
khám phá, tìm hiểu nhiều hơn về văn hóa nơi đây. Từ đó, du lịch văn hóa với
nhiều dạng thức khác nhau từ tham quan di tích lịch sử, thắng cảnh văn hóa,
tham dự sự kiện đặc biệt và lễ hội, hoặc tham quan viện bảo tàng... đã bắt đầu
đƣợc công nhận nhƣ là một loại sản phẩm du lịch từ cuối những năm 1970 khi
các nhà tiếp thị du lịch và các nhà nghiên cứu du lịch nhận ra một số ngƣời đi
du lịch để có đƣợc một sự hiểu biết sâu sắc hơn về văn hóa hoặc di sản ở một


22
điểm đến. Ban đầu, du lịch văn hóa đƣợc coi là một hoạt động chuyên ngành,
hoạt động mà đƣợc một số ít khách du lịch có điều kiện kinh tế và văn hóa
theo đuổi. Về sau, du lịch văn hóa trở thành phổ biến và có sức hút đông đảo
khách du lịch trong bối cảnh phát triển toàn cầu và dựa trên cơ sở tôn trọng đa
dạng văn hóa.
Một số quan điểm cho rằng: “Du lịch văn hoá bao gồm hoạt động
của những ngƣời với động cơ chủ yếu là nghiên cứu, khám phá về văn hóa
nhƣ các chƣơng trình nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ thuật biểu diễn về các lễ

hội và các sự kiện văn hóa khác nhau, thăm các di tích và đền đài, du lịch
nghiên cứu thiên nhiên, văn hoá hoặc nghệ thuật dân gian và hành hƣơng”
(UNWTO)2. “Du lịch văn hoá là loại hình du lịch mà mục tiêu là khám phá
những di tích và di chỉ. Nó mang lại những ảnh hƣởng tích cực bằng việc
đóng góp vào việc duy tu, bảo tồn. Loại hình này trên thực tế đã minh
chứng cho những nỗ lực bảo tồn và tôn tạo, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng
vì những lợi ích văn hoá - kinh tế - xã hội” (ICOMOS)3.
Trong điều 4, Luật Du lịch đã chỉ rõ “Du lịch văn hóa là hình thức du
lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống” [84].
Ở nhiều nƣớc, nhất là ở Đông Nam Á (theo SEAMEO SPAFA)4, về
mặt lý thuyết, ngƣời ta xếp loại hình du lịch văn hoá (cultural tourism) vào
loại hình du lịch sinh thái (ecotourism) bởi theo họ, sinh thái học (ecology)
cũng bao gồm cả sinh thái học nhân văn (human ecology).
Ở Việt Nam, nhận thấy cảnh quan môi trƣờng tự nhiên với sự đa
dạng của các hệ sinh thái (từ núi đồi, cao nguyên, châu thổ đến ven biển,
hải đảo và da dạng sinh học) có mối liên quan mật thiết với nhau. Ngƣời Việt
2

UNWTO: United Nation World Tourism Organization (Tổ chức Du lịch Thế giới).
ICOMOS: International Council On Monuments & Sites (Hội đồng Quốc tế các di chỉ và di tích).
4
SEAMEO SPAFA: Southeast Asian Ministers of Education Oreanization - Regional Centre for
Archaeology & Fine Arts (Tổ chức các Bộ trƣởng Giáo dục Đông Nam Á về Khảo cổ học và Mỹ thuật).
3


23
Nam thích sống hòa hợp với tự nhiên, nên ở Việt Nam đi tham quan thắng cảnh
tự nhiên thƣờng cũng đồng thời là tham quan di tích - di sản văn hoá. “Du lịch

văn hóa là loại hình chủ yếu hƣớng vào việc quy hoạch, lập trình, thiết kế các
tour lữ hành tham quan các công trình văn hóa cổ kim tự” [3].
Những yếu tố thu hút khách du lịch đến với loại hình này chủ yếu là
các bản sắc văn hóa, nét đặc trƣng khác biệt của nền văn hóa đó, chẳng hạn
nhƣ những lễ hội truyền thống, những phong tục tín ngƣỡng, tôn giáo, lối
sống, lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc… hình thành nên nền văn hóa của ngƣời
dân nơi mà khách du lịch đến thăm quan. Khách du lịch tìm đến du lịch văn
hóa để thu nhập thông tin mới, tìm hiểu và trải nghiệm những nền văn hóa
khác nhau. Do vậy, du lịch văn hóa gắn bó chặt chẽ với văn hóa bản địa - nơi
có các hoạt động du lịch đang diễn ra.
Du lịch văn hóa bao gồm bốn yếu tố chính nhƣ sau [92]:
- Du lịch
- Sử dụng tài sản di sản văn hóa
- Khách du lịch
- Tác động của du lịch
a) Du lịch
Trƣớc tiên, du lịch văn hóa là một loại hình du lịch. Nó không phải là
một loại hình của quản lý di sản văn hóa. Mục đích của du lịch văn hóa trƣớc
tiên là yếu tố thƣơng mại, thứ hai là quản lý di sản văn hóa. Quan điểm này
đôi khi không đƣợc đánh giá cao bởi một số thành viên của cộng đồng quản lý
di sản văn hóa - những ngƣời có thể nhìn nhận du lịch di sản văn hóa trở
thành điểm thu hút du lịch. Đây sẽ là nơi thu hút khách tham quan có thể là
cục bộ hoặc khách du lịch, những ngƣời mà đang đi du lịch chủ yếu có thời
gian ngắn và biết rất ít về di sản đang tham quan. Những sản phẩm du lịch
văn hóa thành công phải đƣợc định hƣớng cho từng loại khách tham quan
bằng kiến thức cơ bản.


24
b) Sử dụng tài sản di sản văn hóa

Nội dung chính của du lịch văn hóa là tài sản di sản văn hóa của một
cộng đồng hoặc một quốc gia. Hội đồng Quốc tế về Di tích và Di chỉ
(ICOMOS) định nghĩa di sản là một khái niệm rộng, bao gồm: di sản vật thể
nhƣ môi trƣờng tự nhiên và môi trƣờng văn hóa, cảnh quan xung quanh, địa
điểm lịch sử, các di tích... cũng nhƣ các di sản phi vật thể nhƣ các bộ sƣu tập,
tập quán văn hóa trong quá khứ và đang tiếp diễn, kiến thức và kinh nghiệm
sống (ICOMOS 1999). Những di sản này đƣợc xác định và bảo tồn cho các giá
trị nội tại của chúng hoặc có ý nghĩa cho cộng đồng hơn các giá trị bên ngoài
nhƣ là các điểm tham quan du lịch. Thực tế, tiềm năng du lịch của di sản hiếm
khi đƣợc xem xét khi chúng đƣợc xác định lần đầu tiên. Vào thời điểm này,
hầu hết các tài liệu về tầm quan trọng của một di sản tập trung vào giá trị thẩm
mỹ, giá trị kiến trúc, giá trị lịch sử, giá trị tâm linh, còn giá trị giáo dục và giá
trị xã hội còn chƣa đƣợc chú trọng.
Một trong những nghịch lý của du lịch văn hóa là một ngành du lịch
nhƣng lại đƣợc quản lý bởi nguyên tắc của quản lý di sản văn hóa. Ngoài ra,
di sản văn hóa có thể phục vụ cho vô số nhóm ngƣời sử dụng, bao gồm cả
khách du lịch hay nhân dân địa phƣơng, “chủ sở hữu truyền thống” và những
cƣ dân địa phƣơng khác. Các nhóm này có thể đánh giá di sản cho những lý
do khác nhau và tìm kiếm lợi ích khác nhau từ việc sử dụng di sản, khiến cho
việc giới thiệu di sản một cách phù hợp trở nên khó khăn hơn. Những cách
tiếp cận cạnh tranh có thể tạo ra mâu thuẫn giữa lợi ích du lịch và lợi ích quản
lý di sản văn hóa.
c) Khách du lịch
Du lịch văn hóa phải xem xét đến khách du lịch. Khách du lịch văn hóa
khuyến khích đi du lịch vì các lí do học hỏi sâu, trải nghiệm hoặc tự khám phá.
Tuy nhiên, ngoài nhu cầu trên, nhiều khách du lịch văn hóa do tình cờ của
chuyến đi hoặc do các yếu tố chi phối khác trở thành du khách.



×