Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

THỰC TRẠNG NGƯỜI CÓ HIV/AIDS TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.14 KB, 38 trang )

MỤC LỤC

Mở đầu……………………………………………………………………….2
NộiDung……………………………………………………………………...4
CHƯƠNG 1:KHÁILUẬNCHUNG.................................................................4
1.1.Một số khái niệm liên quan đến HIV/AIDS và người có
HIV/AIDS...........................................................................................................4
1.1.1.Khái niệm HIV/AIDS..............................................................................4
1.1.2.Người có HIV/AIDS..................................................................................8
1.2. Khái niệm công tác xã hội, chính sách xã hội, luật pháp, an sinh xã
hội.........................................................................................................................9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGƯỜI CÓ HIV/AIDS TRÊN THẾ GIỚI
VÀỞVIỆTNAM................................................................................................11
2.1. Thực trạng người có HIV/AIDS trên thế
giới .....................................................................................................................11
2.2. Thực trạng người có HIV/AIDS tại Việt
Nam....................................................................................................................11
CHƯƠNG 3. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG HIV/AIDS Ở
VIỆTNAM HIỆN
NAY…………………………………………………………………………..14
3.1. Nguyên nhân khách
quan…………………………………………………………………………..14
3.2. Nguyên nhân chủ
quan…………………………………………………………………………..14
CHƯƠNG 4. HẬU QUẢ CỦA ĐẠI DỊCH
HIV/AIDS…………………………………………………………………….15
CHƯƠNG 5. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI,
LUẬT PHÁP, AN SINH XÃ HỘI CHO NGƯỜI CÓ HIV/AIDS TẠI VIỆT
NAM...................................................................................................................16
5.1. Chính sách xã hội cho người có HIV/AIDS tại Việt Nam – thực trạng,
nguyên nhân, giải


pháp....................................................................................................................16

1


5.2. Pháp luật cho người có HIV/AIDS ở Việt Nam – thực trạng, nguyên
nhân, giải
pháp....................................................................................................................20
5.3. An sinh xã hội cho người có HIV/AIDS ở Việt Nam thực trạng, nguyên
nhân, giải
pháp....................................................................................................................26
CHƯƠNG 6: VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƯỜI CÓ
HIV/AIDS..........................................................................................................31
6.1. Vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với người có HIV/AIDS nói
chung.................................................................................................................31
6.2. Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc thực hiện chính sách
xã hội, luật pháp, an sinh xã hội cho người có
HIV/AIDS..........................................................................................................33
KẾT LUẬN…………………………………………………………………..34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………...…37

MỞ ĐẦU

(Cùng chia sẻ và cùng yêu thương)

2


C


ó thể còn nhiều người chưa hiểu hết về khái niệm HIV/AIDS nhưng
hậu quả của nó thì không ai trong xã hội là không nhìn thấy. Khi xã
hội càng phát triển, thành tựu của khoa học kĩ thuật ngày một nở rộ

thì cuộc sống của con người được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy
nhiên mặt trái của sự tiến bộ ấy cũng ngày một gia tăng theo cấp số nhân, các
giá trị xã hội đang bị đảo lộn, sự đảo lộn trật tự ấy diễn ra trong mọi mặt của đời
sống xã hội. Biểu hiện cụ thể trong môi trường nhỏ là gia đình, môi trường rộng
lớn hơn là toàn xã hội. Những thói hư tật xấu, rồi tệ nạn xã hội đang len lỏi vào
mọi ngõ ngách, mọi nẻo đường, nhiều người đã bị nó cám dỗ, kéo theo nó khiến
họ không còn là họ nữa, họ trượt theo bánh xe của cái xấu ngày một dài hơn,
dường như trong tâm hồn họ cái đẹp ngày dần phai nhòa đi. Tệ nạn xã hội đã
lấy đi của họ, gia đình họ và toàn xã hội bao tiếng hát, nụ cười. Hiện nay, đại
dịch HIV/AIDS đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu và đang gia tăng nhanh
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Những hậu quả mà HIV/AIDS gây ra là vô
cùng to lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội,
đe dọa sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng và toàn nhân loại nói
chung. Ở Việt Nam trong những năm gần đây tình hình lây nhiễm HIV/AIDS
vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. HIV/AIDS xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành và
có xu hướng ngày càng lan rộng. Ngoài các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao
như: tiêm chích ma tuý, mại dâm, tình dục đồng giới..., tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS ở
phụ nữ mang thai, trẻ em và thanh niên cũng tăng nhanh. HIV/AIDS đang đe
doạ trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng con người, trật tự an toàn xã hội, đến sự
phát triển của đất nước, tương lai của giống nòi. Do đó, cần đẩy mạnh xã hội
hoá công tác phòng, chống HIV/AIDS nhằm phát huy truyền thống tương thân,
tương ái, chăm sóc, giúp đỡ của cộng đồng, chống kỳ thị và phân biệt đối xử với
người nhiễm HIV/AIDS. Chỉ có như vậy, công tác phòng, chống HIV/AIDS
mới đem lại những kết quả to lớn, nó không chỉ góp phần ổn định xã hội trong
giai đoạn trước mắt mà còn đảm bảo sự phát triển bền vững, thịnh vượng của

quốc gia, dân tộc. Trong công tác phòng chống HIV/AIDS thì hệ thống chính
3


sách, luật pháp, an sinh xã hội cho người có HIV/AIDS đóng một vai trò vô
cùng quan trọng. Nó là cơ sở để trợ giúp cho những người có HIV có thể vượt
qua những rào cản của xã hội, vươn lên hòa nhập cộng đồng. Chính vì những lí
do trên đã thôi thúc em lựa chọn đề tài này để tìm hiểu bởi em mong muốn bản
thân mình có thể góp một phần sức lực nhỏ bé để tô sắc màu tươi đẹp hơn cho
cuộc sống, bởi cuộc sống này là những giây phút người với người sống để yêu
nhau.
Bài làm của em còn nhiều thiếu sót và hạn chế, em vô cùng mong muốn được
sự hướng dẫn, chỉ bảo ân cần của Cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN CHUNG
1.1.

Một số khái niệm liên quan đến HIV/AIDS và người có HIV/AIDS

1.1.1. Khái niệm HIV/AIDS
 HIV là gì?

4


HIV lần đầu tiên được Luc Montagnier và các cộng tác tại viện Pasteur
Paris phân lập năm 1983, với tên gọi là vi rút có liên quan tới viêm hạch (LAV).
Năm 1984 công trình này được RoberGallo và cộng tác viên ở viện nghiện cứu

ung thư quốc gia Mỹ xác định là vi rút hướng về tế bào Lim-pho-T ở người
(HTLV-3).
Năm 1986, một Ủy ban chuyên gia quốc tế gọi tên vi rút gây ”Hội chứng
suy giảm miễn dịch mắc phải” là HIV để thay thế cho các tên gọi cũ. Khi xâm
nhập vào cơ thể người, sau một thời gian (khoảng từ 2-10 năm) sẽ chuyển thành
AIDS.
HIV là tên viết tắt của từ tiếng Anh (HIV – human Immuno Deficiency
Virus) vi rút gây suy giảm miễn dịch mắc phải ở người.
 Cấu tạo vi rút HIV

5


HIV có hình cầu với kích thước rất nhỏ, 110 nanomet phải nhìn qua kính
hiển vi điện từ mới thấy được. Cấu tạo gồm 3 lớp, lớp ngoài cùng là lớp vỏ có
nhiều gai nhú, lớp thứ hai là lớp bao trong và trong cùng là toàn bộ gen của vi
rút gồm 2 sợi ARN gắn với men sao chép ngược.
 Khả năng tồn tại của HIV trong cơ thể người
HIV có nhiều nhất trong máu, trong tinh dịch, dịch âm đạo rồi đến trong sữa
của người nhiễm HIV với số lượng đủ ngưỡng để làm lây truyền từ người này
sang người kia.
Trong nước bọt, nước mắt, nước tiểu, mồ hôi cũng có HIV nhưng với số
lượng rất ít không đủ ngưỡng nên không có khả năng làm lây truyền từ người
nọ sang người kia khi tiếp xúc trực tiếp với các dịch thể này.
 AIDS là gì?
AIDS là những chữ cái viết tắt theo tiếng Anh của cụm từ Acquired Immuno
Deficiency Syndorome (viết tắt theo tiếng Pháp là SIDA), được dịch ra tiếng
Việt là “ Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải”. AIDS là giai đoạn cuối của
quá trình nhiễm HIV.
- Hội chứng là một tập hợp các triệu chứng ( dấu hiệu, biểu hiện bệnh)

- Suy giảm miễn dịch là tình trạng hệ miễn dịch trở nên yếu kém, không có
khả năng chống đỡ lại các nhiễm trùng, các bệnh bình thường khác.
6


- AIDS không phải là hội chứng bẩm sinh mà là hội chứng mắc phải do
nhiễm HIV gây ra.
- Thời gian nhiễm AIDS kéo dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong
đó quan trọng là sức chống đỡ (cơ địa của cơ thể), chế độ dinh dưỡng, thói
quen, hành vi sống và điều kiện chăm sóc y tế của từng người. Trung bình từ
khi nhiễm đến khi chuyển thành AIDS ở người lớn kéo dài từ 5 – 7 năm hoặc
cao hơn.
 Cơ chế ảnh hưởng của HIV khi xâm nhập vào cơ thể người
Khi xâm nhập vào cơ thể người, HIV trực tiếp vô hiệu hóa Lympho bào T4
(bạch cầu chỉ huy), gián tiếp vô hiệu hóa Lympho bào B (bạch cầu tiết kháng
thể) sau một thời gian dài cơ thể giảm khả năng chống đỡ mầm bệnh, cơ thể sẽ
bị các mầm bệnh cơ hội xâm nhập, tấn công sinh ra nhiều triệu chứng nguy
hiểm dẫn đến cái chết.
 Quá trình phát triển từ nhiễm HIV thành AIDS diễn ra trong cơ thể người
 Giai đoạn 1: Giai đoạn sơ nhiễm (giai đoạn cửa sổ, giai đoạn nhiễm trùng
cấp tính)
 Giai đoạn 2: Nhiễm HIV không triệu chứng (thời kỳ ủ bệnh)
 Giai đoạn 3: Giai đoạn nhiễm HIV có triệu chứng (giai đoạn cận AIDS)
 Giai đoạn 4: Giai đoạn AIDS
 Xét nghiệm HIV
Xét nghiệm là cách duy nhất để khẳng định một người có bị nhiễm HIV hay
không.
 Phương thức lây truyền HIV/AIDS
Có 3 con đường lây truyền cơ bản:
 Lây truyền qua đường máu.

 Lây truyền qua đường tình dục.
 Lây truyền từ mẹ sang con.
 Ảnh hưởng của HIV/AIDS

7


- HIV/AIDS có ảnh hưởng to lớn với bản thân những người mắc phải và
gia đình của họ: sức khỏe giảm sút nhanh chóng, tuổi thọ giảm sút; tinh thần
hoảng loạn; đời sống gia đình trở nên căng thẳng;...
- Ảnh hưởng về kinh tế: Số người nhiễm HIV chủ yếu ở lứa tuổi lao
động. Khi nhiều người bị nhiễm HIV và bị chết vì AIDS sẽ ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế của từng gia đình, cộng đồng và của đất nước. Chi phí cho
công tác phòng chống AIDS sẽ rất tốn kém.
- Ảnh hưởng về tâm lý xã hội: Mọi người sợ hãi dễ dẫn đến tình trạng
phân biệt đối xử. Cuộc sống của gia đình có người bị nhiễm HIV hoặc bệnh
AIDS sẽ trở nên căng thẳng, xuất hiện nhiều mâu thuẫn và dần tiến tới sự mất
ổn định trong cuộc sống.
- Ảnh hưởng nặng nề cho hệ thống y tế: Phần nhiều hệ thống y tế bị quá
tải, phát sinh các nguy cơ lây nhiễm HIV trong môi trường y tế. Thuốc đặc trị
không có nhưng vẫn phải tiến hành việc điều trị cho các bệnh nhân bị nhiễm
HIV/AIDS dẫn đến chi phí cho điều trị lớn nhưng không đạt hiệu quả, bệnh
nhân vẫn tử vong.
- HIV làm giảm tuổi thọ trung bình. Tăng tỷ lệ chết sơ sinh, tỷ lệ chết
mẹ..... làm nảy sinh các vấn đề về trẻ mồ côi, bảo tồn nòi giống.
Từ những ảnh hưởng trên sẽ tác động lớn đến văn hóa, chính trị.
1.1.2. Người có HIV/AIDS
 Những biểu hiện lâm sàng của người có HIV/AIDS.
Như đã nói ở trên, quá trình phát triển từ HIV sang AIDS trong cơ thể con
người trải qua bốn giai đoạn. Và sau đây là các biểu hiện lâm sàng của AIDS:

 Mệt mỏi kéo dài nhiều ngày mà không có nguyên nhân rõ ràng.
8


 Sút cân hơn 10% trọng lượng cơ thể sau 2 tháng.
 Sốt kéo dài hơn 1 tháng, kèm theo rét run, ớn lạnh và ra mồ hôi nhiều
về đêm.
 Tiêu chảy kéo dài hơn 1 tháng.
 Ho dai dẳng kéo dài hơn 1 tháng.
 Viêm ngứa da toàn thân
 Xuất hiện nhiều vết đỏ, bầm tím trên da và niêm mạc miệng, mũi, trực
tràng.
 Sưng hạch đặc biệt là ở cổ, nách, bẹn không có nguyên nhân rõ ràng
và kéo dài khoảng 2 tuần.
Nhưng lưu y rằng nếu ai thấy có các dấu hiệu trên, nhất là các dấu hiệu phổ
biến thì ta có thể nghĩ đến người đó có thể bị bệnh AIDS, nhưng không thể kết
luận được. Muốn biết kết quả chắc chắn thì phải làm xét nghiệm máu theo đúng
quy định của Bộ Y tế.
 Những biểu hiện tâm lí của người có H
Biểu hiện tâm lí của người có H rất đa dạng và phức tạp, tuy nhiên có thể
khái quát tập trung ở hiện tượng tâm lí thể hiện ở trạng thái cảm xúc – chủ yếu
là những cảm xúc tiêu cực.
Việc thể hiện cảm xúc và trạng thái tâm lí của người có H có những cấp độ
khác nhau phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách quan, đặc biệt là thái độ, hành
vi của người khác, của cộng đồng và những tác động từ môi trường sống và tùy
thuộc vào lứa tuổi.
Đối với những người mới nhiễm hay mới phát hiện thì những cảm xúc phổ
biến thể hiện sự phản ứng trước hiện thực/hoàn cảnh thường rất mãnh liệt. Khả
năng vượt qua, chế ngự, kiểm soát cảm xúc hay khả năng diễn biến trầm trọng
hơn tùy thuộc vào các tác động bên trong và bên ngoài, đặc biệt là sự tác động

từ bên ngoài không tích cực.
Những biểu hiện cụ thể của vấn đề tâm ly của người có H:
- Cảm giác cô đơn, bị thiệt thòi, bất hạnh.
9


- Cảm giác bị bỏ rơi.
- Cảm giác bị kỳ thị, xa lánh, phân biệt đối xử.
- Cảm giác yếu đuối, được thương hại.
- Cảm giác lo sợ, trầm cảm, tự ti, mặc cảm tự kỷ.
- Chối bỏ, né tránh.
- Chấp nhận, phó mặc.
- Bực tức, cáu giận, nổi loạn.
- Không làm chủ được hành vi,dẫn đến các hành vi tiêu cực,..
1.2. Khái niệm công tác xã hội, chính sách xã hội, luật pháp, an sinh xã hội
1.2.1. Khái niệm công tác xã hội
Theo một cách hiểu chung nhất, khái quát nhất thì công tác xã hội là một hoạt
động chuyên môn, một nghề. Hoạt động công tác xã hội cung ứng các dịch vụ
công tác xã hội nhằm giúp đỡ các cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết
những vấn đề khó khăn, phục hồi hay tăng cường chức năng xã hội. Nhân viên
công tác xã hội chuyên nghiệp sử dụng các kiến thức, kĩ năng chuyên môn
nhằm phát huy tối đa tiềm năng của các cá nhân, gia đình và xã hội trong quá
trình giải quết vấn đề, cải thiện cuộc sống. Mục đích cuối cùng của công tác xã
hội là nền an sinh của cá nhân và toàn xã hội.
1.2.2 Khái niệm chính sách xã hội
Chính sách xã hội là công cụ của Nhà nước được thể chế bằng các cơ chế
chính sách giải pháp cụ thể để tác động vào các quan hệ xã hội nhằm giải quyết
các vấn đề xã hội đang đặt ra góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ
và phát triển toàn diện con người (Giáo trình chính sách xã hội của Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 2004).

1.2.3

Khái niệm pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc sử sự có tính bắt buộc chung do Nhà

nước đặt ra và bảo đảm thực hiện, thể hiện trí của giai cấp thống trị và nhu cầu
tồn tại của xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo lập trật tự, ổn định

10


cho sự phát triển của xã hội (Giáo trình Pháp luật đại cương, NXB Đại học kinh
tế quốc dân 2006).
1.2.4

Khái niệm An sinh xã hội
An sinh xã hội là một hệ thống các cơ chế chính sách, các giải pháp của

Nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với
rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ bị suy giảm hoặc mất nguồn thu
nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già cả không
còn sức lao động hoặc vì các nguyên nhân khách quan khác rơi vào cảnh nghèo
khổ bần cùng hóa và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng thông
qua các hệ thống chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội
và trợ giúp đặc biệt.
Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam bao gồm:
 Hệ thống chính sách về Bảo hiểm xã hội
 Hệ thống chính sách về Bảo hiểm y tế
 Hệ thống chính sách về trợ giúp đặc biệt
 Hệ thống chính sách về trợ giúp xã hội


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGƯỜI CÓ HIV/AIDS TRÊN THẾ
GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng người có HIV/AIDS trên thế giới
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới ( WHO) và tổ chức phòng chống
AIDS của Liên Hợp Quốc ( UNAIDS), tính đến tháng 12/2007, tổng số người
sống chung với HIV/AIDS trên toàn thế giới là 33,2 triệu người. Trong đó,
người lớn là 30,8 triệu người; phụ nữ là 15,4 triệu người và trẻ em dưới 15 tuổi
là 2,5 triệu. Tổng số ca nhiễm HIV mới trong năm 2007 là 2,5 triệu người, trong
đó người lớn là 2,1 triệu và trẻ em là 420.000 trẻ. Đại đa số những trẻ em mới bị
nhiễm là do lây từ người mẹ tại thời điểm trước hoặc ngay sau khi sinh. 1/2
11


trong số này sẽ tử vong trong vòng 2 năm đầu tiên của cuộc đời nếu không được
chăm sóc y tế đúng cách. Tổng số ca tử vong do AIDS là 2,1 triệu, trong đó
người lớn là 1,7 triệu và trẻ em là 330.000. Đông thời cứ mỗi 15 giây đồng hồ là
có một em bị mồ côi cha hoặc mẹ chết vì HIV/AIDS.
Từ một nước đầu tiên phát hiện ra người có HIV là Mỹ thì cho đến nay, ở
hầu hết tất cả các quốc gia, lãnh thổ trên thế giới đều đã có người có HIV/AIDS.
Trong tổng số các quốc gia trên thế giới thì Sahara là nơi có số người
nhiễm HIV cao nhất thế giới với gần 2/3 dân số. Tiếp đến là Châu Á Thái Bình
Dương có số người nhiễm đứng thứ 2 thế giới.
2.2. Thực trạng người có HIV/AIDS tại Việt Nam
- Theo Báo cáo về thực hiện tuyên bố cam kết về HIV/AIDS lần thứ 2 và lần
thứ 3; theo cập nhật tình hình AIDS năm 2007:
+ Dịch HIV/AIDS đang gia tăng một cách nhanh chóng ở Việt Nam
Số người nhiễm HIV/AIDS tăng nhanh cả về địa bàn và số lượng. Ca nhiễm
HIV đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện vào tháng 12/1990 tại thành phố Hồ
Chí Minh. Năm 1993, dịch bùng nổ trong nhóm những người nghiện hút, tiêm

chích ma túy. Đến tháng 12/1998, dịch đã lan tràn ra toàn quốc và hiện nay tất
cả 64/64 tỉnh thành trên cả nước; 96% trong tổng số 659 quận/huyện và hơn
66% trong tổng số 10.732 xã/phường có người nhiễm bệnh.
Theo số liệu thống kê báo cáo, tại Việt Nam, tính đến cuối tháng 7/2007,
toàn quốc có 130.260 người nhiễm HIV/AIDS, 25.884 người đã chuyển sang
giai đoạn AIDS, 14.507 người đã tử vong vì AIDS. So với 7 tháng đầu năm
2006, trong năm 2007 số người có HIV là 13.695 người gấp 1,95 lần, số người
có AIDS là 4.593 người gấp 2,95 lần, số người tử vong vì AIDS là 2.072 người
gấp 2,4 lần.
Theo số liệu của Cục Phòng, chống HIV/AIDS, tính đến ngày 31/3/2010, số
trường hợp nhiễm HIV ở Việt Nam hiện còn sống là 164.197 người, số bệnh
nhân AIDS hiện còn sống là 37.189 và 45.227 trường hợp tử vong do AIDS. Đã

12


có 73,1% xã/phường, 98,7% quận/huyện và 63/63 tỉnh/thành phố có người
nhiễm HIV.
Thành phố Hồ Chí Minh là tỉnh hiện có số người nhiễm HIV cao nhất cả
nước trên 100.000 người, tiếp đến là Quảng Ninh, Hải Phòng, TP Vũng Tàu, An
Giang, TP Hà Nội, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn.
Tính trung bình mỗi ngày ở Việt Nam có thêm hơn 100 người bị nhiễm HIV.

(Nguồn Bộ Y Tế)
Đến năm 2006 , tỷ lệ nhiễm HIV trong dân số Việt Nam ở độ tuổi 15 đến
49 đã ở mức 0,53%, nghĩa là cứ khoảng 200 người thì có một người đang sống
với HIV. Số người trẻ nhiễm HIV ngày càng gia tăng. Trong số các ca nhiễm
HIV được báo cáo 78,9% ở độ tuổi từ 20 đến 39. Nam giới chiếm 85,2% trong
tổng số các trường hợp HIV được phát hiện.
Cứ khoảng 60 hộ gia đình ở Việt Nam thì có một hộ có người đang sống

với HIV.
+ Tỷ lệ hiện nhiễm cao ở những người sử dụng ma túy và phụ nữ bán dâm
13


Ở mức độ quốc gia , tỷ lệ hiện nhiễm HIV cao nhất ở những người tiêm
chích ma túy, ở mức 28,6%. Tỷ lệ hiện nhiễm trong những người tiêm chích ma
túy ở TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh và Hải Phòng còn cao hơn rất nhiều.
Phụ nữ bán dâm có tỷ lệ nhiễm HIV cao đứng thứ nhì với 6,5. Tỷ lệ này còn
cao hơn ở các thành phố: Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Hà Nội và Cần Thơ.
Tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở những người nam giới mua dâm cũng đang tăng lên
ở mức đáng kể.
+ Hành vi tình dục và sử dụng ma túy của nam thanh niên là yếu tố chính
làm dịch lan tràn ở Việt Nam.
Theo ước tính, phần lớn số những trường hợp mới nhiễm HIV là do lây
truyền qua đường tình dục.
Hiện nay số trường hợp nhiễm HIV mới do lây truyền qua đường tình dục
cao hơn số trường hợp nhiễm HIV qua đương tiêm chích.
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy tỷ lệ hiện nhiễm HIV khá cao ở
những người nam giới có quan hệ tình dục với nam giới, 9,4% ở Hà Nội và
5,3% ở Thành phố Hồ Chí Minh. Thậm chí ở những nam giới bán dâm tỷ lệ
nhiễm HIV này còn cao hơn.
- Tình hình nhiễm HIV ở Việt Nam tính đến ngày 31/12/2010
+Tổng số trường hợp nhiễm HIV/AIDS còn sống: 183.938
+Tổng số trường hợp mắc AIDS còn sống: 44.022
+Tổng số trường hợp đã chết do AIDS: 49.477
(Nguồn: AIDS và cộng đồng số 052011)

CHƯƠNG 3. NGUYÊN NHÂN CỦA ĐẠI DỊCH HIV/AIDS
Nguyên nhân khiến đại dịch HIV/AIDS bùng nổ có thể khái quát theo hai

nguyên nhân chính yếu sau:
3.1. Nguyên nhân khách quan:

14


- Do tính chất sinh học của việc lây nhiễm HIV: Đa dạng về đường lây truyền.
HIV truyền qua các con đường sau:
+ HIV lây truyền qua đường máu.
+ HIV lây truyền qua đường tình dục
+ HIV lây truyền từ mẹ sang con

- Do thời gian ủ bệnh lâu, trước khi chuyển sang giai đoạn AIDS, người bị
nhiễm HIV hầu như không có biểu hiện gì khác thường về mặt bệnh lí, sức khỏe
nên rất khó phát hiện, nếu không thực hiện các biện pháp xét nghiệm. Do đó,
khả năng lây lan trong cộng đồng rất cao. Bên cạnh đó, các tệ nạn xã hội như
ma túy, mại dâm tuy bị khống chế song vẫn phát triển lan rộng, tính chất di biến
động dân số, di dân, phân hóa giàu nghèo…cũng là những nguyên nhân thách
thức đối với công tác phòng chống HIV/AIDS.
3.2. Nguyên nhân chủ quan:
- Bản thân người có HIV có nhận thức thấp, tâm lý nặng nề nên chưa có ý thức,
thái độ hành vi bảo vệ bản thân và những người liên quan.
- Việc quản lý, chỉ đạo công tác phòng chống HIV/AIDS của chính quyền ở một
số địa phương chưa thật sự chú trọng, hiệu quả còn thấp, chưa triển khai được
các can thiệp, nhất là can thiệp giảm tác hại trên diện rộng
- Lực lượng cán bộ làm công tác phòng chống HIV/AIDS còn thiếu về sồ lượng,
đội ngũ chuyên trách còn ít, đa số là kiêm nhiệm, do đó tổ chức phòng chống
HIV/AIDS luôn bị xáo trộn, thiếu tính ổn định vì vậy hiệ quả làm việc không
cao.
- Thông tin giáo dục, truyền thông đã được đẩy mạnh nhưng chưa thực sự rộng

khắp, các chương trình thường trú trọng đến tính phong trào mà ít đạt được
chiều sâu, dẫn đến hiệu quả chưa đáp ứng được mục tiêu so với chi phí đầu tư.
- Các hoạt động chuyên môn kỹ thuật như giám sát diễn biến của HIV/AIDS
còn bị động, số lượng bệnh nhân HIV/AIDS được điều trị rất ít, chưa triển khai
hệ thống giám sát phòng chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục, chăm
15


sóc người nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng còn khó khăn do còn tồn tại
những quan niệm, thái độ phân biệt đối xử và thiếu nguồn lực.

CHƯƠNG 4. HẬU QUẢ CỦA ĐẠI DỊCH HIV/AIDS

4.1. Đối với người nhiễm HIV:
- Tuổi thọ của họ sẽ giảm so với người bình thường.
- Chịu sự đau đớn, dày vò cả về thể chất lẫn tinh thần.
- Họ mất đi nhiều cơ hội vươn lên và khẳng định bản thân trong cuộc sống.
-Họ dễ bị tổn thương nếu thiếu sự quan tâm của gia đình và cộng đồng.
4.2. Đối với gia đình người có HIV:
-Đây là nỗi mất mát lớn đối với những gia đình có người nhiễm HIV. Tạo thêm
nỗi lo âu, căng thẳng đối với các thành viên trong gia đình người có HIV.
-Tạo thêm gánh nặng về kinh tế.
-Họ còn dễ bị kì thị, xa lánh nếu như cộng đồng dân cư thiếu kiến thức về
HIV/AIDS.
-Họ là đối tượng có nguy cơ cao lây nhiễm HIV nếu họ không biết cách chăm
sóc người có HIV.
4.3. Đối với xã hội:
-Tạo ra nỗi lo lớn và những bất ổn, xung đột trong xã hội.
-Xã hội mất đi nguồn lao động trẻ vì tỷ lệ người trẻ nhiễm HIV rất cao.
-Hàng năm nhà nước phải chi nhiều kinh phí cho công tác phòng chống

HIV/AIDS
vì vậy ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển chung của toàn xã hôi.

16


CHƯƠNG 5. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI,
LUẬT PHÁP, AN SINH XÃ HỘI CHO NGƯỜI CÓ HIV/AIDS TẠI VIỆT
NAM.
5.1. Chính sách xã hội cho người có HIV/AIDS tại Việt Nam – thực trạng,
nguyên nhân, giải pháp
 Thực trạng:
Căn cứ vào đặc điểm và số lượng người bị nhiễm HIV/AIDS ở nước ta trong
thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính sách xã hội với mục
đích ngăn chặn đại dịch HIV/AIDS ngày càng gia tăng một cách nhanh chóng
đồng thời cũng đưa ra những chính sách nhằm trợ giúp cho những đối tượng là
người có H để họ có thể vượt qua những trở ngại bởi căn bệnh thế kỷ, vươn lên
sống hòa nhập và có ích cho xã hội. Những chính sách của Đảng và nhà nước ta
với người có HIV trên từng lĩnh vực cụ thể đã được thực hiện khá hiệu quả do
có sự tham gia lãnh đạo trực tiếp, sự vào cuộc của các cấp chính quyền và sự
quan tâm của toàn thể cộng đồng như :
 Về kinh tế :
Hiện nay, Nhà nước vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện thí điểm các
mô hình cho người có HIV được vay vốn tín dụng. Ngân hàng Chính sách xã
hội Việt Nam là đơn vị thực hiện dự án thí điểm này nhằm hỗ trợ cho người
sống chung với H và người đã cai nghiện ma túy trong việc tăng cường năng lực
phát triển kinh tế cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống.
Đồng thời, Nhà nước cũng tiến hành triển khai các dự án, giải pháp nhằm thu
hút vốn đầu tư từ các tổ nước ngoài, khai thác các nguồn lực, huy động sự đóng
góp về tài chính – kỹ thuật – nhân lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước


17


để tăng cường trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác phòng chống
HIV/AIDS và trợ giúp cho người có H.
 Về giáo dục:
Nhà nước đã đề ra những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người có H
hay bị ảnh hưởng bởi H vẫn có cơ hội đến trường học tập như mọi người. Các
trường học, trường trung cấp, cao đẳng, đại học, trường dậy nghề vẫn tuyên
sinh, đào tạo những người bị nhiễm H.
Theo ngành Giáo dục và Đào tạo cần huy động người nhiễm H tham gia các
hoạt động phòng chống H trong các cơ sở giáo dục. Để đảm bảo quyền không
bị kì thị và phân biệt đối xử với trẻ em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng bởi H trong
các cơ sở giáo dục, Bộ Giáo Dục yêu cầu các cơ sở giáo dục và đào tạo thực
hiện nghiêm túc luật phòng chống H, chỉ thị số 61/2008/CT – BGDĐT của bộ
trưởng Bộ GDĐT về tăng cường công tác phòng chống H trong Giáo Dục quy
định rõ về vấn đề này.
 Về y tế:
Nhà nước có những chính sách khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài hợp tác, giúp đỡ dưới mọi hình thức trong phòng, chống
HIV; phát triển các mô hình tự chăm sóc của người nhiễm HIV.
Hỗ trợ sản xuất thuốc kháng HIV trong nước; thực hiện các biện pháp giảm
giá thuốc kháng HIV. Điều trị thuốc ARV cho người có H miễn phí theo thứ tự
ưu tiên. Tăng cường khả năng tiếp cận thuốc điều trị đặc hiệu hỗ trợ người
nhiễm H.
Hỗ trợ phòng, chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, tư vấn xét nghiệm H
cho phụ nữ mang thai đến khám thai và sinh con, nuôi dưỡng trẻ em dưới 6
tháng tuổi sinh ra từ người mẹ nhiễm HIV bằng sữa thay thế và bệnh nhân
AIDS có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.


18


Xây dựng hệ thống chăm sóc, hỗ trợ toàn diện cho người nhiễm H. Củng cố
và tăng cường hệ thống điều trị cho bệnh nhân AIDS : các trung tâm quốc gia,
các khu điều trị vệ tinh tại các bệnh viện khu vực và các khoa truyền nhiễm
trong bệnh viện cấp tỉnh, thành.
Mở rộng và nâng cao chất lượng của công tác tư vấn, xét nghiệm, đặc biệt là
xét nghiệm tự nguyện,phòng ngừa việc lây nhiễm H qua các dịch vụ y tế và dịch
vụ xã hội.
Điều trị, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.
 Về lao động, việc làm:
Người nhiễm H ở nước ta chủ yếu ở lứa tuổi lao động là (19-39) nhưng đặc
điểm của đối tượng này là sức khỏe yếu nên hiệu quả công việc bị hạn chế cũng
như yêu cầu đáp ứng chế độ lao động cũng khó khăn. Vì thế, các cơ quan quản
lý nhà nước, doanh nghiệp vẫn thực hiện tốt các chính sách nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho những người có H có việc làm ổn định, sớm hoà nhậpcộng đồng.
Việc tạo điều kiện cho người có H có việc làm góp phần làm ổn định trật tự, an
sinh xã hội, tránh lây nhiễm, giảm bớt kinh phí đầu tư xây dựng thêm các khu
điều trị bệnh.
Các doanh nghiệp, cơ quan tăng cường đánh giá kiểm tra, giám sát phòng
chống H tại đơn vị mình, để giúp người có H yên tâm làm việc tránh sự kì thị
của đồng nghiệp.
 Nguyên nhân:
Như vậy có thể thấy rằng việc thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà
Nước đối với những người bị nhiễm HIV đang dần đi vào cuộc sống. Bằng
chứng là ngày càng có nhiều tổ chức tham gia các hoạt động nâng cao nhận thức
của người dân và của cộng đồng về vấn đề bình đẳng con người. Tuy nhiên hiện
nay vẫn còn tồn tại những quan niệm, suy nghĩ, thái độ kì thị với người có H,


19


các chính sách xã hội vẫn chưa thực sự được áp dụng rộng rãi trên cả nước.
Điều này xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Bản thân người có HIV nhận thức thấp, tâm lý nặng nề nên họ thường mặc
cảm, tự ti, sống thu mình, không thích tiếp xúc với người ngoài. Dẫn đến họ ít
quan tâm hay không cần tìm hiểu về các chính sách xã hội dành cho mình.
- Việc quản lý, chỉ đạo công tác thực hiện chính sách xã hội với người có
HIV của chính quyền tại một số địa phương chưa thật sự được chú trọng, hiệu
quả còn thấp, chưa triển khai được các can thiệp, nhất là can thiệp trên diện
rộng.
- Lực lượng cán bộ làm công tác thực hiện chính sách còn thiếu về số lượng,
đội ngũ chuyên trách còn ít, đa số là kiêm nhiệm, do đó chính sách còn thiếu
tính ổn định.
- Mọi người trong cộng đồng đều có các hiểu biết chung về các con đường
lây nhiễm HIV, nhưng do còn có điểm chưa rõ nên vẫn sợ bị lây nhiễm HIV qua
tiếp xúc hàng ngày với những người bị nhiễm bệnh. Chính điều này đã khiến
mọi người có các hành động không cần thiết và thông thường mang tính kỳ thị
mà họ cho rằng là để ngăn ngừa sự lây nhiễm của căn bệnh này.
- Sự kỳ thị liên quan đến HIV có xuất phát từ một thực tế là trong tâm trí của
tất cả mọi người trong cộng đồng, kể cả các cán bộ lãnh đạo và cán bộ y tế, HIV
và AIDS luôn gắn liền với ma tuý và các tệ nạn xã hội. Đối với những người
tiêm chích ma tuý, sự kỳ thị còn mang tính phức tạp riêng, do họ luôn bị coi là
những kẻ chỉ “ăn chơi sa đoạ” chứ không đóng góp gì cho xã hội. Do vậy luôn
có sự xét đoán đối với những người đã bị nhiễm HIV, cho rằng họ nhiễm căn
bệnh này do lối sống không lành mạnh và gây thiệt hại cho cả gia đình và xã
hội.
 Giải pháp:


20


- Nhà nước cần quan tâm hơn đến các chính sách xã hội cho người có H
và những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước khi đề ra và đi vào thực
hiện cần có những cách tiếp cận phù hợp để làm sao đưa các chủ trương này vào
xã hội một cách có hiệu quả thiết thực.
- Bằng các chương trình hành động cụ thể giúp người có H giảm bớt gánh
nặng về tâm lí, chủ động trong việc tiếp cận các chính sách xã hội.
- Nâng cao nhận thức của mọi người trong xã hội về các vấn đề liên quan
đến HIV/AIDS để phòng tránh đồng thời thay đổi thái độ, không kỳ thị phân
biệt đối xử với người có H cũng như giúp đỡ họ trong cuộc sống.
- Đẩy mạnh việc thực hiện các chính sách xã hội một cách đồng bộ ở tất
cả các cấp, các ngành và các lĩnh vực xã hội.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách về chính sách xã hội nói chung và
chính sách xã hội cho người có H nói riêng.
5.2. Pháp luật cho người có HIV/AIDS ở Việt Nam – thực trạng, nguyên
nhân, giải pháp
 Thực trạng:
Có thể nói luật pháp là một công cụ rất quan trọng trong việc hỗ trợ cho
người có HIV/AIDS. Trong pháp luật Việt nam quy định rất rõ ràng về quyền
và nghĩa vụ của người có HIV/AIDS. Điều này được thể hiện rất rõ trong các
văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị, Thông tư liên quan
đến người có HIV/AIDS và phòng chống HIV/AIDS.
 Quyền và nghĩa vụ của người có HIV/AIDS:
Người nhiễm HIV/AIDS vẫn có quyền và nghĩa vụ. Thực hiện tốt quyền đối
với người nhiễm sẽ giúp họ sống có ích hơn và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Chống phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS là trách nhiệm toàn thể
cộng đồng và bản thân người nhiễm HIV/AIDS. Xác định được quyền và nghĩa

vụ của người nhiễm HIV sẽ từng bước tháo gỡ được rào cản của sự kỳ thị, xa
lánh và phân biệt đối xử.
21


Theo qui định của pháp luật hiện hành, những người không may bị nhiễm
HIV/AIDS, không phải là những người bị hạn chế hoặc bị tước quyền công dân,
họ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Theo pháp lệnh
phòng chống virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch ở người HIV/AIDS và
Nghị định số 34/CP ngày 01/06/1996 của chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp
lệnh, người bị nhiễm HIV/AIDS có các quyền và nghĩa vụ như sau:
 Quyền được khám chữa bệnh:
Đây là một quyền rất quan trọng và cần thiết. Điều 20, Pháp lệnh quy
định: "Thầy thuốc và nhân viên y tế có trách nhiệm chăm sóc bệnh nhân
AIDS… Người bị nhiễm HIV/AIDS mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội thuộc
chuyên khoa nào thì được cứu chữa tại chuyên khoa đó hoặc tại chuyên khoa
riêng ". Về vấn đề này, điều 7, Nghị định 34/CP quy định cụ thể như sau:
"Người bị nhiễm HIV/AIDS khi mắc bệnh nhiễm trùng xảy ra nhân cơ hội cơ
thể bị suy giảm miễn dịch, được điều trị tại các cơ sở y tế của Nhà nước. Các cơ
sở Y tế của Nhà nước có trách nhiệm nhận người bệnh AIDS vào điều trị,
không được từ chối hoặc phân biệt đối xử với bất kỳ trường hợp nào". Điều 11,
Pháp lệnh còn quy định "Mọi người trong gia đình của người bị nhiễm
HIV/AIDS có trách nhiệm cùng xã hội chăm sóc sức khỏe, động viên tinh thần
người bị nhiễm HIV/AIDS để họ được hòa nhập trọng gia đình và cộng đồng".
 Quyền được giữ bí mật:
Đây cũng là một quyền quan trọng đối với người bị nhiễm HIV/AIDS vì
quyền này đảm bảo cho họ không bị xa lánh, phân biệt đối xử hoặc bị kỳ thị…
Điều 18 quy định: "cán bộ xét nghiệm và các cơ sở xét nghiệm của nghành y tế
có trách nhiệm giữ bí mật tên, tuổi, địa chỉ của người đến xét nghiệm phát hiện
nhiễm HIV/AIDS. Chỉ người có trách nhiệm của cơ sở Y tế mới được quyền

thông báo kết quả xét nghiệm của người bị nhiễm HIV/AIDS cho vợ, chồng

22


hoặc người thân trong gia đình của người đó và cho cơ quan, tổ chức, người có
trách nhiệm trực tiếp chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV/AIDS. Nghiêm
cấm việc đưa thông tin công khai về tên, tuổi, địa chỉ, hình ảnh của người bị
nhiễm HIV/AIDS, trừ trường hợp được sự đồng ý của người đó".
 Quyền không bị phân biệt, đối xử:
Quyền này được quy định tại điều 4 của Pháp lệnh: "Người bị nhiễm
HIV/AIDS không bị phân biệt đối xử nhưng phải thực hiện các biện pháp
phòng, chống lây truyền bệnh để bảo vệ sức khỏe cộng đồng theo quy định của
Pháp luật". Nội dung quy định này thể hiện cụ thể nguyên tắc mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật.
 Quyền lao động:
Quyền lao động là một trong những quyền cơ bản của con người. Người
bị nhiễm HIV nhưng chưa đến giai đoạn AIDS vẫn còn khoẻ mạnh, do đó Pháp
lệnh và Nghị định 34/CP không quy định hạn chế quyền lao động của người bị
nhiễm HIV/AIDS. Theo quy định tại điều 22 Pháp lệnh thì người bị nhiễm
HIV/AIDS không được làm việc trong một số nghành, nghề dễ lây truyền
HIV/AIDS. Danh mục ngành, nghề này do Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội
phối hợp với Bộ Y tế quy định. Điều 6, Nghị định số 34/CP còn quy định trách
nhiệm của gia đình và cộng đồng đối với người nhiễm HIV/AIDS trong việc
giúp đỡ và bố trí cho người bị nhiễm HIV/AIDS có việc làm thích hợp.
 Quyền tự do đi lại:
Điều 68, Hiến pháp năm 1992, quy định: "Công dân có quyền tự do đi lại
và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo
quy đinh của Pháp luật ". Trên cơ sở đó, pháp luật hiện hành về phòng, chống
AIDS cũng không có quy định nào về hạn chế cư trú, đi lại đối với người bị


23


nhiễm HIV/AIDS. Người bị nhiễm HIV/AIDS có quyền sống chung với gia
đình, cộng đồng. Đối với người nước ngoài bị nhiễm HIV/AIDS khi nhập cảnh
vào Việt Nam, theo quy định tại điều 19 là chỉ phải khai báo tình trạng nhiễm
HIV/AIDS của mình mà thôi.
 Quyền về quyết định xét nghiệm HIV/AIDS:
Mặc dù Pháp lệnh không quy định rõ vấn đề này, nhưng qua các quy định
của Pháp lệnh có thể thấy: hiện nay, việc xét nghiệm HIV/AIDS là tự nguyện.
Điều 14 và 17 quy định xét nghiệm bắt buộc đối với các trường hợp cho máu,
tinh dịch, cho mô hoặc một bộ phận cơ thể con người hoặc trường hợp tổ chức
khám sức khoẻ định kỳ, người có trách nhiệm của cơ sở y tế có quyền quyết
định việc xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV/AIDS đối với những người có nguy
cơ nhiễm HIV/AIDS.
 Về nghĩa vụ của người có HIV/AIDS:
Cùng với việc quy định quyền của người bị nhiễm HIV/AIDS, Pháp lệnh
cũng quy định nghĩa vụ của người bị nhiễm HIV/AIDS. Điều 14, Pháp lệnh quy
định: Người bị nhiễm HIV/AIDS phải thực hiện các biện pháp phòng, chống lây
truyền bệnh để bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Về vấn đề này, điều 3, Nghị định số
34 quy định cụ thể như sau: Người bị nhiễm HIV/AIDS không được có hành vi
làm lây truyền bệnh cho người khác và phải thực hiện các biện pháp phòng
tránh sự lan truyền bệnh cho gia đình và cộng đồng theo quy định và hướng dẫn
của cơ quan y tế, không được cho máu, cho mô, cho tinh dịch, cơ quan hoặc
một bộ phận cơ thể mình cho người khác.
Một nghĩa vụ quan trọng khác của người nhiễm HIV/AIDS là: phải thông
báo ngay cho vợ hoặc chồng mình biết tình trạng nhiễm HIV/AIDS để có biện
pháp phòng, tránh lây truyền bệnh (Điều 23, Pháp lệnh và điều 4, Nghị định


24


34). Điều 24, Pháp lệnh còn nghiêm cấm người bị nhiễm HIV/AIDS cố ý lan
truyền bệnh cho người khác.
 Một số văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết, Nghị định liên quan đến
người có HIV/AIDS
- Luật phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải ở người (HIV/AIDS) của Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam số 64/2006/QH11 ngày 29/06/2006.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 84/2009/QĐ-TTg về phê duyệt
kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đến năm
2010 và tầm nhìn đến năm 2020 ban hành ngày 04/06/2009.
- Nghị định về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội của Chính
phủ số 67/2007/NĐ – CP ban hành ngày 13/4/2007.
Có thể nói các văn bản pháp luật cho người có HIV/AIDS ở nước ta được
ban hành khá đầy đủ và chi tiết, là công cụ pháp lí quan trọng để người có H có
thể hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, khi triển khai vào thực tiễn, do người thực
hiện cũng như đối tượng điều chỉnh có những suy nghĩ và việc làm chưa đúng,
nên phần nào hạn chế tính ưu việt của luật hiện hành. Do vậy, chưa thực sự giúp
cho người có HIV/AIDS vượt qua những rào cản về tâm sinh lí vươn lên khẳng
định mình cũng như chưa mang lại hiệu quả cao trong việc đẩy mạnh thực hiện
phòng, chống HIV/AIDS ở nước ta hiện nay. Phần lớn người nhiễm H chưa
được tiếp cận các văn bản pháp luật có thể hỗ trợ cho họ. Các chương trình tư
vấn trợ giúp pháp lí cho người có H mới chỉ được triển khai trên quy mô nhỏ,
chủ yếu là các thành phố lớn, chưa được thực hiện một cách rộng rãi.
 Nguyên nhân:
- Trong quá trình triển khai và áp dụng vào thực tiễn các văn bản luật chưa
thực sự trở thành công cụ trợ giúp một cách có hiệu quả cho người có H vì:
25



×