Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính Nhànước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.38 KB, 12 trang )

BỐ CỤC

I.LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………2
II.NỘI DUNG CHÍNH……………………………………………………………2
1.Cơ sở lí luận……………………………………………………………………..2
a.Cơ sở pháp lí……………………………………………………………………..2
b.Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………………..3
c.Một số ý kiến về nguyên tắc tập trung dân chủ……………………………….. 4
2.Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ…………………………………..6
a. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính Nhà nước vào cơ quan quyền lực
Nhà nước cùng cấp……………………………………………………………….7
b. Sự phục tùng cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương
c. Sự phân cấp quản lý……………………………………………………………8
d. Sự hướng về cơ sở……………………………………………………………..8
e. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương…9
3. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính Nhà
nước……………………………………………………………………………10
III.KẾT LUẬN…………………………………………………………………11

1


I.LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được tiến hành trên cơ sở những
nguyên tắc nhất định. Đó là tư tưởng chỉ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt
động giúp cho các chủ thể quản lí hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả các
công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công. Một trong những nguyên
tắc cơ bản, không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động quản lý hành chính nhà nước mà
còn ảnh hưởng cả đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đó là nguyên tắc
tập trung – dân chủ.
Để nắm bắt sâu hơn nữa về nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lý hành


chính nhà nước và ý nghĩa của nó trong lĩnh vực này ở Việt Nam hiện nay, em xin
chọn đề tài “Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên
tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay”.
II.NỘI DUNG CHÍNH
1.Cơ sở lí luận
a.Cơ sở pháp lí.
Tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt
động của các cơ quan nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp
1980 và Điều 6 Hiến pháp 1992 “…Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan
khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Không những ở nước ta, các nước xã hội chủ nghĩa cũng ghi nhận nguyên tắc
này trong Hiến pháp và cũng xác định đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và

2


hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, đồng thời trong hoạt động quản lí hành
chính nói riêng.
b.Cơ sở thực tiễn
Nhìn lại tiến trình lịch sử của cả nhân loại ta nhận thấy : Trong xã hội phong
kiến, quyền lực nhà nước tập trung trong tay giai cấp thống trị phong kiến mà đại
diện là nhà vua; đặc biệt ở các nhà nước theo chính thể quân chủ chuyên chế, chế
độ cai trị thể hiện sự độc đoán, chuyên quyền, phản dân chủ (hoặc có dân chủ
nhưng rất hạn chế). Đến chế độ tư bản chủ nghĩa, tập trung, quan liêu là đặc trưng
điển hình của việc tổ chức bộ máy nhà nước tư sản. Các cơ quan cai trị với những
quan lại cai trị được bổ nhiệm từ trên xuống luôn kiêu căng, lấn át, xa rời thực tế;
chỉ chịu trách nhiệm trước cấp trên mà không chịu trách nhiệm trước nhân dân và
không chịu sự giám sát của nhân dân.
Như vậy có thể kết luận rằng cho dù ở bất kỳ xã hội nào và bất kỳ kiểu nhà

nước nào, việc quản lý xã hội và thực hiện quản lý nhà nước đều phải có sự tập
trung quyền lực. Đây là yếu tố bắt buộc và mang tính tất yếu nhằm điều khiển
(quản lý) được toàn bộ các hoạt động xã hội, thiết lập và duy trì một trật tự xã hội
phù hợp với ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội.
c. Một số ý kiến về nguyên tắc tập trung – dân chủ.
Theo bài viết về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước -ThS. Vũ Văn Nhiêm Giảng viên Khoa Luật Hành chính,
trường ĐH Luật TP. HCM thì sau khi tổng hợp quan điểm của một số tác giả và
nhà nghiên cứu, có 3 ý kiến về nguyên tắc tập trung dân chủ như sau :
“Loại ý kiến thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai
mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước .
Tập trung dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, không bao giờ được phép
cường điệu hoặc coi nhẹ bất cứ mặt nào. Vì như vậy sẽ dẫn đến những hậu quả
3


như: chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ, hạn chế tự do, sáng tạo, coi thường
pháp luật v.v…. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp
hài hòa với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn
đến tập trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất của Nhà nước ta. Ngược lại, nếu
thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt
động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả. Nghệ thuật của sự vận dụng nguyên tắc
tập trung dân chủ là tìm tỷ lệ kết hợp tối ưu của hai mặt tập trung và dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của từng lĩnh vực, ngành cụ thể, trong từng giai đoạn, từng
hoàn cảnh, thậm chí là từng vấn đề cụ thể. Trong từng địa phương, từng thời điểm
khác nhau cần định ra liều lượng kết hợp giữa những chế độ tập trung và chế độ
dân chủ thích hợp tạo nên sự thống nhất hai mặt của nguyên tắc. Nội dung của
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là
sự kết hợp biện chứng giữa hai mặt: tập trung (thống nhất) và dân chủ. Nội dung
của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa chế độ tập

trung và chế độ dân chủ. Do vậy, bất kỳ sự nhấn mạnh hay coi nhẹ một mặt nào
của nguyên tắc này sẽ dẫn đến sự thiếu hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của bộ
máy nhà nước. Nếu quá tập trung sẽ dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu, độc
đoán, chuyên quyền, phi dân chủ, còn nếu quá dân chủ sẽ dẫn đến tình trạng dân
chủ quá trớn, lạm dụng dân chủ và vô chính phủ. Nói như vậy cũng không có nghĩa
là chúng ta dàn đều cả hai nội dung tập trung và dân chủ.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập trung
“một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân
chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần
trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao.
Ngoài ra, còn có loại ý kiến thứ ba cho rằng tập trung dân chủ là việc thủ trưởng
có toàn quyền quyết định các vấn đề của cơ quan trên cơ sở đóng góp ý kiến của
nhân viên. Hay nói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của cán bộ, công nhân
4


viên, các thành viên trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa tham khảo và việc quyết
định thuộc thẩm quyền của thủ trưởng.
Như vậy, có thể thấy đa số các tác giả cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước là sự kết hợp giữa hai yếu tố
(hai mặt) tập trung và dân chủ. Sự kết hợp giữa các mặt này là không giống nhau,
điều đó phụ thuộc vào tính chất của các cơ quan, phụ thuộc vào trình độ quản lý,
vào điều kiện cụ thể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước”.
Có thể nói trong các ý kiến kể trên, ý kiến đầu tiên là ý kiến được thông qua và
chấp nhận nhiều nhất. Vì vậy, trên cơ sở của ý kiến thứ nhất, em xin trình bày toàn
bộ bài tiểu luận của mình dựa theo quan điểm tập trung - dân chủ là sự kết hợp hai
mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
2.Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ:
Trong quản lí hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền
lực nhà nước vào chủ thể quản lí để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách,

pháp luật một cách thống nhất. Trong khi đó dân chủ hướng đến việc mở rộng
quyền cho đối tượng quản lí nhằm phát huy trí tuệ tập thể, phát huy khả năng tiềm
tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật. Cần
phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc đảm bảo cả hai yếu tố này
trong quản lí hành chính nhà nước.
Trong điều kiện hiện nay sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là yêu cầu
khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 15 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ
sung năm 2001 ).

5


Trên cơ sở đó nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước
biểu hiện ở những nội cơ bản sau :
a. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính Nhà nước vào cơ quan quyền lực Nhà
nước cùng cấp:
Điều 6 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) đã quy định: “Nhân
dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân là
những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu
ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Như vậy, Hiến pháp đã ghi nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Người dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà
nước do chính họ bầu ra để thay mặt họ trực tiếp thực hiện quyền lực đó.
Yếu tố tập trung: Cơ quan quyền lực Nhà nước có những quyền hạn nhất định
trong việc thành lập, sát nhập, hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước cùng
cấp. Các cơ quan nhà nước khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước
( như bộ, cơ quan ngang bộ…) đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc
gián tiếp thành lập, sát nhập hoặc bãi bỏ.
Trong quá trình hoạt động các cơ quan hành chính chịu sự giám sát của cơ quan

quyền lực, phải báo cáo trước cơ quan quyền lực. Hoạt động của cơ quan hành
chính là nhằm đảm bảo, cụ thể hoá cho những quyết định, chủ trương của cơ quan
quyền lực được thực hiện trên thực tế.
Yếu tố dân chủ : Cơ quan quyền lực Nhà nước trao quyền chủ động, sáng tạo cho
cơ quan hành chính Nhà nước trong qua trình cơ quan này chỉ đạo thực hiện pháp
luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực.

6


Ví dụ: Ở trung ương: Quốc hội thành lập Chính phủ và trao quyền hành pháp cho
Chính phủ.
Ở địa phương: Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra (điều 123
Hiến pháp năm 1992) và thực hiện hoạt động quản lý hành chính Nhà nước ở địa
phương.
b. Sự phục tùng cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương:
Sự phục tùng này biểu hiện ở cả hai phương diện tổ chức và hoạt động. Tất cả
các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra cấp dưới và địa phương
có nghĩa vụ phải thực hiện.
Yếu tố tập trung: Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung
quyền lực Nhà nước để lãnh đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa
phương. Nếu thiếu nó sẽ dẫn đến buông lỏng sự lãnh đạo, làm nảy sinh tình trạng
vô Chính phủ, tuỳ tiện, cục bộ địa phương.
Yếu tố dân chủ: Sự phục tùng ở đây không phải là phục tùng vô điều kiện, mà là sự
phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Cấp trung
ương phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, của địa phương…góp phần phát huy sự
chủ động sáng tạo trong việc hoàn thiện nhiệm vụ được giao.
c. Sự phân cấp quản lý:
Phân cấp quản lý là sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cấp trong bộ máy quản lý hành chính Nhà nước.

Yêu cầu của sự phân cấp quản lý:
-

Phải đảm bảo Trung ương có quyền quyết định trong lĩnh vực then chốt,

những vấn đề có ý nghĩa chiến lược.
7


-

Mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các cơ sở để phát huy tính chủ

động, sang tạo trong quá trình quản lí.
-

Việc phân cấp quản lí phải thật sự cụ thể, dựa trên các quy định của pháp luật.

Sự phân cấp quản lí là biện pháp đảm bảo tập trung, tránh cho cơ quan nhà nước ở
trung ương phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ, thuộc về chức trách của
các đơn vị ở địa phương cơ sở. Đồng thời sự phân cấp quản lí cũng là biện pháp để
phát huy tính chủ động sáng tạo, khả năng tiếm tàng của các cơ quan Nhà nước cấp
dưới, các địa phương, các cơ sở.
Ví dụ: Theo Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002, Nhà nước ta tiến hành phân cấp
quản lí ngân sách, thực hiện chế độ quản lí hai cấp ngân sách. Các tỉnh, huyện có
quyền quyết định các khoản thu, chi ngân sách trong địa bàn mình quản lí.
d. Sự hướng về cơ sở:
Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính Nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải
vật chất phục vụ nhân dân lao động.
Yếu tố tập trung: Nhà nước thực hiện các chính sách, các biện pháp để quản lí một

cách thống nhất tổ chức và hoạt động của các cơ sở
Yếu tố dân chủ: cơ quan hành chính Nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý
tập trung đối với các hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hoá xã hội trực thuộc.
Ví dụ: Các cơ sở kinh tế có quyền lựa chọn các loại hình kinh doanh mà Nhà nước
không cấm, được quản lí, đưa ra các chiếm lược kinh doanh, được tuyển chọn hoặc
cắt giảm lao động theo nhu cầu…
e. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương:

8


Sự phụ thuộc hai chiều được hiểu là các cơ quan hành chính (trừ cơ quan Trung
ương) phải chịu sự phụ thuộc vào hai hê thống cơ quan theo quan hệ phụ thuộc dọc
và quan hệ phụ thuộc ngang hay còn được goi là quan hệ "song trùng trực thuộc" .
Cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương (Uỷ
ban nhân dân) phụ thuộc vào cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp (Hội đồng
nhân dân) – quan hệ ngang, và phụ thuộc vào cơ quan quản lý hành chính Nhà
nước cấp trên ở cấp trực tiếp – quan hệ dọc.
Cơ quan quản lý hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở địa phương (sở,
phòng, ban) phụ thuộc cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung
cùng cấp (Uỷ ban nhân dân) – quan hệ ngang, và phụ thuộc vào cơ quan quản lý
hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên ở cấp trực tiếp (bộ) –
quan hệ dọc.
Mối quan hệ dọc: giúp cho cấp trên tập trung quyền lực để chỉ đạo, kiểm tra hoạt
động của cấp dưới.
Mối quan hệ ngang: tạo điều kiện cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế
mạnh ở địa phương để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính Nhà
nước:
Với bản chất là nhà nước chuyên chính vô sản, theo chế độ xã hội chủ nghĩa.

nguyên tắc tập trung - dân chủ đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong
quá trình thực hiện quản lý nhà nước, quản lí xã hội.
Trong quản lí hành chính thì nguyên tắc đó đảm bảo cho sự tập trung quyền lực
nhà nước vào chủ thể quản lí quản lí để điều hành , chỉ đạo việc thực hiện chính
sách, pháp luật một cách thống nhất, đồng thời nguyên tắc này đảm bảo việc mở
9


rộng quyền cho đối tượng quản lí nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động
quản lí, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực
hiện chính sách, pháp luật. Như vậy, mặc dù nguyên tắc tập trung dân chủ là một
nguyên tắc quản lí hành chính nhà nước mang tính chất chỉ đạo hoạt động nhận
thức và cải tạo xã hội nhưng khi vận dụng vào thực tế, nguyên tắc này đã giúp cho
công tác quản lí hành chính nhà nước đạt được những hiệu quả rất tốt trong việc
tăng hiệu quả hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
Nội dung của nguyên tắc này qui định những đặc điểm chung, mang tính quy
luật khách quan trong hoạt động của hệ thống quản lí xã hội chủ nghĩa. Đồng thời,
nó phản ánh sự thống nhất giữa cơ sở tư tưởng, chiến lược và tổ chức của xã hội
chủ nghĩa.
Không những vậy, Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định: “Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.
Điều đó cho thấy yếu tố “ dân chủ” là vô cùng cần thiết, sự thể hiện quyền làm
chủ của nhân dân là cốt lõi hình thành nên Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Qua đó, người dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình một cách hữu hiệu,
tạo nên một cơ chế đảm bảo cho quần chúng tích cực tham gia vào công tác quản lí
hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc áp dụng yếu tố dân chủ không
thể loại trừ trách nhiệm cá nhân, nghĩa là, dân chủ nhưng phải gắn với trách nhiệm
của từng cá nhân cụ thể, trong công việc nhất định, thời gian nhất định.

Đồng thời việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính
cũng tạo nên một sự thống nhất về ý chí trong việc quản lí hành chính nhà nước,
tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan, ngành khối trong toàn xã hội mà
vẫn bảo đảm để cho các địa phương trong nước có quyền tự do tương đối trong
việc định ra các hình thức phát triển khác nhau phù hợp với địa phương của mình.
Tạo nên một sức mạnh tổng thể cho đất nước.
10


III.KẾT LUẬN
Tập trung - dân chủ là nguyên tắc thể hiện bản chất phát triển của đất nước ta
theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động quản lý hành chính nhà nước và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lĩnh vực
này .
Việc tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng sáng suốt nguyên tắc tập trung - dân chủ
trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay góp phần nâng cao hiệu
quả quản lí, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời tạo dựng nền tảng
vững chắc cho sự phát triển bền vững của nước ta trong tiến trình xây dựng và bảo
vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb. Lao động.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giao trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2012.
3. Tạp chí khoa học pháp luật số 3/2004 về nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước.

11



4. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Trường ĐH Luật HN, Nxb CAND,
Hà Nội, 2008.
5. Trích dẫn trong Bàn về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước -ThS. Vũ Văn Nhiêm Giảng viên
Khoa Luật Hành chính, trường ĐH Luật TP. HCM .

12



×