Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Phân tích vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành nhân, phát triển nhân cách và liên hệ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.46 KB, 8 trang )

A. MỞ BÀI
Loài người từ khi ra đời đã trải qua biết bao biến động, thăng trầm. Cùng với sự
phát triển của xã hội thì những giá trị được coi là chuẩn mực về nhân cách cũng dần
dần được định hình, phát triển, biến đổi phù hợp với đời sống. Xã hội càng phát
triển lên cao thì những yêu cầu về nhân cách càng được coi trọng.
Đặt trong bối cảnh nước ta, khi mà ta đã mở cửa nền kinh tế thị trường, khi mà ta đã
gia nhập rất nhiều tổ chức thế giới như WTO, ASEAN... thì những vấn đề nhân
cách cần được đặt ra một cách cấp thiết. Bước vào thời kỳ mới thì những giá trị
chuẩn mực về nhân cách của ta trước đây cũng dần thay đổi. Trong môi trường toàn
cầu hoá, chúng ta có thể nói nhiều hơn đến sự tự do với tính cách là dấu hiệu của sự
phát triển nhân cách một cách đầy đủ. Nhưng môi trường ấy cùng với sự ảnh hưởng
của rất nhiều yếu tố từ bên ngoài vào cũng rất dễ dẫn đến sự phát triển méo mó về
nhân cách gây khó khăn cho việc xây dựng và phát triển nhân cách. Bởi lẽ, những
chuẩn mực cũ đã lỗi thời nhưng trong nhiều trường hợp vẫn được ngộ nhận là giá
trị. Những chuẩn mực mới đang được hình thành chưa đủ sức xác lập tính phổ biến
trong hiệu lực định hướng nhân cách. Bên cạnh đó, yêu cầu hội nhập kinh tế, giao
lưu văn hoá dẫn đến sự du nhập những giá trị, những chuẩn mực ngoại lai. Trong
những chuẩn mực này, có cái là cần thiết đối với sự nghiệp hiện đại hoá đất nước,
có cái lại thể hiện như là phản giá trị cần đề kháng. Sự đan xen giữa giá trị và phản
giá trị trong những chuẩn mực về nhân cách hiện nay làm cho nhân cách khó khăn
trong sự xác định phương hướng, lựa chọn và thực hiện hành vi. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu các yếu tố liên quan đến sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như
vai trò của chúng là rất cần thiết. Bởi có sự hiểu biết đó thì mỗi cá nhân có thể dễ
dàng hơn trong sự định hướng nhân cách cho mình. Đặc biệt, vấn đề này còn rất cần
với sinh viên hiện nay. Họ đang được sống trong một môi trường rất mới, trong một
thời đại đầy năng động. Họ đang trong qúa trình hoàn thiện về nhân cách. Rất cần ở
thế hệ trẻ này sự định hướng một cách đúng đắn những chuẩn mực về nhân cách để
từ đó có sự rèn luyện cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Vì vậy, hiểu biết về vai
trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách càng cần thiết. Vì
vậy, tôi xin chọn đề tài “Phân tích vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành
nhân, phát triển nhân cách và liên hệ thực tiễn”.


B. NỘI DUNG
I. Khái niệm nhân cách
Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định,
là chủ thể các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao tiếp thì
chúng ta nói đến nhân cách của họ. Chúng ta chỉ có thể nói đến con người như là
một nhân cách, bắt đầu từ một thời kỳ nào đó trong quá trình phát triển của nó.
1


Không ai nói đến nhân cách của một đứa trẻ 2 tuổi cả. Nói cách khác, không phải
mọi cá thể người, với cá tính của mình đều là nhân cách cả. Vậy câu hỏi được đặt
ra: Nhân cách là gì ?
Triết học Mác – Lênin quan niệm “Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo
riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân “.
Trong quá trình sống của mình, con người đã làm biến đổi các phẩm chất tự nhiên
của mình, nhưng những biến đổi đó không tạo ra nhân cách. Nhân cách được hình
thành và phát triển như những quan hệ xã hội mà trong đó cá nhân đang lớn lên và
đang được biến đổi.
Từ đó ta có thể rút ra định nghĩa: Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý
của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy.
II. Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
Theo quan điểm tâm lý học Mac-xit, không phải con người khi sinh ra đã có sẵn
nhân cách và cũng không phải nó bộc lộ dần dần từ những bản năng nguyên thủy.
Nhân cách là một cấu tạo tâm lý mới được hình thành và phát triên trong quá trình
sống, hoạt động và giao tiếp của mỗi người. Trong quá trình hình thành, nhân cách
bị chi phối bởi nhiều yếu tố: di truyền, hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động và giao
tiếp.
1. Di truyền
Bẩm sinh di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lý của hệ thần kinh và các
cơ quan cảm giác vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một số đặc

điểm về cấu tạo và chức năng của cơ thể từ thế hệ trước theo con đường di truyền,
trong đó có những đặc điểm về cấu tạo và các chức năng của các giác quan và não.
Những đặc điểm của hoạt động thần kinh cấp cao được biểu hiện ngay từ những
ngày đầu của cá thể. Tuy nhiên, không thể kết luận về vai trò quyết định của di
truyền trong sự hình thành và phát triển tâm lý nhân các .Di truyền chỉ đóng vai trò
tiền đề vật chất cho sự hình thành nhân cách, làm cho quá trình hình thành nhân
cách diễn ra nhanh chóng hay chậm chạp, thuận lợi hay khó khăn tùy vào yếu tố
sinh học của từng người. Bất cứ một chức năng tâm lý nào mang bản chất con
người của nhân cách chỉ có thể được phát triển trong hoạt động của bản thân cá
nhân đó và trong điều kiện của xã hội loài người. Tai âm nhạc của MoZa, mắt hội
họa của Raphaen sẽ không tự phát triển khả năng tiềm tàng của nó một khi thiếu
môi trường, nhu cầu và sự rèn luyện. Để nhận thức đúng vai trò của bẩm sinh di
truyền trong sự phát triển tâm lý nhân cách ta cần phải thừa nhận một thức tế là mọi
cơ thể bình thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần của mình. Ngoài
2


ra, sự tác động của các yếu tố di truyền đối với từng giai đoạn phát triển lứa tuổi và
đối với từng hoạt động cụ thể là khác nhau. Chẳng hạn khả năng tiềm tàng của bộ
máy phân tích âm thanh cần phải được phát triển và bồi dưỡng từ thuở ấu thơ.
2. Hoàn cảnh sống
2.1 Hoàn cảnh tự nhiên
Như ta đã biết, mỗi dân tộc sống trên một lãnh thổ nhất định, có cái độc đáo của
hoàn cảnh địa lý: ruộng đất và khoáng sản, núi và sông, trời và biển, mưa và gió,
hoa cỏ và âm thanh, … Những điều kiện ấy quy định đặc điểm của các dạng, các
ngành sản xuất, đặc tính nghề nghiệp. Qua đó, quy định các giá trị vật chất và tinh
thần ở một mức độ nhất định. Từ đó có thể thấy hoàn cảnh tự nhiên không giữ vai
trò quan trọng và quyết định trong sự phát triển tâm lý nhân cách mà chỉ ảnh
hưởng một phần nào đó đến sự phát triển nhân cách.
2.2 Hoàn cảnh xã hội

Trước hết ta cần nhận thức về ảnh hưởng nó chung của xã hội đối với sự phát
triển tâm lý nhân cách. Đứa trẻ muốn có nhân cách phải có sự tiếp xúc với người
lớn để nắm giữ tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị bước vào
cuộc sống và lao động trong văn hóa của thời đại. Từ đó có thể thấy nhân cách là
một sản phẩm của xã hội. Quan hệ sản xuất quy định nội dung của nhiều nét tâm lý
cơ bản của nhân cách. Tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ pháp luật và chính
trị. Vị trí giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức đọ này mức
độ khác trong xã hội. Như vậy có thể nói hoàn cảnh xã hội có ảnh hưởng quan
trọng đến sự hình thành tâm lý nhân cách.
3. Giáo dục
Theo quan điểm của tâm lý học và giáo dục học hiện đại thì giáo dục giữ vai trò
chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Trong tâm lý học, giáo dục thường được
hiểu như là quá trình tác động có ý thức, có mục đích và có kế hoạch về mặt tư
tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể trẻ em và học sinh, trong gia đình và cơ
quan giáo dục ngoài nhà trường. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách được thể hiện ở những điểm sau:
+ Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách theo chiều hướng đó
+ Giáo dục có thể chuyển biến những người xấu thành người tốt, đào tạo con
người có ích cho xã hội và có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh hay
môi trường tự nhiên không thể đem lại được. Chẳng hạn, nếu đứa trẻ sinh ra không
bị khuyết tật thì theo sự tăng trưởng và phát triển cơ thể đến một giai đoạn nào đó
thì đứa trẻ sẽ biết nói. Nhưng muôc biết đọc thì nhất thiết đứa trẻ phải học.
3


+ Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại. Ví dụ: có cac
trường giáo dục đặc biệt dạy cho người bị khuyết tật. Giáo dục còn có thể giúp con
người hồi phục những chức năng đã mất, hoặc có thể phát triển tài năng và trí tuệ
một cách bình thường.

+ Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ
ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó.
+ Giáo dục cần phải kết hợp với ba môi trường phát triển lành mạnh: xã hôi, gia
đình, nhà trường.
Tuy nhiên, giáo dục chỉ vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách và thúc đẩy nó diễn ra theo chiều hướng đó. Còn cá nhân có phát triển
theo chiều hướng đó hay không, phát triển đến mức độ nào giáo dục không quyết
định trực tiếp được.
4. Nhân tố hoạt động
Con đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ
nếu bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động
đó không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển nhân cách. Bởi vậy,
hoạt động mới là nhân tố đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách. Hoạt động con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã
hội, cộng đồng được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ
nhất định. Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa mà nhân cách được
bộc lộ và hình thành.
+ Chủ thể hóa là quá trình hoạt động tiếp thu những tri thức ở ngoài xã hội nhằm
làm thay đổi bản thân mình. Ví dụ như trong quá trình học tập con người tiếp thu
những tri thức để làm giàu thêm vốn kiến thức cho bản thân.
+ Đối tượng hóa là quá trình hoạt động của con người, mà trong quá trình đó con
người làm ra các sản phẩm, cải thiện công cụ lao động.
Hoạt động có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh cho nên một trong những quy luật của giáo dục là phải thay đổi tính chất
của hoạt động, làm phong phú hóa nội dung, hình thức, cách thức tổ chức nó trong
quá trình giáo dục, lôi cuốn bản thân tham gia tự giác và tích cực hoạt động
Tuy nhiên, hoạt động con người luôn mang tính chất xã hội, tính chất tập thể. Vì
vậy. hoạt động luôn phải gắn liền với giao lưu. Học sinh không thể chơi, học tập,
lao động một mình được. Trong tất cả các hoạt động trên học sinh phải giao tiếp với
các chủ thể khác

5. Yếu tố giao tiếp
4


Khác với hoạt động, đối tượng của giao tiếp là những chỉnh thể tâm lý sống
động, những nhân cách hoàn chỉnh. Ở đây diễn ra mối quan hệ giữa chủ thể với chủ
thể. Giao tiếp là điều kiện tồn tại và phát triển của loài người. Nhu cầu giao tiếp là
một trong những nhu cầu xã hội cơ bản phát triển sớm nhất của loài người. Sự phát
triển cả môt cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà
nó giao tiếp trực tiếp hay gián tiếp với họ. Chính con người làm xuất hiện, duy trì,
pháy triển giao tiếp và trở thành sản phẩm của giao tiếp.
Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác, nhận thức các quan
hệ xã hội mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình
với người khác, với chuẩn mực xã hội.
Đối với cá nhân, giao tiếp là điều kiện tồn tại và là một nhân tố phát triển tâm
lý. Thực vậy nếu sự phát triển tâm lý của cá nhân là quá trình lĩnh hội của họ đối
với những kinh nghiệm xã hôi lịch sử thì giao tiếp là một nhân tố cơ bản của sự
phát triển tâm lý đó. Trẻ nhỏ chỉ có thể lĩnh hội những kinh nghiệm ấy trong quá
trình tác động qua lại với những người lớn xung quanh và những vật sống mang
trong mình những kinh nghiệm ấy. Vì vậy giao tiếp là con đường quan trọng nhất
của sự phát triển tâm lý con người.
III.
Liên hệ thực tiễn
1. Nhân cách và sự nghiệp của Lý Công Uẩn
Nhân cách là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành công của mỗi
con người. Sự thành công của các nhà tỷ phú và những người nổi tiếng đều là
những ví dụ sinh động về sức mạnh to lớn của con người. Đó chính là sự hoàn
thiện về mặt nhân cách. Trong đó có thể lấy ra một ví dụ tiêu biểu đó chính là vị
vua Lý Công Uẩn. Ông đã tạo điều kiện cần thiết nhất để Vương triều Lý xây dựng
nền tảng cho nền văn minh Ðại Việt, để Thăng Long - Hà Nội suốt một ngàn năm

tiêu biểu cho những giá trị vững bền của cả dân tộc. Thông thường khi nói về nhân
cách của một nhân vật, người ta thường chỉ nhìn từ góc độ đạo đức học, nhấn mạnh
những phẩm chất ứng xử của nhân vật ấy đối với cộng đồng và đối với bản thân.
Nhưng nhân cách theo một ý nghĩa sâu xa hơn thì chính là sự tổng hòa những nét
đặc trưng của một nhân vật đã tự khẳng định mình như một bản lĩnh độc đáo, vừa
mang tính phổ biến của cộng đồng, vừa mang những giá trị tinh thần của bản thân
họ. Một con người có nhân cách phải có những nét nổi bật trong suy tư, tình cảm
và ý chí, qua tác phong hoạt động của họ.Từ quan điểm đó, tôi nêu lên đôi nét về
nhân cách Lý Công Uẩn. Thứ nhất: Truyền thống yêu nước, yêu người của tổ tiên
đã được ông tiếp thu và không ngừng nâng cao với những điều kiện quan trọng bậc
5


nhất cho sự phát triển bền vững của dân tộc. Thứ hai: Với đầu óc tự cường và hoài
bão lớn lao, ông quyết tâm đưa đất nước trên con đường giàu mạnh. Thứ ba: Trí
tuệ thông minh, sắc sảo qua cái nhìn chiến lược của ông về tiền đồ của đất nước.
Thứ tư: Tinh thần kiên quyết và khẩn trương, không bỏ lỡ thời cơ như khi ông
giành lấy ngôi vua từ triều Tiền Lê đang đổ nát và lập tức chuyển kinh đô từ Hoa
Lư ra thành Ðại La.Những đặc điểm nhân cách ấy của Lý Công Uẩn đã thể hiện
qua rất nhiều công việc lớn lao để xây dựng Thủ đô mới, mở đường cho việc hình
thành nền văn hiến ngàn năm Thăng Long với những con người Việt Nam không
chỉ có chí khí anh hùng mà còn mang những tình cảm bao la, đối với cộng đồng
dân tộc và với cả cộng đồng nhân loại.
2. Những điều kiện hình thành nhân cách và sự nghiệp của Lý Công Uẩn
Ông là một đứa trẻ sinh ra có mẹ nhưng không có cha. Lên ba tuổi mẹ đã đem
con đến nhà Lý Khánh Vân, được Khánh Vân nhận làm con nuôi và cho mang họ
Lý của ông.
Năm Lý Công Uẩn được 7 tuổi, Lý Khánh Vân cho con nuôi đi theo học với
sư Vạn Hạnh, và từ đó sống với sư Vạn Hạnh đến lúc trưởng thành. Ðây là một
quá trình cực kỳ quan trọng đối với nhân cách và sự nghiệp của Công Uẩn. Sống

thanh đạm trong chùa, ông hằng ngày lao động và tụng kinh tham gia làm những
việc từ thiện đối với nhân dân nghèo khổ và đói rét trong vùng nông thôn Cổ Pháp,
Bắc Giang. Với thân phận con người không cha lại mất mẹ, ông càng dễ dàng gắn
bó với nhân dân lao động và chia sẻ với họ những điều đau khổ trong cuộc sống
hằng ngày. Hoàn cảnh này đã tác động mạnh mẽ đến suy tư, tình cảm và khát vọng
của một con người vốn thông minh lại lớn lên trong không khí lành mạnh của nhà
chùa, giữa hoàn cảnh đau khổ của đất nước.
Ðược người thầy uyên bác là sư Vạn Hạnh dạy dỗ, ông sớm tiếp thu truyền
thống của dân tộc qua hàng nghìn năm độc lập, trong đó mọi người coi nhau như
anh em ruột thịt, cùng chung lưng đấu cật để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cũng từ người thầy này, ông không thể không day dứt về hoàn cảnh một đất
nước yếu nghèo, bao lần nổi lên đánh giặc ngoại xâm mà không thành công.
Những cảnh đau khổ của dân tộc suốt 1000 năm bị ngoại bang chiếm đóng, sự tủi
nhục của người dân mất nước cộng với tấm gương anh hùng cứu nước của Ngô
Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn càng ngày đêm thôi thúc tâm tư ấy và củng cố ý
chí tự cường dân tộc ở ông. Nhờ có sự giáo dục của nhà sư Vạn Hạnh cùng với
lòng quyết tâm của mình, Lý Công Uẩn đã bộc lộ rõ nhân cách của mình là một
người yêu nước, thương dân, muốn giúp đất nước vượt qua hoàn cảnh khó khăn.
6


Có thể nói tuổi trẻ của ông trong điều kiện lịch sử và điều kiện xã hội như trên
đã khiến ông từ khi xuất thân làm việc với Lê Trung Tôn rồi với Lê Ngọa Triều
mới chỉ được 4 năm, ông đã nhanh chóng bộc lộ bản lĩnh của mình, bằng cách tự
tập làm vua, gánh lấy trách nhiệm cứu dân, dựng nước thay triều Tiền Lê đã đổ nát.
Thời gian ngắn ngủi này đã sớm thể hiện nhân cách của ông và mở ra sự nghiệp
lẫy lừng của ông và của Vương triều Lý.
Nhân cách của ông còn thể hiện sức mạnh của lòng tự cường dân tộc. Ông đã
có đầy dũng khí để dời bỏ đất Hoa Lư, một nơi hiểm địa để tự vệ nhiều hơn là để
phát triển đất nước rộng lớn. Ðặt Thủ đô giữa trung tâm đất nước là để dân tộc có

thể vùng vẫy giữa trời cao biển rộng, phát huy mọi tiềm năng để xây dựng một
nước hùng cường, không chịu thân phận yếu nghèo như trước. Ðiều này chứng tỏ
sự nung nấu của ông từ bao lâu về sự nghiệp của đất nước, về niềm tin mãnh liệt
vào sức mạnh của dân tộc và chí lớn của bản thân mình. Niềm tin và ý chí của ông
đã thể hiện trong chính sách về kinh tế, chính trị và tư tưởng.
Ông xây dựng trong nhân dân một đạo lý làm người. Ông vừa phát huy truyền
thống lâu đời của dân tộc vừa tiếp thu thành tựu văn hóa từ nước ngoài. Lý Công
Uẩn là người sống quá nửa cuộc đời ở trong chùa Phật, chịu ảnh hưởng nhiều của
những người thầy như Lý Khánh Vân, Vạn Hạnh nên tất yếu ông sùng bái đạo
Phật. Tuy nhiên việc làm của ông không hoàn toàn chỉ vì tín ngưỡng mà sưu tầm
kinh phật, xây chùa, tạc tượng mà còn có dụng ý củng cố và phát huy truyền thống
yêu nước, thương người trong nhân dân mà còn đem lại cho truyền thống ấy một
cơ sở giáo lý trước hết là tinh hoa của đạo Phật. Chính vì lẽ đó mà dưới triều đại
nhà Lý nhân dân yên ổn làm ăn, không có trộm cướp, lao động cần cù và chiến đấu
anh hùng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự nghiệp Lý Công Uẩn còn tiếp tục tỏa sáng qua ngàn năm lịch sử với những
thành tích vẻ vang từ Lý Công Uẩn với Vương triều Lý đến Hồ Chí Minh và dân
tộc ta trong thời đại ngày nay.

C.
KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng nhân cách con người không thể tự sinh ra mà nò được hình
thành. Trong quá trình hình thành nhân cách thì giáo dục, hoạt động, giao tiếp giữ
7


vai trò quyết định và tạo thành những con đường cơ bản nhất, còn yếu tố bẩm sinh
đóng vai trò là tiền đề vật chất để hình thành nhân cách. Các yếu tố này phải được
xây dựng theo một hướng nhất định nhằm mục đích hình thành nhân cách phát
triển.


8



×