Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.91 KB, 11 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong quản lí hành chính nhà nước, các nguyên tắc quản lí đóng một vai trò
quan trọng bao gồm các nguyên tắc chính trị xã hội và nguyên tắc tổ chức- kĩ
thuật. Các nguyên tắc chính trị xã hội là các nguyên tắc chung, được quán triệt
trong toàn bộ tổ chức và hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Trong đó
nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt thể hiện sâu
sắc bản chất giai cấp của nhà nước ta. Việc tìm hiểu một cách cụ thể nguyên tắc
này trong quản lí hành chính nhà nước la cần thiết. Trong bài viết này em xin
phân tích và nêu ra một số ý nghĩa của nó trong hoạt động quản lí hành chính nhà
nước.
II. NỘI DUNG.
1. Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt
động quản lí từ bản chất của chế độ được quy định trong pháp luật là nền tảng cho
tổ chức và hoạt động quản lí hành chính.
Nguyên tắc tập trung dân chủ bao gồm hai yếu tố cấu thành là tập trung và
dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quản lí, trước hết là sự lãnh
đạo tập trung, nhưng không phải là tập trung toàn diện và tuyệt đối. Dân chủ theo
nghĩa đơn giản là nhân dân làm chủ. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một vấn
đề có mối quan hệ biện chứng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn.
2. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước ở nước
ta hiện nay.
Trong quản lý hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền
lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách,
pháp luật một cách thống nhất. Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng
quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản
lí, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện
chính sách pháp luật. Cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ việc
1



đảm bảo cả hai yếu tố này trong quản lí hành chính nhà nước. Nếu chỉ có sự tập
trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho các hành vi lạm quyền,
tệ quan liêu, hách dịch,cửa quyền,tham nhũng phát triển. Ngược lại không óc sự
lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện,vô chính phủ, cục bộ
địa phương. Chúng có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát
triển trong quản lý hành chính nhà nước. Vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ,
đồng bộ giữa hai yếu tố này. Tập trung dân chủ thể hiện quan hệ trực thuộc, chịu
trách nhiệm và báo cáo của cơ quan quản lý trước cơ quan dân chủ; phân định
chức năng, thẩm quyền giữa cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm sự lãnh đạo tập
trung của cấp trên của trung ương và quyền chủ động của cấp dưới. Ngoài ra, đó
là hệ thống "song trùng trực thuộc" của nhiều cơ quan quản lý, bảo đảm sự kết
hợp tốt nhất sự lãnh đạo tập trung theo ngành với quyền quản lý tổng thể của địa
phương.Hơn nữa một điều không thể thiếu trong quản lí hành chính để đảm bảo
nguyên tắc tập trung dân chủ là có sự phân cấp rành mạch. Quyền lực nhà nước
không phải được ban phát từ cấp trên xuống cấp dưới. Sự phân quyền cho từng
cấp là cần thiết nhưng phải đồng thời được kết hợp với việc xác định vai trò của
từng cấp hành chính: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Từ khi ra đời, mỗi cấp đã có "sứ
mệnh lịch sử" và vai trò quản lý hành chính nhà nước riêng, đặc thù. Có những
chức năng được thực hiện ở cấp dưới lại có hiệu quả hơn cấp trên, hoặc có những
chức năng tất yếu phải được thực hiện ở cấp cơ sở. ví dụ. Hương ước không thể
được "lập ra" ở cấp huyện, vì một huyện có rất nhiều làng xã với những tập quán
và lối sống khác nhau. Như vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành
chính nhà nước có những biểu hiện như sau:
2.1 Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực
nhà nước cùng cấp.
Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định: Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông
qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
2



dân. Như vậy Hiến pháp đã ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ
quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt họ trực tiếp thực hiện
quyền lực đó. Để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, một hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung
ương đến địa phương đã được hình thành. Trong tổ chức và hoạt động các cơ
quan hành chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà
nước cùng cấp. Trước hết, cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất
định trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước
cùng cấp. Mối quan hệ giữa cơ quan hành chính và cơ quan quyền lực nhà nước
được biểu hiện ở sự lệ thuộc của Chính phủ và Quốc hội cũng như sự lệ thuộc của
UBND các cấp vào HĐND cùng cấp. Sự lệ thuộc này trước hết về mặt tổ chức: Ở
trung ương Quốc hội lập ra Chính phủ; Ở địa phương, các UBND do HĐND cùng
cấp bầu ra. Hiến pháp 1992 quy định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội…”, “UBND do HĐND bầu là cơ quan chấp hành của HĐND…”. Các cơ
quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước như bộ, cơ quan ngang
bộ,… đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp, hay gián tiếp quyết định việc
thành lập, thay đổi hay bãi bỏ. Trên cơ sở lệ thuộc về mặt tổ chức như vậy, để
đảm bảo cho hoạt động của cơ quan hành chính đúng pháp luật thì cơ quan quyền
lực nhà nước có quyền chỉ đạo, giám sát hoạt đông của các cơ quan hành chính
thông qua nhiều hình thức khác nhau theo quy của pháp luật như thông qua các
báo cáo hoạt động trong các kì họp trước cơ quan quyền lực. Tất cả sự phụ thuộc
nêu trên đều nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động.
Đồng thời đó chính là việc đảm bảo tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan
quyền lực nhà nước-cơ quan do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Việc đảm bảo yếu tố dân chủ trong mối quan hệ phụ thuộc này còn thể hiện ở việc
trao quyền cho các cơ quan hành chính ở trung ương cũng như địa phương, sự
3



trao quyền này để cho cơ quan hành chính chủ động thực hiện quyền hành pháp
của mình một cách chủ động sáng tạo trên cơ sở pháp luật. Các cơ quan quyền lực
nhà nước không can thiệp vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
mà tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để cơ quan này hoàn thành tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình là quản lí hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
2.2 Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung
ương.
Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để
chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Thiếu sự phục tùng
đó sẽ dẫn đến việc buông lỏng sự lãnh đạo, quản lí tập trung của trung ương và
cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Sự
phục tùng này biểu hiện ở cả hai phương diện tổ chức và hoạt động. Tất cả các
yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra cấp dưới và địa phương có
nghĩa vụ phải thực hiện.Theo Hiến pháp 1992 “Chính Phủ là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất”, các cơ quan dưới chính phủ phải phục tùng mệnh lệnh của
Chính phủ, hay nhân viên phải phục tùng mệnh lệnh của thủ trưởng. Tuy vậy, sự
phục tùng ở đây không phải là sự phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng
những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Đồng thời cấp trên,
trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ
chức, họat động và về các vấn đề khác của quản lí hành chính nhà nước; phải tạo
mọi điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm huy
động mọi khả năng về trí tuệ, lao động…để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Có như vậy mới khắc phục được tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính
chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới. Như vậy mối
quan hệ này đã thể hiện được yếu tố tập trung và dân chủ, mối quan hệ này thể
hiện ở sự phục tùng mang tính mệnh lệnh hành chính để đảm bảo sự tập trung
quyền hành pháp một cách thống nhất từ trung ương xuống địa phương.

4


2.3 Việc phân cấp quản lí
Phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới
nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lí hành
chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lí, đã có sự phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Mỗi cấp
quản lí có những mục tiêu, nhiệm vụ thẩm quyền và những phương tiện cần thiết
để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Phân cấp quản lí là một
biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc phân cấp quản lí đảm bảo được
những yêu cầu sau:
- Việc phân cấp quản lí phải đảm bảo cho trung ương có quyền quyết định trong
lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm bảo đảm sự phát
triển cân đối hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lí tập trung và thống nhất
của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
- Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính
chủ động sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh
sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.
Mạnh dạn phân cấp cho địa phương và cơ sở là biện pháp bảo đảm tập trung,
tránh cho trung ương và cấp trên phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ
thuộc về chức trách của địa phương và cơ sở.
- Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế
tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao
lại cho cấp dưới. Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại
việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên
không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả
như cấp dưới. Phân cấp quản lí giữa các cấp trong bộ máy quản lí hành chính nhà
nước là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải xem xét từ nhiều yếu tố và góc
độ khác nhau như: cơ sở kinh tế, xã hội, trình độ phát triển đồng đều về kinh tế,

5


kết cấu hạ tầng, giao thông, thông tin, liên lạc, các yếu tố về dân tộc, trình độ dân
trí, trình độ của đội nhũ cán bộ quản lí ở địa phương và cơ sở.... Hơn nữa sự phân
cấp phải có sự tính toán, chọn lọc một cách khoa học, phù hợp với quy luật nhất
là quy luật của nền kinh tế thị trường hiện nay. Do đó, việc ban hành các quyết
định về phân cấp quản lí cần phải có sự cân nhắc, tính toán kĩ lưỡng, hợp lí, tránh
đưa ra những quyết định mang tính chung chung tùy tiện, Tất cả các nội dung của
việc phân cấp quản lí bao giờ cũng được thể hiện trong các văn bản pháp luật của
các cấp có thẩm quyền. Hiện nay ở nước ta có ba thành phố thực hiện việc phân
cấp quản lí tốt đó là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nôi, Đà Nẵng.
2.4 Hướng về cơ sở
Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân
chủ trên cơ sở quản lí tập trung đối với hoạt động của toàn hệ thống các đơn vị
kinh tế, văn hóa –xã hội trực thuộc. Các đơn vị đó, trước hết là những tế bào của
nền kinh tế quốc dân, nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, được Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, đồng thời cũng được nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ về vật chất, tinh thần.
Các đơn vị văn hóa- xã hội của hệ thống các đơn vị cơ sở luôn được nhà nước
quan tâm, cung cấp những trang thiết bị cần thiết để hoạt động, giúp đỡ về vật
chất , tinh thần nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động
có hiệu quả. Song song với những việc làm nêu trên, Nhà nước cũng có các chính
sách biện pháp quản lí một cách thống nhất và chặt chẽ tổ chức và hoạt động của
hệ thống các đơn vị cơ sở để thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị kinh tế, văn
hóa xã hội này phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng của nhà nước.
Đây cũng chính là việc thực hiện “dân là gốc” trong hoạt động quản lí hành chính
nhà nước. Hướng về cơ sở được coi là sự đảm bảo rất quan trọng cho tính khả thi
của yếu tố dân chủ, một sự đảm bảo cả về phương diện pháp luật lẫn vật chất để
cho cơ sở thật sự phát huy được quyền dân chủ của mình, tránh căn bệnh dân chủ

hình thức.
6


2.5 Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng
trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ
thể. Ở địa phương, ủy ban nhân dân các cấp trước hết phụ thuộc vào hội đồng
nhân dân cùng cấp(mối phụ thuộc ngang). Đồng thời chúng còn phụ thuộc vào
các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp( mối
phụ thuộc dọc). Ðối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan
hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào
cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp. Mối
quan hệ phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ,
thế mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. Mối
quan hệ phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước để
chỉ đạo hoạt động của cấp dưới, tạo nên một hoạt động chung thống nhất. Nguyên
tắc phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhằm bảo
đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của cả nước với lợi ích của địa phương,
giữa lợi ích nghành với lợi ích lãnh thổ.
Trên đây là năm biểu hiện về nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong
hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Những biểu hiện này đã được vận dụng
vào việc tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở nước ta hơn 50 năm qua, nhìn
chung đã đạt được hiệu quả rõ rệt.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà
nước.
Như chúng ta đã biết nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và trong quản lí hành chính

nhà nước nói riêng. Đặc biệt nguyên tắc này có một ý nghĩa to lớn và quan trọng
trong lĩnh vực quản lí hành chính - một lĩnh vực phức tạp.
7


Trước hết việc vân dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt đông quản lí
hành chính nhà nước đã phần nào thể hiện được bản chất của nhà nước ta: quyền
lực thống nhất và nhân dân làm chủ khác hoàn toàn so với nhà nước phân quyền
của các nước tư sản. Nguyên tắc này hướng vào phục vụ lợi ích và quyền lợi của
người dân, vì dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ đã đảm bảo được sự thống nhất
trong tổ chức và hành động của cơ quan hành chính , phát huy đồng bộ và kết hợp
chặt chẽ sức mạnh của cả cơ quan hành chính trung ương lẫn cơ quan hành chính
ở địa phương, của cả hệ thống bộ máy hành chính và từng tổ chức cấu thành nó
trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ đã làm cho bộ máy hành pháp
hoạt động một cách có hiệu quả. Nó không chỉ bác bỏ tình trạng lạm quyền của
cấp dưới, mà cả thực tế của cấp trên “làm thay”, “lấn sân” vào thẩm quyền cơ
quan cấp dưới, đồng thời cũng phủ nhận việc cơ quan dưới ỷ lại, đùn đẩy công
việc cho cấp trên và khuyến khích cấp dưới tham gia vào việc giải quyết những
vấn đề chung thuộc thẩm quyền của cấp trên, đề xuất những kiến nghị hợp lí để
giải quyết chúng.
Xây dựng bộ máy hành chính hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả dựa trên
nguyên tắc tập trung dân chủ góp phần quan trọng trong hoạt động của các cơ
quan lập pháp và tư pháp bởi các cơ quan này có mối liên hệ với nhau. Thực hiện
tập trung dân chủ trong hoạt động quản lí hành chính tốt sẽ thúc đẩy cho sự phát
triển của đất nước và tạo lòng tin trong nhân dân làm nhân dân tích cực tham gia
vào hoạt đông xây dựng đất nước.
4. Thực trạng việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành
chính nhà nước và giải pháp
4.1. Thực trạng

Việc vận dụng nguyên tắc hành chính nhà nước vào việc tổ chức thực hiện
quyền hành pháp ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tốt góp
phần tích cực vào công cuộc cải cách hành chính nhà nước, làm hoàn thiện dần tổ
8


chức và hoạt động của các cơ quan hành chính.Tuy nhiên bên cạnh đó việc vận
dụng nguyên tắc tập trung dân chủ còn chưa đươc khoa học, khách quan, biện
chứng, việc vận dụng một cách ngộ nhận, hình thức nhiều lúc còn phản khoa học.
Điều này đã làm cho tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính vẫn còn tình
trạng vừa phân tán, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, vùa tập trung quan liêu, ôm
đồm quá mức. Hiệu lực quản lí điều hành cuả nhà nước chưa xuyên suốt, chưa tập
trung, thống nhất cao trong khi đó tính chủ động, năng động, ý thức trách nhiệm
của từng địa phương cũng chưa được phát huy đầy đủ. Khuynh hướng phân tán
địa phương diễn ra ở nhiều mức độ và biểu hiện như: không nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luập, nghị quyết , chỉ thị của cấp trên; lợi dụng những kẽ hở những chỗ
chưa đồng bộ của pháp luật của cơ chế chính sách để khai thác làm lợi cho ngành
địa phương mình làm tổn hại đến lợi ích chung; quy định của địa phương trái với
chính sách chung, có ngành ra thông tư trái với quy định của chính phủ…Mặt
khác khuynh hướng tập trung quan liêu vẫn tồn tại với những biểu hiện như: nhấn
mạnh vai trò quyền hành của cá nhân; của thủ trưởng, không tôn trọng sự lãnh
đạo của tập thể, cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cấp dưới; có những
thủ tục phiền hà, quan liêu, gây ra sự sách nhiễu tiêu cực đối với cấp dưới và công
dân, quản lí thiên về mệnh lệnh, hành chính, không biết sử dụng các đòn bẩy
kinh tế, nhẹ về giáo dục, thuyết phục…
Mặt khác hệ thống quy định của pháp luật chưa hoàn thiện, chưa thực sự thể hiện
được nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
4.2. Phương hướng và giải pháp
Để nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện quyền hành pháp
khi mà yếu tố dân chủ đang được xem như là mục tiêu, động lực của công cuộc

đổi mới hiện nay và cùng với việc xây dựng phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần (nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa) thì nguyên tắc tập
trung dân chủ cần phải nhìn ở nhiều góc độ mới hơn, khách quan, khoa học và
biện chứng hơn để quyền hành pháp thực sự là một nhánh quyền lực nhà nước.
9


Đòi hỏi nguyên tắc tập trung dân chủ trong giai đoạn hiện nay là cần phải có một
cách nhìn đúng bản chất của cơ cấu quyền lực để rồi từ đó có được hướng đổi mới
về cơ cấu tổ chức cơ quan hành chính ở trung ương và địa phương sao cho: Ở
trung ương thì tập trung phải đảm bảo được tính dân chủ; Ở địa phương thì dân
chủ phải đảm bảo được tính tập trung. Trong các điều kiện hiện nay, việc xây
dựng cơ cấu tổ chức hành chính theo hai hướng trên đòi hỏi phải có một tư duy
chính tri mới, phải xác định rõ mối quan hệ giữa trung ương với địa phương.
Trong công cuộc cải cách hành chính cần thiết phải vận dụng nguyên tắc tập trung
dân chủ ở những nôi dung:
- Cải cách hành chính hướng tới việc hình thành một chính phủ thực hiện đúng
chế độ làm việc và ban hành các văn bản pháp lí có chất lượng cao, thực hiện
đúng chế độ tập thể lãnh đạo và chế độ người đứng đầu hành chính.
- Trong tiến trình cải cách, một mặt giữ vững quyền tập trung quản lí những vấn
đề cơ bản trong tay nhà nước ở trung ương(chính phủ, các bộ) mặt khác phải phát
huy dân chủ một cách mạnh mẽ cho cấp dưới bằng cách giao đầy đủ quyền và
trách nhiệm giải quyết cho cấp nào, nơi nào có điều kiện thực hiện tốt nhất. Nghĩa
là giao cho các cấp các nghành quyền chủ động sáng tạo và linh hoạt, phát huy
trách nhiệm và tính năng động.
- Tăng cường dân chủ trên cơ sở ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
III. KẾT LUẬN
Như vậy từ sự phân tích trên ta thấy tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung
dân chủ trong bộ máy nhà nước nói chung và hoạt động quản lí hành chính nói
riêng. Việc xây dựng và hoàn thiện hoạt động quản lí hành chính dựa trên cơ sở

nguyên tắc tập trung dân chủ là thực sự cần thiết góp phần vào sự phát triển của
đất nước theo định hướng mà nhà nước ta đã đưa ra.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hành chính việt nam
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội - 2012
2. Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam- TS Nguyễn Ngọc
Định
Nxb. Chính trị quốc gia.
3. Sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lí nhà nước
Nxb. Khoa học xã hội
4. Cải cách bộ máy hành chính cấp trung ương trong công cuộc đổi mới hiện nay
ở nước ta- TS Lê Sỹ Dược
Nxb. Chính trị quốc gia.
5. Hội thảo khoa học: luật hành chính Việt Nam- những vấn đề lí luận và thực
tiễn.
6. Tạp chí khoa học pháp lí số 3/2004.

11



×