Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.04 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
------

BÁO CÁO THỰC TẬP
ĐỀ TÀI :
Giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên
phạm pháp

Hà Nội,

1


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, chúng em xin bày tỏ lòng
biết ơn chân thành tơi cô giáo Hoàng Mộc Lan và các thầy cô trong Khoa
đã hướng dẫn chúng em tận tình, cùng với sự giúp đỡ của cơ quan Công
an thị xã, công an tỉnh Hưng Yên.
Trong quá trình chúng em thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng
em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Khoa Tâm lý học
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
đã trang bị cho chúng em những kiến thức Tâm lý cũng như kỹ năng bài
và nghiên cứu Khoa học trong thời gian học tập và thực tập vừa qua.

2


PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU


Chương I : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI GIÁO DỤC TRẺ
EM VỊ THÀNH NIÊN
1. TÊN ĐỀ TÀI:
Giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp.
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt qúa trình đánh giá cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn
chú trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, đất nước ta đang
bước vào thời kỳ xây dựng đất nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng - dân chủ - văn minh.
Việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ đạo đức thể chất… cũng trở nên quan trọng và bức thiết.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh : “Đáp
ứng yêu cầu của con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự
phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Qua nghiên cứu tình hình tội phạm, thực trạng đang diễn biến phức
tạp, có chiều hướng gia tăng cả về số vụ và tính chất mức độ phạm tội.
Tình hình trẻ em phạm tội và các loại tệ nạn xã hội trong nhà trường xảy
ra nghiêm trọng ở hầu hết các địa phương trong cả nước với con số làm
nhức nhối trong nhân dân, đó là số trẻ em (vị thành niên) phạm tội trung
bình hàng năm chiếm từ 8 - 10% tổng số tội phạm, mà trước năm 1986
chỉ có 4,1%. Trước tình hình đó tâm lý học pháp lý có nhiêm vụ nghiên
cứu đưa ra nhiều giải pháp hữu hiệu trong hoạt động giáo dục cải tạo kẻ
phạm tội nói chung và trẻ em vị thành niên nói riêng nhằm đấu tranh
phòng chống tội phạm cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác để
bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công
dân. Điều quan trọng nhất ở nước ta khẳng định được “Tâm lý học tư
pháp là một chuyên ngành còn mới mẻ trong hệ thống khoa học tâm lý,
nhiêm vụ của tâm lý học tư pháp nghiên cứu những cơ sở tâm lý của hành vi
3



tuân thủ pháp luật (ý thức pháp luật, đạo đức, ý thức xã hội, những
chuẩn mực xã hội, nhân cách của người phạm tội là vị thành niên nói
riêng” và có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc phát huy nhân tố con
người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề .
Ở Việt Nam những chương trình nghiên cứu về “giáo dục cải tạo
trẻ em vị thành niên” trong những năm qua là rất nhiều, có thể xếp đề tài
đó theo các thời kỳ như sau : Từ năm 1954 - 1974 công cuộc cải tạo và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Từ 1975 đến nay là thời kỳ cả nước độc lập thống nhất xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đưa dất nước phát triển. Mỗi một thời kỳ đều có một
đặc điểm riêng, do những đặc điểm có sự chi phối riêng song vấn đề giáo
dục cải tạo trẻ em vị thành niên có nhiều thay đổi, chuyển dịch.
- Từ năm 1954 đến năm 1975 mức độ phạm tội của trẻ em vị thành
niên là rất ít
- Từ năm 1975 đến 1995 mức độ phạm tội của trẻ em vị thành niên
có chiều hướng gia tăng.
- Từ năm 1977 đến nay trẻ em vị thành niên phạm tội tăng cao.
Ngành Tâm lý học Việt Nam phát triển là một khoa học có cách nhìn
nhận mới từ cách hiểu việc giáo dục, cải tạo trẻ em vị thành niên trên
phương diện lý thuyết thuần tuý đến cách hiểu việc giáo dục cải tạo trẻ
em vị thành niên trong thực tế sáng tạo với các chương trình có giá trị
lớn như : Tâm lý học pháp lý, Tâm lý học đại cương, tâm lý học gia
đình… đặc biệt trong Hiến pháp, các Bộ Luật hình sự (sửa đổi) đã mở ra
giải pháp phòng chống tội phạm nói chung và giải pháp giáo dục trẻ em
vị thành niên, giúp họ nhanh chóng tái hội nhập cộng đồng.
1.2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu thực trạng về trẻ em vị thành niên phạm pháp ở Hưng

Yên.

4


Tìm hiểu môi trường xã hội, gia đình đối với giáo dục cải tạo trẻ
em vị thành niên phạm pháp.
Thực trạng trẻ em vị thành niên phạm pháp ở Hưng Yên với những
hoạt động tích cực của các ngành các cấp, các đơn vị công an, trường
học.
Với trách nhiệm của mình góp phần giáo dục cải tạo các trẻ em hư,
phạm pháp.
1.3. Mục đích nghiên cứu:
Ngành tâm lý học tư pháp có vai trò rất quan trọng trong giáo dục
và cải tạo người phạm tội là vị thành niên tiến bộ trở lại hoà nhập cộng
đồng. Viện nghiên cứu về giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên mang
tính nhân văn, nhân đạo. Nhà nghiên cứu tâm lý học, sinh viên khoa tâm
lý học cần tập trung vào mối quan tâm của gia đình, xã hội, phân tích
những yếu tố văn hoá, xã hội từng giai đoạn lịch sử, trình độ hiểu biết
pháp luật, và ý thức tuân thủ pháp luật để giúp trẻ em phạm tội, chủ
động cải tạo, hoàn lương, trở thành thành viên tốt, sống có ích cho gia
đình và xã hội.
Đối với tâm lý học tư pháp, rất quan tâm đến môi trường cải tạo trẻ
em phạm pháp, đó là yếu tố môi trường xã hội tốt, tổ ấm gia đình, hoàn
cảnh sống được thể hiện ở sự đầu tư của bố mẹ, trẻ em tiến bộ phần lớn
phụ thuộc vào sự chăm sóc của người lớn không phải chỉ là đầu tư tiền
bạc mà đầu tư thì giờ tâm trí tình cảm. Đối với con cái thì nhu cầu hàng
đầu là được trưởng thành tiến tới tự lập.
Để làm việc này chúng ta những sinh viên tâm lý xác định đúng và
nhìn nhận rõ ràng nguyên nhân vì sao một số các em vị thành niên hư

phạm tội. Việc giáo dục cải tạo ra sao? Phương pháp nào đúng, hữu hiệu
hơn - nắm và hiểu đầy đủ kiến thức pháp luật, tuyên truyền mọi người ý
thức tuân thủ pháp luật qua đó khẳng định chế độ nhà nước ta, Nhà nước
xã hội chủ nghĩa quản lý xã hội bằng pháp luật, có nhiều ngnàh có vai
trò quan trọng trong xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.
5


1.4 Khách thể nghiên cứu.
Ngày nay vấn đề giáo dục cải tạo người phạm tội nói chung và trẻ
em vị thành niên phạm pháp nói riêng được nhiều nhà khoa học, nhiều
nhà Tâm lý học quan tâm nghiên cứu và đưa ra các phương pháp giáo
dục cải tạo thích hợp, đã có những đóng góp xây dựng con người mới
làm chủ và xây dựng đất nước. Vì vậy những người phạm tội, trẻ em vị
thành niên phạm pháp được giáo dục cải tạo đó là đòi hỏi cấp bách của
sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng con người mới có đạo đức, trí
tuệ trong thời kỳ đất nước đổi mới hiện nay. Nhiều nhà khoa học, nhà
giáo dục học, tâm lý học đã có thành công trong chiến lược xây dựng con
người mới.
Qua nghiên cứu giáo dục trẻ em vị thành niên phạm pháp chúng ta
thấy được sự hình thành phát triển nhân cách con người phạm tội khi
được sự giáo dục cải tạo là một nhiêm vụ nặng nề và lâu dài, đòi hỏi ở
xã hội, gia đình và vai trò cá nhân vị thành niên vì mục tiêu chung vì sự
tiến bộ của trẻ em vị thành niên.
Trên cơ sở nghiên cứu trẻ em vị thành niên cho phép chúng ta rút
ra kết luận là các nhà khoa học, nhà giáo dục học, nhà tâm lý học tiếp
tục có nhiều đề tài đóng góp vào việc xây dựng chiến lược giáo dục con
người cho đất nước, có giải pháp khả thi trong việc giáo dục cải tạo trẻ
em vị thành niên.
Thực tế hàng năm có rất nhiều trẻ em vị thành niên phạm pháp đã

được về sống hoà nhập cộng đồng trở thành người có ích cho gia đình và
xã hội, góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp văn minh. Kết quả đó trước
hết là sự quan tâm đầy đủ của Đảng và Nhà nước đề ra các đường lối,
chủ trương chính sách đúng đắn, tại cộng đồng dân cư được sự quan tâm
của xã hội, gia đình đối với việc giáo dục trẻ em vị thành niên. Đó là sự
đóng góp của các nhà tâm lý học ngày càng có nhiều công trình nghiên
cứu mới đề ra nhiều giải pháp đúng và trúng trong việc giáo dục cải tạo
trẻ em vị thành niên.
6


1.5. Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là tỉnh Hưng Yên nằm ở
trung tâm đồng bằng Bắc Bộ có số dân đông, số trẻ em vị thành niên
phạm tội ra sao. Vai trò của cơ quan pháp luật và tình hình giáo duc, cải
tạo ra sao, dư luận thái độ của người dân Hưng Yên với việc giáo dục cải
tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp.

7


PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Đặc điểmt trẻ em vị thành niên phạm pháp.
Điều 20 Bộ luật dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2000 qui định người từ 18 tuổi trở lên là người thành niên,
người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên.
Người chưa thành niên phạm pháp là người có những hiểu biết cần
thiết về Tâm lý học, về khoa học giáo dục cũng như về đấu tranh phòng
chống tội phạm của người chưa thành niên.
Để công tác giáo dục trẻ em vị thành niên có hiệu quả cần chú ý

các vấn đề sau :
- Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận
thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên.
- Điều kiện sinh sống và giáo dục của gia đình, nhà trường.
- Có hay không có những người lớn tuổi xúi giục, dẫn dắt phạm
pháp.
- Nguyên nhân và điều kiện phạm pháp.
Với mức độ phạm pháp tuỳ theo mà giáo dục tại gia đình hoặc
giam giữ cải tạo ở trại, trường giáo dưỡng do pháp luật qui định, công
tác giáo dục tốt, tội phạm được tha giam giữ. Ban Giám thị phối hợp với
chính quyền, tổ chức xã hội và phường xã để giúp đỡ người đó trở về
sống bình thường trong xã hội.
Khái niệm trẻ em phạm pháp : Là trẻ em phạm tội theo tâm lý học
tội phạm đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội; trái với pháp luật và chịu
hình phạt, hành động gây nguy hiểm, đe doạ sự ổn định an ninh cho xã
hội, gây hậu quả, vi phạm quyền được pháp luật bảo vệ.
Nói đầy đủ hơn: Trẻ em phạm pháp trước hết là có hành vi hoàn
chỉnh, nó thoả mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm, chủ quan khách quan
thông qua hành độngk phương tiện công cụ gây án (có mục đích, có
chuẩn bị, tội vô cùng lớn).
8


Về mặt chủ quan : mục đích và động cơ phạnm tội tất cả mọi hành
vi, hành động của con người đều ý thức hành động - Người làm pháp luật
tìm động cơ để tăng hoặc giảm nhẹ hình phạt. Động cơ biểu thị ra bên
ngoài hành vi kẻ phạm tội như : trả thù, cướp…
Khi xem xét đánh giá kẻ phạm tội 2 mặt. Thông thường nó thống
nhất cả chủ quan và khách quan. Để hiểu sâu về trẻ em phạm pháp ta cấn
hiểu khái niệm tội phạm được ghi tại điều 8 Bộ luật hình sự nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được qui định trong bộ luật hình sự. Do người có năng lực trách
nhiêm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá quốc phòng, an ninh trật tự an toàn
xã hội, quyền, .ợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền lợi ích hợp pháp
khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa”.
Vậy, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái với
pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.
Đặc điểm của trẻ em vi phạm pháp luật: Trẻ em vi phạm pháp luật
có hành vi trái với qui định của pháp luật và gây thiệt hại cho xã hội,
như không tuân theo những quy định của pháp luật. Pháp luật qui định
một đằng một số thanh thiếu niên lại làm một nẻo và có hành vi vi phạm
đến tuân thủ pháp luật. Xâm phạm tới những quan hệ xã hội và pháp luật
bảo vệ, gây cho những quan hệ xã hội những thiệt hại nhất định về vật
chất hoặc phi vật chất. ví dụ như đua xe máy, đánh võng…
- Tính có lỗi của hành vi trong hành vi vi phạm đều trái với pháp
luật. Biết sai nhưng vẫn làm đó là trái với pháp luật. Biết sai nhưng vẫn
làm đó là cố ý: là thực hiện hành vi trái pháp luật tuy nhiên thấy được
tính nguy hiểm đã để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

9


- Vô ý : là dạng trẻ em thiếu kinh nghiệm sống, khi thực hiện hành
vi trái pháp luật không nhìn thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội. Mặc
dù người đó có thể hiểu rõ hậu quả do gia đình, xã hội thông tin, xong
không chịu học, chịu nghe, hoặc có thể cho rằng mình có thể khắc phục

được hậu quả các loại phạm pháp mà các em vị thành niên thường phạm
tội.
+ Hành vi phạm tội: là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội
được qui định trong bộ luật hình sự do người có trách nhiêm hình sự
thực hiện một cách có ý hoặc vô ý xâm hại nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Có 4 đặc điểm không thể thiếu được trong việc qui định người phạm tội.
+ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi nguy hiểm
cho xã hội là hành vi đã gây ra đe doạ gây ra thiệt hại cho những quan hệ
xã hội xã hội chủ nghĩa được luật hình bảo vệ.
+ Tính có lỗi : Lỗi là thái độ chủ quan của một người đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả gây ra thể hiện
dưới dạng cố ý hoặc vô ý.
+ Tính quy định trong bộ luật hình sự. Các hành vi bị coi là phạm
tội đều phải được qui định trong bộ luật hình sự . Nếu không được quy
định trong bộ luật hình sự thì không bị coi là phạm tội.
+ Tính chịu hình phạt. Tính chịu hình phạt cùng với tính quy định
trong bộ luật hình sự là đặc điểm biểu hiện về mặt hình thức của tội
phạm, phản ánh nội dung của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội và
tính có lỗi. Đã là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi thì phải được qui
định trong bộ luật hình sự và phải chịu hình phát và ngược lại.
Với đặc điểm trên với lứa tuổi từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi mà vi
phạm pháp luật với 4 đặc điểm trên thì gọi là trẻ em vị thành niên phạm
pháp.
Để hiểu đầy đủ về trẻ em phạm pháp vị thành niên theo giáo trình
môn học luật hình sự của trường Trung học An ninh nhân dân I Bộ Nội
vụ qui định tuổi chịu trách nhiêm hình sự: Người từ 14 tuổi trở lên
10


nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiêm hình sự về những tội

nghiêm trọng do cố ý. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiêm
hình sự về tội phạm điều 58 bộ luật hình sự.
Trong bộ luật hình sự Việt Nam, người chưa thành niên (vị thành
niên) là người đã đến tuổi chịu trách nhiêm hình sự (đủ 14 tuổi) nhưng
chưa đủ 18 tuổi.
Theo giáo trình Tâm lý học pháp lý của Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn khoa Tâm lý học đánh giá vấn đề người chưa thành
niên phạm tội - đánh giá dưới góc độ gia đình được phản ánh như sau :
Trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 nền kinh tế nước ta
đã có sự chuyển đổi lớn: Từ nên kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang
nền kinh tế thị trường. Do vậy tốc độ tăng trưởng nền kinh tế cũng như
đời sống của mỗi gia đình được cải thiện rõ rệt. Nhưng đồng thời với sự
phát triển của nền kinh tế là sự phát triển của tội phạm cũng như các tệ
nạn xã hội. Đặc biệt, trẻ em vị thành niên có hành vi vi phạm pháp luật,
phạm tội không chỉ tăng về số lượng mà còn cả về hình thức và qui mô
phạm tội. Theo số liệu của Tổng cục Cảnh sát nhân dân - Bộ Công an,
qua phân tích 1394 em phạm tội năm 1996 thì cơ cấu tội phạm như sau :
45,6% phạm tội trộm cắp, 12,3% phạm tội hiếp dâm, 1,8% phạm tội giết
người, 1,6% phạm tội chống người thi hành công vụ và 10,6% phạm các
tội khác. So với giai đoạn 1954 đến năm 1986 thì số người chưa thành
niên phạm tội tăng lên rất nhiều. Về tệ nạn xã hội theo số liệu của cục
phòng chống tệ nạn xã hội - Bộ Lao động Thương binh - xã hội thì số
thanh thiếu niên chiếm 85% tổng số người sử dụng ma tuý, trong đó
50,4% là trẻ em vị thành niên (tập trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã
trung tâm công nghiệp, dịch vụ…).
Trước hiện trạng trên, khoa tâm lý học - Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn tiến hành đề tài nghiên cứu “ảnh hưởng của gia đình
đến hành vi phạm pháp luật của trẻ em vị thành niên”. Qua kết quả điều
tra tại trường Giáo dưỡng số II Ninh Bình và trường phổ thông cơ sở
11



Marie Quirie, qua điều tra 550 trẻ em tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh
Bình cho thấy 1/5 các em có bố mẹ hoặc anh chị em đã, đang phạm tội;
gần 20% những đứa trẻ được tập trung cải tạo là có những người thân
trong gia đình của mình từng phạm tội, có tiền án, đã và đang ở trại cải
tạo. Trong khi đó trên số liệu đối chứng ở trường Marie Quirie thì không
có một học sinh nào có bố, mẹ hoặc anh, chị, em đã và đang đi tù và cải
tạo. Kết quả trên có thể đánh giá chính xác một số nhân tố từ phía giáo
dục gia đình có ảnh hưởng tốt hoặc xấu tới trẻ như là một trong những
nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm pháp luật của trẻ em vị thành niên .
1.2. Vai trò gia đình, xã hội với việc cải tạo trẻ em vị thành niên
phạm pháp.
* Định nghĩa : Hoạt động cải tạo là tổng hợp hoạt động của các cơ
quan nhà nước, tổ chức và công dân nhằm từng bước, cải tạo, giáo dục
trẻ em vị thành niên tiến bộ, chấm dứt phạm pháp, hoặc hướng trở về với
cộng đồng.
Đối với pháp luật giáo dục bằng hình phạt, là biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước mà kẻ phạm pháp phải thi hành nhằm tước bỏ hoặc hạn
chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Mục đích của cải tạo, giáo dục
phạm nhân được tổ chức đặc biệt ở trại cải tạo, thông qua giáo dục trên
nhiều lĩnh vực và tác động của lao động cải tạo, dựa trên cơ sở tâm lý
con người có khả năng thay đổi dưới tác động của môi trường bên ngoài
được tổ chức thông qua các hoạt động và giao tiếp tại các trại cải tạo để
đạt tới hiệu quả, làm cho phạm nhân có khả năng tự điều chỉnh, tự điều
khiển bản thân để giải quyết các mâu thuẫn tình huống theo khuôn khổ
pháp luật, đạo đức và luân lý trong qúa trình giáo dục cải tạo để trở
thành người tiến bộ, mau chóng hoàn nương, trở về hoà nhập cuộc sống
cộng đồng.
* Đặc điểm : Hoạt động cải tạo trẻ em vị thành niên gắn liền với sự

quan tâm của Nhà nước, của tổ chức xã hội về cơ sở vật chất, đội ngũ
quàn giáo ảnh hưởng trực tiếp tới kẻ phạm pháp.
12


Môi trường cải tạo giáo dục đặc biệt kẻ phạm tội ít được tiếp xúc
với cuộc sống cộng đồng.
Ở trại cải tạo một mặt sự giáo dục và các biện pháp giáo dục nhân
cách người quản giáo và sự quan tâm của họ tới phạm nhân cũng như lao
động và ảnh hưởng tích cực của lao động dẫn đến sự xuất hiện các phẩm
chất tâm lý tích cực ở phạm nhân. Mặt khác yếu tố trợ giúp như tình yêu
gia đình và mong muốn đoàn tụ, sở thích sáng tạo cá nhân, nguyện vọng
chính đáng muốn học nghề, tiềm năng sáng tạo của người phạm tội,
mong muốn nâng cao trình đô học vấn v.v… đó là những tác động tích
cực vào phạm nhân trong qúa trình tái hoà nhập xã hội của họ.
Đặc điểm nữa các chức năng của chế độ cải tạo cần phải xem xét
trong sự thống nhất, trong mối liên quan và giao thoa lẫn nhau.
Dưới góc độ Tâm lý học pháp lý cần nắm vững đặc điểm giáo dục
cải tạo kẻ phạm pháp trong đó có trẻ em vị thành niên phạm tội. Để đưa
ra các hướng mới trong việc nghiên cứu qúa trình tái hoà nhập xã hội của
phạm nhân với sự tham gia của các nhà tâm lý, các nhà tâm lý trị liệu để
góp phần trong hoạt động cải tạo đạt hiệu quả.
Trong quá trình này, các Nhà nghiên cứu cần quan tâm đến cả vai
trò của các tổ chức tôn giáo và người truyền đạo và xem họ như là một
nhân tố tham gia trong qúa trình tái hoà nhập của phạm nhân (trích trong
giáo trình Tâm lý học pháp lý do thày Nguyễn Hồi Loan và Đặng Thanh
Nga biên soạn).
Để hoạt động cải tạo trẻ em vị thành niên có hiệu quả cần một loại
giáo dục cải tạo cơ bản sau đây :
Phân tích các diễn biến tâm lý của trẻ em vị thành niên phạm pháp

thường có biểu hiện, ngại học tập, ngại lao động, không tự chủ. Thích ăn
chơi đua đòi, hoặc do bạn bè lôi kéo quen ăn trộm cắp, nghiện hút, cờ
bạc… Bởi vậy việc giáo dục trong xã hội được xã hội hoá gia đình, nhà
trường kết hợp giáo dục, phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội ở địa
phương giáo dục bằng học tập văn hoá.
13


- Lao động, học nghề.
- Tham gia các hoạt động tập thể có lợi.
- Cá nhân tự khẳng định rằng họ có thể trở thành người
tiến bộ.
Việc giáo dục cải tạo trong trại cải tạo được tiến hành bởi sự
hướng dẫn, chỉ bảo của người quản giáo với một số hoạt động sau:
- Xây dựng uy tín với phạm nhân.
- Xây dựng nhân cách mới cho phạm nhân bắt buộc cải
tạo tốt, tiến bộ, không sợ học tập, lao động, hiểu được học tập,
lao động, học nghề có thể ra xã hội hào nhập cộng đồng. Đây là
thời kỳ chuyển biến quan trọng môi trường sống hoàn toàn họ
phải có kế họach chính cho kè phạm tội ăn năn hối lỗi, chịu cải
tạo, xây dựng phẩm chất mới để đáp ứng, chịu khó học tập, lao
động học nghề, để trở thành người tiến bộ. Việc áp dụng các
phương pháp cưỡng chễ tâm lý vào việc cải tạo và điều chỉnh
hành vi phạm tội vô thức không có nghĩa là từ bỏ các phương
pháp truyền thống đã được kiểm chứng cũng như các phương
pháp hiệu đính sư phạm đang được áp dụng đối với người chưa
thành niên có hành vi lệch chuẩn. Ngược lại công tác giáo dục
phòng ngừa chỉ có thể đảm bảo trong trường hợp khi các
phương pháp cưỡng chế tâm lý được củng cố trong hệ thống
giáo dục cải tạo và được thực hiện trên cơ sở lao động tập thể,

học tập, công ích xã hội. Thông qua qúa trình đó sẽ có khả năng
hình thành các xu hướng mới có định hướng xã hội tích cực ở
phạm nhân; từ đó phải nói đến công tác giáo dục trẻ em phạm
pháp sau đây.
1.3. Nghiên cứu thực tiễn công tác giáo dục trẻ em vị thành niên
phạm pháp.
Khi trẻ em vị thành niên phạm phạm pháp được địa phương quyết
định đi cải tạo ở trường giáo dưỡng, thì sự tham gia của các em với hoạt
14


động giáo dục cải tạo có quy định chung và riêng song được tiến hành
thông qua các hoạt động sau:
- Hoạt động giáo dục cải tạo của người quản giáo trong trại giam:
giáo dục là yếu tố quan trọng quyết định đến sự hình thành nhân cách
phạm nhân. Những người cống hiến mình cho hoạt động nặng nề và nhân
đạo đó là những cán bộ quản giáo mẫu mực được thể hiện ở một số khía
cạnh dưới đây:
+ Niềm tin của người quản giáo trong hoạt động giáo dục cải tạo
phạm nhân, Người quản giáo truyền bá cho phạm nhân thế giới quan
đang được tiếp nhận trong xã hội, cũng như một loạt các phẩm chất quan
trọng khác. Lòng yêu tổ quốc, lòng nhân đạo, tính trung thực… để hình
thành phẩm chất này, nhà giáo dục cần phải tin tưởng chắc chắn vào kết
quả cuối cùng của công việc mình đang thực hiện dù phải vượt qua khó
khăn sẽ gặp phải. Niềm tin này của họ cần được truyền cho phạm nhân
“tồi tệ” nhất.
+ Giao tiếp của quản giáo trong hoạt động giáo dục cải tạo phạm
nhân.
Đây là việc tổ chức giao tiếp với phạm nhân trong qúa trình giáo
tiếp diễn ra sự truyền đạt thông tin có định hướng. quan trọng không

phải chỉ nói gì, mà quan trọng cả việc nói như thế nào, và ai nói, có
trường hợp quản giáo không thể truyền thụ những tư tưởng của mình đến
phạm nhân do có sự ngăn cách tâm lý, trẻ em sợ quản giáo, sợ quát,
mắng, mệnh lệnh. Điều đó chứng tỏ công tác giáo dục trẻ em phạm pháp
rất khó. Vai trò to lớn trong việc giải quyết vấn đề này, là khả năng đặc
biệt của người quản giáo nắm bắt các đặc điểm tâm lý riêng biệt của
người đối thoại.
+ Tổ chức hoạt động giáo dục cải tạo phạm nhân của quản giáo:
Quản giáo ở trại lao động cải tạo thường xuyên phải làm việc với phạm
nhân. Để giải quyết đúng đắn các nhiêm vụ sản xuất giáo dục, quản giáo
cần phải là nhà tổ chức giỏi, người có ý chí. Tài năng tổ chức của quản
15


giáo thể hiện ở việc thành lập tập thể phạm nhân, lãnh đạo tập thể này và
lãnh đạo qúa trình sản xuất. Phải biết đưa vào cuộc sống các ý định của
mình và biết vượt qua sự chống đối bên ngoài hoặc bên trong của những
người xung quanh.
Bởi vậy phải tạo ra uy tín nhất định trong mắt của phạm nhân, nhất
là trẻ em vị thành niên. Có thể uy tín đầu tiên là kiến thức về công việc
của mình, có kiến thức chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo, thứ hai là giải
quyết sáng tạo các nhiêm vụ giáo dục không có thành kiến. Thứ ba, tinh
thần trách nhiêm cao đối với các hành vi của mình cũng như hành vi của
những người dưới quyền. Thứ tư, trình độ văn hoá cao, phong cách riêng
trong công việc có như vậy mới có hiệu quả trong công tác giáo dục
phạm nhân, trong đó có trẻ em vị thành niên phạm pháp.
+ Hoạt động thiết kế của quản giáo liên quan đến việc lựa chọn các
đối sách, phương hướng giáo dục, lập kết hoạch, chiến thuật và chiến
lược giáo dục.
Sự phức tạp của qúa trình giáo dục đối với các phạm nhân thể hiện

qua một loạt khó khăn, phần đông phạm nhân không có đầy đủ phẩm
chất của một con người tốt, họ có sự lệch lạc trong nhận thức về pháp
luật, về đạo đức, luân lý và tinh thần. Phạm nhân có những phản đối
ngầm hoặc ra mặt đối với qúa trình giáo dục, các điều kiện cách ly ở trại
lao động cải tạo không cho phép sử dụng tất cả các biện pháp tác động
giáo dục lên nhân cách. Trong số những phạm nhân, có một số lượng lớn
không muốn chấp nhận được giáo dục, vì vậy cần phải có cách tiếp cận
riêng biệt.
Đối với trẻ em vị thành niên việc học tập văn hoá, học nghề có
thuận lợi hơn phạm nhân lớn tuổi, cần áp dụng giáo dục riêng biệt. Ví dụ
phương pháp giáo dục của nhà sư phạm, nhà tâm lý học người Nga Ma
ca Ren cô, dạy các em học sinh hư, cá biệt có hiệu quả.
Đối với công việc cải tạo lao động đối với trẻ em vị thành niên, có
biện pháp và giao công việc thích hợp hơn, địa điểm, thời gian. Khối
16


lượng công việc đảm bảo hiệu quả công việc, thể hiện các điều kiện tâm
lý xã hội và hiểu tâm lý, tính cách trẻ em vị thành niên để đạt được thành
công trong công tác giáo dục.

17


1.4. Phân loại ảnh hưởng của môi trường xã hội, gia đình trong
việc giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp.
a- Công tác giáo dục chung.
Vấn đề giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm tội là một vấn
đề phức tạp, khó khăn, lâu dài. Hiểu nó như thế nào và đánh giá nó như
thế nào cho thoả đáng. Với quan điểm tâm lý học pháp lý và kiến thức

học trong tâm lý học cần đề xuất một số vấn đề trong giáo dục, cải tạo
trẻ em vị thành niên phạm pháp.
Vấn đề tồn tại : Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
công tác chăm sóc giáo dục trẻ em của gia đình và nhà trường phổ thông
chưa quan tâm đầy đủ tới công tác giáo dục trẻ em vị thành niên phạm
pháp.
Như phân tích ở trên, có một số gia đình có bố, mẹ, anh chị em vi
phạm pháp luật, chưa gương mẫu khi các em hư mặc cảm, thiếu quan
tâm để các em đì vào tội lỗi, phạm pháp. Một số nhà trường chưa tiếp
quản hết các em đang độ tuổi đi học, có một nguyên nhân cơ bản là các
cháu lười học. Việt phát triển đô thị hoá các cháu bỏ học lên thành phố
lang thang hoặc đánh giầy thuê, làm thuê kíêm tiền. Có một số địa
phương chưa làm tốt công tác quản lý xã hội, quản lý nhân khẩu, để kẻ
xấu lợi dụng lôi kéo trẻ em. Mặt khác do nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường đòi hỏi Quốc hội cần liên tục xây dựng và ban hành các
luật, sửa đổi luật, có một bộ phận trong nhân dân chưa nắm và hiểu đầy
đủ về luật, trong đó có các em vị thành niên.
b. Một số đề xuất và vai trò của gia đình, nhà trường xã hội trong
việc giáo dục trẻ em vị thành niên
- Trước hết cần xác định gia đình và các thành viên trong gia đình,
là đối tượng của công tác tuyên truyền, giáo dục để mọi người nhận thức
được vai trò chức năng của mình trong việc chăm sóc, quản lý giáo dục
con em, coi trẻ em là đối tượng cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Phải
có kiến thức trong việc giáo dục trẻ em, thực hiện tốt cuộc vận động do
18


mặt trận phát động : “Người lớn gương mẫu, trẻ em chăm ngoan” và
“ông bà, cha mẹ mẫu mực, con trung hiếu, cháu thảo hiền”.
- Chính quyền các cấp nhất là ở cơ sở quan tâm tới sự nghiệp giáo

dục của nhà trường phổ thông, tạo điều kiện các cháu trong độ tuổi được
đến trường không có trường hợp nào bỏ học, đứt học. Mặt khác chính
quyền các cấp nhất là ở cơ sở phải tăng cường công tác quản lý xã hội
làm tốt công tác quản lý xã hội, làm tốt công tác quản lý nhân khẩu,
thường xuyên quan tâm giúp đỡ những gia đình khó khăn. Thực hiện tốt
chính sách xã hôị, thực hiện chỉ tiêu xoá đói, giảm nghèo, không mặc
cảm với gia đình và người lầm lỗi, tạo điều kiện để họ hoà nhập cộng
đồng không để kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo.
- Quản lý tốt công tác dịch vụ, kinh doanh, các hoạt động văn hoá
xã hội trên địa bàn dân cư. Mặt trận và các đoàn thể hoạt động mạnh,
không để các em tiếp xúc với các loại văn hoá độc hại. Cần hoạt động tốt
để các em tham gia đoàn thể, vui chơi, sinh hoạt lành mạnh.
Đối với các em vị thành niên có biểu hiện vi phạm pháp luật, cần
kết hợp giữa chính quyền, gia đình và nhà trường quản lý giáo dục để
các em trở thành người tốt.
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân tâm lý xã hội của trẻ
em vị thành niên phạm pháp, vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với các hoạt động tư pháp, đối tượng tác động của những cán bộ công tác
trong các cơ quan tư pháp chủ yếu là những người đã thực hiện hành vi
phạm tội. Nếu cán bộ tư pháp không nắm vững được bản chất của người
phạm tội, không nắm được những đặc điểm tâm lý của qúa trình thực
hiện tội phạm, thì họ không thể hoàn thành tốt các chức năng chuyên
môn của mình. Để đấu tranh phòng chống tội phạm có kết quả tốt, ngoài
việc nghiên cứu các quy luật tâm lý chung của qúa trình trẻ em vị thành
niên phạm tội, chúng ta cần nghiên cứu nguyên nhân tâm lý xã hội nào
dẫn con người đến thực hiện hành vi phạm tội.

19



Trong thực tế, hành vi phạm tội, luôn được nghiên cứu trong mối
quan hệ phối hợp “Môi trường - Người phạm tội”. Con người sinh ra
không hề có sẵn một chương trình xã hội đã được chuẩn bị, mà chương
trình này được hình thành ở con người bởi thực tiễn xã hội, trong qúa
trình phát triển cá thể của họ có đặc tính tâm lý của con người được hình
thành nhờ hoạt động thực tiễn xã hội của con người: Viện Hàn lâm Khoa
học Liên bang Nga có công trình khoa học của ông A.N.Lê-ôn-Chép đã
nhận xét rằng : Nhân cách không phải là một chính thể tạo ra do di
truyền, nhân cách không phải bẩm sinh, mà nó được hình thành dần dần.
Nhân cách đó là sản phẩm của qúa trình phát triển lịch sử xã hội và qúa
trình phát triển gen di truyền của con người.
Khi nghiên cứu trẻ em vị thành niên phạm pháp, việc phân tích
nhân cách trong mỗi tác động qua lại với môi trường xã hội có ý nghĩa
rất quan trọng. Bởi vì hành vi phạm pháp phát sinh không phải từ chính
môi trường hoặc do chính cá nhân, mà nó phát sinh do mỗi tác động qua
lại giữa môi trường và cá nhân.
c- Vai trò giáo dục của gia đình;
Có thể nói gia đình là môi trường xã hội đầu tiên giúp cho trẻ sớm
hoà nhập với xã hội, vì vậy, để ngăn chặn sự phát triển sai lệch, sự nhận
thức không đúng đắn, và để cho một nhân cách phát triển một cách toàn
diện, đồng thời ngăn chặn trẻ em vị thành niên có hành vi vi phạm pháp
luật, hành vi phạm pháp ngay trong phạm vi quản lý của gia đình thì
trước hết gia đình phải :
- Các bậc cha mẹ phải có tấm gương cho con cái trong mọi việc
làm của bản thân mình.
- Cha mẹ phải tạo điều kiện cho con cái được vui chơi, được đến
trường học hành.
- Cha mẹ phải có lối sống thuỷ chung, lành mạnh, yêu thương lẫn
nhau. Ngoài ra chúng ta cần phải phát triển các trung tâm tư vấn giúp
các em, các bậc cha mẹ lựa chọn phương pháp, cách thức giáo dục con

20


cái cho phù hợp với hoàn cảnh của họ. Đặc biệt trang bị hay giúp đỡ
trang bị kiến thức về gia đình cho nam nữ thanh niên trước khi bước vào
cuộc sống gia đình.
- Trẻ em vị thành niên, hướng thiện tự nguyện hoà nhập cuộc sống
cộng đồng, phấn đấu tiến bộ.

21


KẾT LUẬN :
Việc giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp là một
đóng góp lớn trong chính sách quan tâm tới con người của Đảng và
Nhà nước. Bởi vì con người không là một thứ “vật chất” bị động, con
người có những khả năng to lớn: nghị lực, ý chí, tự do. Trong tâm lý
học tư pháp đã khẳng định con người có thể khắc phục vượt qua môi
trường không thuận lợi, đến với môi trường mới thông qua giáo dục
cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp sẽ hoàn lương trở thành con
người tốt, đó là những đóng góp quan trọng của môn Tâm lý học.
Thực tiễn của đất nước ta những năm vừa qua đã cho thấy rằng:
trong thời kỳ bao cấp tình hình vi phạm pháp luật trong nhân dân nói
chung và trẻ em vị thành niên nói riêng có giảm so với thời kỳ hiện
nay. Nhưng nghiên cứu về tâm lý học ta có quyền tự hào sau 18 năm
thực hiện đường lối do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Trên
đất nước ta diễn ra nhiều thay đổi lớn lao trên mọi mặt của đời sống
xã hội, đã và đang giành nhiều thành tựu to lớn trong qúa trình phát
triển kinh tế xã hội. Những năm qua ngành tâm lý học, một bộ phận
quan trọng của khoa học xã hội và nhân văn đã có bước phát triển

đáng kể. Phạm vi nghiên cứu và ứng dụng của ngành tâm lý học trong
đó có Tâm lý học pháp lý được áp dụng và tiến bộ hơn, sâu hơn của
đời sống xã hội. Có nhiều đóng góp nhằm hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật của Việt Nam ngày càng đầy đủ hơn, phong phú hơn. Đó là đời
sống pháp luật đang sống động, một trào lưu tâm lý xã hội mới đã
hình thành và ngày càng phát triển, trào lưu đề cao vai trò và những
giá trị của pháp luật đã không chỉ còn là khẩu hiệu “Sống và làm việc
theo pháp luật” mà đã trở thành nhu cầu tự thân mang tính khách
quan, phổ biến của đời sống xã hội và cả mọi người.
Từ lý luận đó theo tâm lý học nghiên cứu chủ đề: Giáo dục trẻ
em vị thành niên phạm pháp hiện nay ở nước ta Mặt trận tổ quốc và
Bộ Công an đã có đề án: “Phát động toàn dân tham gia phòng ngừa,
22


phát hiện, tố giác tội phạm, cảm hoá giáo dục, cải tạo người phạm tội
tại gia đình và cộng đồng dân cư”.
Từng bước ngành tâm lý học có trách nhiêm nghiên cứu, phân
tích chỉ rõ những ưu điểm, khuýêt điểm trong việc giáo dục cải tạo
trẻ em vị thành niên phạm pháp, và đóng góp vào việc đẩy lùi tình
trạng phạm pháp trong nhân dân nhằm duy trì an ninh, an toàn xã hội
và đảm bảo công bằng xã hội.
Phương hướng dự định tiếp theo của tâm lý học tư pháp cần tiếp
tục tuyên truyền mạnh mẽ về tác hại của hành vi phạm pháp đối với
đời sống xã hội để nhân dân nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tích
cực tham gia phòng chống tội phạm, đặc biệt chú ý tới việc giáo dục
cảm hoá đối tượng trẻ em vị thành niên phạm pháp.
- Ở địa phương, đơn vị, trường học và gia đình không ngừng
khơi dậy truyền thống tinh thần phòng chống tội phạm mạnh mẽ, đặc
biệt ở các nơi dân cư phức tạp. Nhờ đó hạn chế được tội phạm, tình

làng nghĩa xóm ngày càng gắn bó, đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau,
tạo đà để tiếp tục triển khai làm tốt nhiệm vụ giáo dục cải tạo trẻ em
vị thành niên phạm pháp ngày một tốt hơn, mang lại niềm tin trong
nhân dân.
Kết quả đã đạt được qua nghiên cứu trên khẳng định môn Tâm
lý học tư pháp nói riêng và ngành Tâm lý học nói chung đã có đóng
góp quan trọng vào thực tiễn công tác giáo dục cải tạo trẻ em vị thành
niên phạm pháp.
NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN.
Tại thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên về giáo dục cải tạo trẻ em
vị thành niên phạm pháp.

23


Đề xuất những ý kiến đối với các cơ quan pháp luậ, các cấp
Đảng, chính quyền, đoàn thể và gia đình trong công tác giáo dục cait
tạo trẻ em vị thành niên.
GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:
1. Giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp có vai trò to
lớn trong chính sách quan tâm đối với con người của Đảng và Nhà
nước, các địa phương và gia đình chủ động cùng cơ sở trại giáo
dưỡng quan tâm giáo dục, không mặc cảm với trẻ em vị thành niên
phạm pháp, có dư luận nghiêm khắc để giáo dục trẻ em, đón nhận và
giúp đỡ các em hoà nhập cộng đồng, tránh khuynh hướng mặc cảm.
2. Trong việc xây dựng các qui chế về nếp sống văn minh mới,
người thiếu niên mới xã hội chủ nghĩa, gia đình no ấm, hạnh phúc.
Trong gia đình ngày nay, các biện pháp giáo dục gia trưởng,
độc đoán không còn phổ biến thích hợp nữa, quan hệ giữa cha mẹ và
con cái đã trở lên dân chủ hơn, các bậc cha mẹ đã kết hợp nhiều biện

pháp giáo dục khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đối với
con cái. Gia đình đóng vai trò quan trọng vào nhiệm hạn chế, giảm
đối tượng trẻ em vị thành niên phạm pháp.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp an két
2. Phương pháp phỏng vấn
3. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
4. Phương pháp thống kế toán học.

24


VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TLH Pháp lý

- Nguyễn Hồi Loan
- Đặng Thanh Nga - 2003.

2. TLH Tư pháp

- Nxb Công an nhân dan 2002

3. TLH xã hội

- Trần Hiệp Nxb KHXHNV 1996

4. Hiến pháp sửa đổi

- 1992


5. TLH Đại cương

- Trần Thị Minh Đức
- Hoàng Mộc Lan
- Ngô Công Hoàn
- Nguyễn Quang Cẩn
Nxb Giáo dục năm 1996

6. Bộ Luật dân sự nước Cộng hoà xhcn Việt Nam .
7. Tài liệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

25


×