KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.2.1. Khái niệm năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã
Muốn hiểu rõ khái niệm năng lực quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã
trước hết phải tìm hiểu một số khái niệm như sau:
Thứ nhất, khái niệm năng lực.
Năng lực được con người sử dụng ở nhiều phương diện như: Năng lực công tác,
năng lực sản xuất, năng lực quản lý điều hành....
- Theo cuốn Gốc và nghĩa của từ tiếng Việt thông dụng thì năng lực được chia làm
hai vế: Năng là làm nổi việc; lực là sức mạnh. Năng lực được hiểu là sức mạnh có thể
làm nổi việc.
- Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng Nxb giáo dục ấn hành thì năng lực được hiểu
là "khả năng làm việc tốt".
- Theo đại từ điển Tiếng Việt Nxb văn hoá thông tin: Hiểu theo hai nghĩa: 1. Năng
lực là những điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì. Ví dụ: Năng lực tư duy của
con người; 2. Năng lực là khả năng để thực hiện tốt một công việc. Ví dụ: Có năng lực
chuyên môn, năng lực tổ chức.
Tóm lại, năng lực là khả năng của con người để thực hiện tốt công việc hay làm
việc có hiệu quả cao.
Thứ hai, khái niệm quản lý nhà nước.
Các Mác đã viết "quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của
quá trình lao động" [44, tr.29, 30]. Nhấn mạnh nội dung trên ông chỉ rõ:
Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến
hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo
để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng
chung... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một
dàn nhạc thì phải cần phải có nhạc trưởng [45, tr.480].
Theo điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá
trình, căn cứ vào những quy định, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống
hay quy trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục
đích đã định trước.
Theo giáo trình Nhà nước và pháp luật, quản lý hành chính nhà nước của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì: Quản lý trong xã hội nói chung là quá trình tổ chức,
điều hành các hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên
những quy luật khách quan.
Quản lý nhà nước là sự tác động, tổ chức, điều chỉnh mang tính quyền lực Nhà
nước, thông qua hoạt động của bộ máy Nhà nước bằng phương tiện, công cụ, cách thức
tác động của Nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội theo đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
Quản lý nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy
Nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động tổ chức của quyền lực Nhà nước trên các
phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu này, quản lý nhà nước được
đặt trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ".
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành trong hệ
thống các cơ quan hành chính Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động của
con người theo pháp luật, nhằm đạt được những mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ quản lý nhà
nước. Đồng thời, các cơ quan Nhà nước nói chung cần thực hiện các hoạt động có tính
chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính Nhà nước nhằm xây dựng, tổ chức bộ
máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình.
* Đặc điểm của quản lý nhà nước:
+ Luôn mang tính quyền lực Nhà nước, tính tổ chức cao;
+ Là hoạt động có mục tiêu rõ ràng, có chiến lược và kế hoạch để thực hiện mục
tiêu;
+ Là hoạt động có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong thực tiễn điều hành,
quản lý;
+ Có tính liên tục và ổn định trong tổ chức và hoạt động trong quản lý hành chính
Nhà nước;
+ Có tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao;
+ Có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ, là hệ thống thông suốt từ trên xuống dưới;
+ Không có sự cách biệt về mặt xã hội giữa chủ thể và khách thể quản lý;
+ Phương thức thực hiện chủ yếu là hành chính, tuyên truyền, vận động và thuyết
phục;
+ Không vụ lợi;
+ Mang tính nhân đạo.
* Các nội dung quản lý nhà nước ở chính quyền cấp xã, bao gồm:
+ Quản lý hành chính Nhà nước ở cấp xã;
+ Quản lý nhà nước về kinh tế - tài chính;
+ Quản lý nhà nước về văn hoá - xã hội;
+ Quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội;
+ Quản lý nhà nước về tư pháp - hộ tịch;
+ Quản lý nhà nước về đất đai, địa giới hành chính;
+ Quản lý nhà nước về dân tộc, tôn giáo;
+ Quản lý nhà nước về xây dựng, giao thông vận tải và môi trường.
Khái niệm: Năng lực quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã là khả năng
của CBCC tiến hành quá trình tổ chức, điều hành chính quyền cấp xã thực hiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phòng ở cơ sở nhằm bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý cao.
* Theo mục đích và tích chất công việc có thể phân loại năng lực quản lý nhà nước
của CBCC chính quyền cấp xã như sau:
- Năng lực lãnh đạo quản lý;
- Năng lực hành chính - tổ chức;
- Năng lực quản lý kinh tế;
- Năng lực quản lý ngân sách - tài chính;
- Năng lực quản lý địa chính;
- Năng lực quản lý tư pháp - hộ tịch;
- Năng lực quản lý văn hoá - xã hội, y tế, giáo dục;
- Năng lực quản lý an ninh quốc phòng.
1.2.2. Đặc điểm năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã
Xuất phát từ chức trách nhiệm vụ của CBCC chính quyền cấp xã, năng lực quản lý nhà
nước của CBCC chính quyền cấp xã thể hiện ở những điểm sau đây:
- Năng lực của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã thể hiện:
+ Năng lực triệu tập, chủ toạ các kỳ họp, năng lực chủ trì tham gia xây dựng nghị
quyết, năng lực giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của HĐND.
+ Năng lực tiếp xúc cử tri, lấy ý kiến cử tri, tổ chức tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra việc
giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
+ Năng lực quan hệ với đại biểu HĐND và phối hợp công tác với Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, năng lực báo cáo công tác với các cơ quan hữu quan.
+ Năng lực chủ trì và phối hợp với UBND trong việc quyết định đưa ra bãi nhiệm
đại biểu HĐND theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
- Năng lực của Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã thể hiện:
+ Năng lực triệu tập, chủ toạ các phiên họp UBND, năng lực quyết định các vấn đề
thuộc thẩm quyền của Chủ tịch, Phó Chủ tịch, tham gia quyết định các vấn đề thuộc thẩm
quyền của UBND, năng lực tổ chức chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách,
pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên, Nghị quyết của HĐND và các quyết định của
UBND cấp xã.
+ Năng lực tiếp dân, xét và giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân,
năng lực giải quyết và trả lời các kiến nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể ở xã, phường, thị trấn.
+ Năng lực áp dụng các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, quản lý và điều hành bộ
máy hành chính ở cơ sở; năng lực trực tiếp quản lý, chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ
theo quy định của pháp luật. Năng lực báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp và UBND
cấp trên.
+ Năng lực tổ chức quản lý, điều hành hoạt động của trưởng, phó thôn, tổ dân phố
theo quy định của pháp luật.
- Năng lực của công chức Tài chính - Kế toán:
+ Năng lực xây dựng, thực hiện dự toán thu, chi ngân sách, quyết toán ngân sách,
kiểm tra hoạt động tài chính khác của xã.
+ Năng lực thực hiện việc quản lý các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, tài sản công
tại xã.
+ Năng lực tham mưu cho UBND trong khai thác nguồn thu, thực hiện các hoạt
động tài chính ngân sách đúng quy định của pháp luật.
+ Năng lực kiểm tra các hoạt động tài chính, ngân sách, năng lực thực hiện chi tiền
theo lệnh chi: Thực hiện theo quy định về quản lý quỹ tiền mặt và giao dịch với kho bạc
Nhà nước.
+ Năng lực báo cáo tài chính, ngân sách.
- Năng lực của công chức Tư pháp - Hộ tịch:
+ Năng lực giúp UBND cấp xã soạn thảo ban hành văn bản quản lý; lấy ý kiến
nhân dân đối với dự án luật, pháp lệnh; năng lực phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân
dân xã, phường, thị trấn.
+ Năng lực giúp UBND cấp xã chỉ đạo cộng đồng dân cư tự quản xây dựng hương
ước, quy ước, kiểm tra việc thực hiện hương ước, quy ước; thực hiện trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và đối tượng chính sách, quản lý tủ sách pháp luật, tổ chức phục vụ nhân
dân nghiên cứu pháp luật, phối hợp hướng dẫn hoạt động đối với tổ hoà giải.
+ Năng lực thực hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch, thực hiện chứng thực, và
thực hiện một số công việc về quốc tịch theo quy định của pháp luật.
+ Năng lực quản lý lý lịch tư pháp, thống kê tư pháp, thi hành biện pháp giáo dục
tại xã theo sự phân công.
+ Năng lực giúp UBND xã về công tác thi hành án theo nhiệm vụ cụ thể được phân
cấp.
+ Năng lực giúp UBND cấp xã thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm về quyền sử
dụng đất, bất động sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
+ Năng lực quản lý hồ sơ tài liệu, chế độ báo cáo công tác theo quy định. Năng lực
thực hiện các nhiệm vụ tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
- Năng lực của công chức Địa chính - Xây dựng:
+ Năng lực lập và quản lý hồ sơ địa chính ở xã, phường, thị trấn.
+ Năng lực giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến đất đai theo quy định
của pháp luật.
+ Năng lực tham gia xây dựng và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch; kế hoạch sử
dụng đất ở xã, phường, thị trấn; tiến hành kiểm kê, thống kê đất đai ở xã, phường, thị
trấn. Năng lực tuyên truyền, phổ biến về chính sách pháp luật, đất đai cho nhân dân ở xã,
phường, thị trấn.
+ Năng lực hoà giải tranh chấp đất đai, tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của dân
về đất đai để giúp UBND cấp có thẩm quyền giải quyết; năng lực kiểm tra phát hiện các
trường hợp vi phạm pháp luật đất đai để kiến nghị UBND cấp xã xử lý.
+ Năng lực phối hợp với các cơ quan chuyên môn cấp trên trong việc đo đạc, lập
bản đồ địa chính, bản đồ địa giới hành chính, giải phóng mặt bằng.
+ Năng lực tham mưu cho UBND cấp xã quản lý công tác xây dựng, giám sát về kỹ
thuật trong việc xây dựng các công trình phúc lợi ở địa phương.
- Năng lực của công chức Văn phòng - Thống kê:
+ Năng lực giúp UBND cấp xã xây dựng chương trình công tác, lịch làm việc và
theo dõi việc thực hiện chương trình, lịch làm việc đó; năng lực tổng hợp báo cáo tình
hình kinh tế - xã hội, tham mưu giúp UBND trong chỉ đạo thực hiện.
+ Năng lực soạn thảo văn bản.
+ Năng lực quản lý văn bản, lập hồ sơ lưu trữ, lập biểu báo cáo thống kê, theo dõi
biến động số lượng, chất lượng CBCC cấp xã.
+ Năng lực giúp HĐND tổ chức kỳ họp, năng lực giúp UBND tổ chức tiếp dân, tiếp
khách, nhận đơn từ khiếu nại của nhân dân chuyển đến HĐND và UBND hoặc lên cấp có
thẩm quyền giải quyết.
+ Năng lực đảm bảo điều kiện vật chất phục vụ cho các kỳ họp của HĐND, cho
công việc của UBND.
+ Năng lực nhận và trả kết quả trong giao dịch công việc giữa UBND với cơ quan,
tổ chức và công dân theo cơ chế "một cửa".
- Năng lực của công chức Văn hoá - Xã hội:
+ Năng lực lập chương trình, kế hoạch công tác văn hoá, nghệ thuật, thông tin
tuyên truyền, thể dục thể thao, công tác lao động thương binh xã hội và năng lực tổ chức
thực hiện chương trình kế hoạch đó.
+ Năng lực tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương và đấu tranh chống âm mưu tuyên
truyền phá hoại của địch, báo cáo thông tin về dư luận quần chúng và tình hình môi
trường văn hoá ở địa phương lên Chủ tịch UBND cấp xã.
+ Năng lực tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, văn hoá nghệ thuật, xây dựng
nếp sống văn minh, gia đình văn hoá.
+ Năng lực thông tin dân số, lao động, tình hình việc làm, ngành nghề trên địa bàn,
số lượng người hưởng chính sách lao động - thương binh - xã hội.
+ Năng lực theo dõi và đôn đốc việc chi trả trợ cấp cho người hưởng chính sách lao
động - thương binh - xã hội.
+ Năng lực theo dõi thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.
+ Năng lực báo cáo công tác văn hoá, văn nghệ, thông tin tuyên truyền, thể dục thể
thao, công tác lao động - thương binh xã hội ở xã, phường, thị trấn.
- Năng lực của công chức Trưởng công an xã:
+ Năng lực tổ chức lực lượng công an xã, nắm chắc tình hình an ninh trật tự trên
địa bàn; tham mưu đề xuất về chủ trương, kế hoạch, biện pháp bảo đảm an ninh trật tự
trên địa bàn và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có thầm quyền phê duyệt.
+ Năng lực phối hợp với cơ quan, đoàn thể, tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên
quan đến an ninh trật tự cho nhân dân, hướng dẫn tổ chức quần chúng làm công tác an
ninh trật tự trên địa bàn quản lý.
+ Năng lực tổ chức phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội
và xử lý các vi phạm pháp luật khác trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
+ Năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ phòng cháy, chữa cháy, giữ gìn trật tự công
cộng và an toàn giao thông, quản lý vũ khí, chất nổ, chất dễ cháy, quản lý hộ khẩu, kiểm
tra các quy định về an ninh trật tự trên địa bàn theo thẩm quyền.
+ Năng lực xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật; tổ chức việc quản lý, giáo
dục đối tượng trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
+ Năng lực bảo vệ hiện trường, bắt người phạm tội quả tang, tổ chức bắt có lệnh
truy nã, tiếp nhận và dẫn giải người bị bắt lên công an cấp trên, cấp cứu người bị nạn.
+ Năng lực bảo vệ mục tiêu quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng ở
địa bàn theo hướng dẫn của công an cấp trên.
+ Năng lực xây dựng nội bộ lực lượng công an xã, trong sạch, vững mạnh và thực
hiện một số nhiệm vụ khác do cấp uỷ Đảng, UBND xã, công an cấp trên giao.
- Năng lực của công chức Chỉ huy trưởng quân sự:
+ Năng lực tham mưu đề xuất về chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo và trực
tiếp tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, xây dựng lực lượng dân quân, lực
lượng dự bị động viên. Xây dựng kế hoạch và phối hợp với các đoàn thể triển khai thực
hiện các nhiệm vụ liên quan tới công tác quốc phòng, quân sự trên địa bàn.
+ Năng lực chỉ đạo dân quân phối hợp với công an và lực lượng khác thường xuyên
hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, sẵn sàng chiến đấu, phục vụ công tác và tổ chức khắc
phục thiên tai, sơ tán, cứu hộ, cứu nạn.
+ Năng lực phối hợp với các đoàn thể giáo dục toàn dân ý thức quốc phòng, quân
sự và các vi phạm pháp luật liên quan tới quốc phòng, quân sự.
+ Năng lực phối hợp với các tổ chức kinh tế, văn hoá và xã hội thực hiện nền quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
+ Năng lực thực hiện chính sách hậu phương quân đội, các tiêu chuẩn, chế độ,
chính sách cho dân quân tự vệ, quân nhân dự bị theo quy định.
+ Năng lực tổ chức thực hiện nghiêm chế độ quản lý sử dụng, bảo quản vũ khí
trang bị, sẵn sàng chiến đấu; quản lý công trình quốc phòng theo phân cấp, thực hiện chế
độ kiểm tra, báo cáo, sơ kết, tổng kết công tác quốc phòng, quân sự ở xã, phường, thị
trấn.
1.2.3. Các tiêu chí đánh giá năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã
Các tiêu chí cơ bản đánh giá năng lực quản lý nhà nước của CBCC chính quyền
cấp xã bao gồm: Phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, kỹ năng và phương pháp quản lý
nhà nước.
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị.
Phẩm chất chính trị là tiêu chí quan trọng nhất, quyết định đến năng lực quản lý nhà
nước của cán bộ, công chức. Phẩm chất chính trị là động lực tinh thần thúc đẩy cán bộ
các cấp vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao hay nói cách khác là hoàn
thành nhiệm vụ với hiệu quả cao nhất. Phẩm chất chính trị cũng chính là yêu cầu cơ bản
nhất đối với người cán bộ.
Phẩm chất chính trị là lòng nhiệt tình cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối với lý
tưởng của Đảng, với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần tận tuỵ
với công việc, hết lòng hết sức vì sự nghiệp của nhân dân; là bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định với mục tiêu và con đường đi lên CNXH.
Phẩm chất chính trị đòi hỏi người cán bộ, công chức phải thấm nhuần chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, có tinh thần cương quyết đấu tranh chống lại các hiện
tượng lệch lạc, những biểu hiện mơ hồ, sai trái đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước và các hành vi xâm phạm quyền lợi chính đáng của
nhân dân.
Người cán bộ, công chức chính quyền cấp xã có phẩm chất chính trị tốt là người
tích cực tuyên truyền, vận động gia đình, bà con nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Là người luôn luôn trăn trở
băn khoăn và tìm cách tháo gỡ những khó khăn ở cơ sở, từng bước nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân. Người có phẩm chất chính trị tốt là người một lòng
phục vụ Nhà nước, phục vụ nhân dân.
Thứ hai, về đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng là nền tảng, là gốc, là sức mạnh của người CBCC, Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng dạy: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn; cây phải có gốc không có gốc thì cây héo; người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng, không có đạo đức thì có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân " [48, tr
252-253]; "sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng".
CBCC chính quyền cấp xã là người trực tiếp làm việc và sinh hoạt cùng với người
dân. Cho nên đạo đức của người CBCC sẽ có tác động rất lớn đối với người dân, có ảnh
hưởng rất lớn đối với hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã. Nếu người
CBCC có đầy đủ các phẩm chất "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" thì nhân dân sẽ
tin tưởng họ, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, từ đó nhân dân tự giác thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ngược lại, nếu người
CBCC không có đủ các phẩm chất trên thì họ sẽ bị mất niềm tin của nhân dân, ảnh hưởng
đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng, họ trở thành "sâu mọt của dân".
Người CBCC chính quyền cấp xã chỉ tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách
thôi chưa đủ mà họ phải là người tiền phong gương mẫu trong việc chấp hành đường lối,
chủ trương, chính sách đó, họ phải "nói đi đôi với làm", họ phải là tấm gương sáng để
nhân dân noi theo như Bác Hồ đã dạy "Một tấm gương sáng còn giá trị hơn một triệu bài
diễn văn tuyên truyền".
Người CBCC có đạo đức cách mạng là người phải tích cực đấu tranh chống lại các
tiêu cực của xã hội như: Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tha hoá, sa sút về đạo đức lối
sống chạy theo địa vị danh lợi, tranh giành kèn cựa lẫn nhau mất đoàn kết nội bộ, dối trá,
lười biếng, suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng...
Người CBCC chính quyền cấp xã muốn được dân tin yêu (nói dân nghe, làm dân
tin) thì phải thường xuyên rèn luyện tu dưỡng đạo đức trong mọi lúc, mọi nơi như Bác
Hồ đã từng khuyên "đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong" [51, tr.293].
Thứ ba, về trình độ (trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, trình độ quản lý hành chính nhà nước).
- Trình độ học vấn (trình độ văn hoá) không phải là yếu tố duy nhất quyết định
hiệu quả hoạt động của CBCC cơ sở nhưng đây là tiêu chí quan trọng ảnh hưởng đến hoạt
động quản lý trong đội ngũ này. Nó là nền tảng cho việc nhận thức, tiếp thu đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; là tiền đề tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật vào trong cuộc sống. Hạn chế về trình độ
học vấn sẽ hạn chế về khả năng nhận thức và năng lực tổ chức thực hiện các chủ trương,
chính sách, các quy định của pháp luật, cản trở việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
CBCC chính quyền cấp xã. Do đó, trình độ học vấn là tiêu chí quan trọng để đánh giá
năng lực quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã.
- Trình độ lý luận chính trị: Lý luận chính trị là cơ sở xác định quan điểm, lập
trường giai cấp công nhân của CBCC nói chung và CBCC chính quyền cấp xã nói riêng.
Thực tế cho thấy nếu CBCC có lập trường chính trị vững vàng, hoạt động vì mục tiêu, lý
tưởng cách mạng thì sẽ được nhân dân kính trọng, tin yêu và họ sẽ vận động được nhân
dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước. Ngược lại, nếu CBCC nào lập trường chính trị không vững vàng, hoạt động
vì lợi ích cá nhân, thoái hoá, biến chất sẽ đánh mất lòng tin ở nhân dân dẫn đến hiệu quả
quản lý nhà nước thấp. Vì vậy, để nâng cao năng lực quản lý nhà nước thì cần thiết phải
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho CBCC chính quyền cấp xã.
- Trình độ quản lý nhà nước: quản lý nhà nước là hệ thống tri thức khoa học về
quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước. Đó là những kiến thức đòi hỏi các nhà
quản lý phải có, để giải quyết các vụ việc cụ thể đặt ra trong quá trình điều hành, quản lý.
Quản lý vừa là hoạt động khoa học, vừa là hoạt động nghệ thuật, cho nên yêu cầu các
CBCC phải am hiểu sâu sắc về kiến thức quản lý và phải vận dụng linh hoạt các kiến
thức đó vào giải quyết những vụ việc cụ thể. Thực tế cho thấy trong quá trình quản lý chỉ
dựa vào kinh nghiệm thôi chưa đủ mà phải được trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng
quản lý nhà nước, để qua đó nâng cao năng lực quản lý nhà nước. Hiện nay hạn chế lớn
nhất của CBCC chính quyền cấp xã là trình độ quản lý nhà nước, để nâng cao năng lực
quản lý nhà nước thì cần phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước cho CBCC chính quyền cấp xã.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ được hiểu là
những kiến thức chuyên sâu về một lĩnh vực nhất định được biểu hiện qua những cấp độ :
Sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học. Đây là những kiến thức mà CBCC chính quyền cấp
xã không được thiếu khi giải quyết công việc của mình. Nếu thiếu kiến thức này thì
CBCC sẽ lúng túng trong việc giải quyết công việc, chắc chắn sẽ khó hoàn thành công
việc, hiệu quả quản lý nhà nước sẽ thấp.
Thứ tư, về kỹ năng quản lý nhà nước.
Kỹ năng quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã là khả năng vận dụng
khéo léo, thành thạo những kiến thức và kinh nghiệm vào thực hiện chức trách, nhiệm vụ
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực ở cơ sở:
Kỹ năng quản lý nhà nước bao gồm: Kỹ năng xây dựng và tổ chức thực hiện
chương trình, kế hoạch cấp xã. Kỹ năng tổ chức kỳ họp và ra nghị quyết của HĐND cấp
xã; kỹ năng tổ chức và điều hành hoạt động của UBND cấp xã: Kỹ năng tuyên truyền,
phổ biến pháp luật, thi hành và áp dụng pháp luật trong quản lý nhà nước; kỹ năng lập và
quản lý thực hiện dự án cấp xã; kỹ năng tổ chức kiểm tra hành chính, xử phạt và cưỡng
chế hành chính ở cấp xã; kỹ năng phát hiện, xử lý tình huống phát sinh trên địa bàn cấp
xã; kỹ năng soạn thảo văn bản ở cấp xã, kỹ năng nghiệp vụ văn phòng và thống kê cấp
xã; kỹ năng phối hợp và chỉ đạo trưởng thôn, bản trong việc thực hiện một số nhiệm vụ
của chính quyền cấp xã, kỹ năng ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý nhà nước ở
cấp xã... Nếu kỹ năng quản lý nhà nước trong CBCC chính quyền cấp xã không tốt thì
giải quyết công việc mất rất nhiều thời gian và hiệu quả quản lý nhà nước thấp; nếu kỹ
năng quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã tốt, thì họ sẽ giải quyết công việc
nhanh chóng và hiệu quả quản lý nhà nước sẽ cao.
Thứ năm, về phương pháp quản lý nhà nước.
Phương pháp quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã là cách thức mà
CBCC chính quyền cấp xã sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước
trên các lĩnh vực ở cơ sở có hiệu quả cao.
Các phương pháp quản lý nhà nước được chia làm 2 nhóm:
Nhóm thứ nhất: Các phương pháp chủ yếu của khoa học quản lý gồm: Phương
pháp giáo dục tư tưởng, đạo đức XHCN; phương pháp tổ chức; phương pháp kinh tế ;
phương pháp hành chính.
Nhóm thứ hai: Các phương pháp của các môn khoa học khác được sử dụng trong
quản lý nhà nước gồm: phương pháp kế hoạch hoá; phương pháp thống kê; phương pháp
tâm lý- xã hội học; phương pháp toán học; phương pháp sinh lý học.
Nếu CBCC chính quyền cấp xã có phương pháp quản lý nhà nước tốt thì công việc
được giải quyết nhanh chóng, được nhân dân đồng tình ủng hộ, hiệu quả quản lý nhà
nước cao; ngược lại nếu CBCC chính quyền cấp xã không có phương pháp quản lý nhà
nước tốt thì công việc bị ứ đọng, làm phát sinh mâu thuẫn trong nhân dân, hiệu quả quản
lý nhà nước thấp.
Ngoài ra, còn có các yêu tố như: Sức khoẻ, tác phong làm việc, kiến thức thực tế...
cũng có ảnh hưởng tới năng lực quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã.