Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH CHĂM PA SẮC, CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.92 KB, 92 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
……../……..

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
…..……../………...

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

KẸO THONG KHUN PHAY VĂN

TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
Ở TỈNH CHĂMPASẮC, CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN VĂN THẠC SỸ HÀNH CHÍNH CÔNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH-2013


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mục tiêu phát triển của con người, địa phương, quốc gia, dân tộc có
nhiều điểm khác nhau và có nhiều mục tiêu. Song mục tiêu chung nhất, cơ
bản nhất, trước nhất để đạt các mục tiêu còn lại là con người cần phải được
đáp ứng những điều kiện cơ bản nhất của sự sống là ăn, mặc, ở. Những điều
kiện cơ bản của sự sống con người này liên quan trực tiếp và chủ yếu đến vấn


đề đói nghèo.
Vấn đề đói nghèo là vấn đề toàn cầu, không một quốc gia nào không
phải đối mặt giải quyết nó. Đói nghèo liên quan trực tiếp đến trình độ phát
triển kinh tế-xã hội, chính trị, văn hóa, tiến bộ xã hội. Nó đã và đang diễn ra
khắp nơi và còn tiếp tục diễn ra nữa, khi mà loài người còn phải đối mặt với
sự phát triển không công bằng, khoảng cách giàu nghèo giữa các bộ phận dân
cư, quốc gia có xu hướng ngày càng chênh lệch lớn, sự suy cạn về môi trường
sống…
Đói nghèo diễn ra ngoài sự kiểm soát của nhà nước, tất yếu dẫn đến đời
sống nhân dân bị đảo lộn, vai trò nhà nước mất đi, an ninh trật tự xã hội bất
ổn, nhất là an ninh chính trị bị đe dọa nguy hiểm, chế độ nhà nước bị lung lay,
cùng hàng loạt hậu quả khó lường khác. Nó vừa là vấn đề kinh tế và vừa là
vấn đề xã hội, chính trị, an ninh. Cho nên đẩy mạnh giải quyết giảm nghèo,
từng bước xóa đói, giảm nghèo là vấn đề của mọi quốc gia, nhà nước, nhất là
ở những nước, địa phương kém và đang phát triển. Thực hiện tốt công tác xóa
đói, giảm nghèo sẽ thúc đẩy kinh tế-xã hội, khoa học, công nghệ phát triển; ổn
định an ninh chính trị, quốc phòng; vai trò nhà nước càng được tăng cường;
uy tín Đảng, Nhà nước được nâng lên, khẳng định vị thế đất nước trên trường
quốc tế.


3

Đất nước Lào là quốc gia đang phát triển, trình độ kinh tế-xã hội còn
thấp kém, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, lạc hậu. Đất nước có diện
tích nhỏ, tài nguyên thiên nhiên ít, địa hình chủ yếu miền núi, không có biển,
đa dân tộc, phần lớn là các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, miền
núi, khu vực biên giới, cùng nhiều khó khăn khác. Chính vì vậy, công tác xóa
đói giảm nghèo luôn là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội Lào cùng thực hiện mạnh mẽ trong mọi chặng đường

cách mạng, có vị trí chiến lược quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của
đất nước Lào.
Công tác thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở Lào nói chung, tỉnh
Chămpasắc nói riêng bên cạnh những kết quả đạt được có ý nghĩa to lớn đối
với sự nghiệp cách mạng, còn có phần chưa vững chắc, chưa có mô hình căn
cơ, tối ưu đối với nhiều địa phương; đặc biệt là chưa phù hợp với đặc điểm
phát triển của từng địa phương; nhiều chính sách đưa ra nhiều bất cập, nhận
thức cán bộ có nơi yếu kém nên vận dụng các giải pháp chưa triệt để.
Vì những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài luận văn: “Tăng cường
quản lý nhà nước về xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Chămpasắc, Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào” là vấn đề có ý nghĩa cấp bách, thiết thực, lý luận và thực
tiễn cao.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do tầm quan trọng cơ bản, phổ biến của công tác xóa đói, giảm nghèo
đối với sự phát triển kinh tế-xã hội nên ở nhiều nơi, nhiều nước đã có các
công trình nghiên cứu về công tác này. Tuy nhiên bên cạnh những đóng góp
to lớn của các công trình nghiên cứu của một số tác giả về vấn đề này, còn
chứa đựng nhiều khía cạnh, phương diện cần phải giải quyết tiếp tục, nhất là
tập trung nghiên cứu tìm ra giải pháp cụ thể phù hợp với từng địa phương.
Đặc biệt, đến nay tác giả chưa thấy công trình nào nghiên cứu cụ thể về tăng


4

cường quản lý nhà nước về xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Chămpasắc, Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào.
Một số công trình nghiên cứu có liên quan đến công tác xóa đói giảm
nghèo có thể thấy cụ thể như sau:
Ở Việt Nam gồm có:
- Báo cáo phát triển của Việt Nam (2001), Tấn công nghèo đói;

- Báo cáo phát triển của Việt Nam (2002), Thực hiện cải cách để tăng
trưởng và giảm nghèo nhanh hơn;
- Báo cáo phát triển của Việt Nam (2004), Nghèo;
- ThS. Lương Văn Quang (2005), Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn xóa
đói giảm nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh;
- ThS. Nguyễn Cảnh (2007), Hoạch định chính sách công trong quá trình
xây dựng mô hình nông thôn mới;
- TS. Nguyễn Thị Phương Thủy, Chính sách dân tộc ở Việt Nam;
- PGS. Nguyễn Văn Bách, PGS. Chu Tiến Quang, Phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam,
Nhà xuất bản Nông nghiệp;
- Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở vùng nông
thôn nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- ThS. Trịnh Diệu Bình (2007), Định canh, định cư với xóa đói giảm
nghèo ở Hà Giang;
- ThS. Đỗ Thế Hạnh (1999), Thực trạng và giải pháp nhằm xóa đói giảm
nghèo ở vùng định canh, định cư tỉnh Thanh Hóa;
- Luận án tiến sỹ kinh tế của Trần Thị Hằng (2001), Vấn đề giảm nghèo
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh;


5

- Luận văn thạc sỹ kinh tế của Bùi Thị Lý (2000), Vấn đề xóa đói giảm
nghèo ở Phú Thọ hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
Các tác giả trên chỉ luận bàn về nội dung xóa đói giảm nghèo ở Việt
Nam nói chung hoặc một vài giải pháp cho một số địa phương cụ thể. Tác giả
nhận thấy chưa có tác giả Việt Nam nào nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo ở
Lào nói chung và ở tỉnh Chămpasắc nói riêng.

Một số công trình của các nhà nghiên cứu tại Lào:
- Ths. Xổm Phít Coong Sắp (2007), Chính sách xóa đói giảm nghèo ở
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (trong quá trình khảo sát ở tỉnh Xay Nha
Buly);
- Luận văn thạc sỹ Hành chính công của Si Kẹo Sen Phan Khăm (2010),
Quản lý nhà nước về công tác xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Luông Nậm Thà,
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào-Thực trạng và giải pháp, Học viện
Hành chính.
Tuy nhiên do đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Luông Nậm
Thà và tỉnh Chămpasắc có điểm khác biệt nhau.
Ngoài ra còn có một số văn bản, nghị quyết của một số cơ quan quản lý
nhà nước mang tính là những báo cáo tập hợp các số liệu thống kê về công tác
xóa đói giảm nghèo như:
- Nghị quyết Đại hội VIII (2006), Ban Chấp hành Trung ương Đảng
nhân dân Cách mạng Lào;
- Nghị quyết Đại hội IX (2011), Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhân
dân Cách mạng Lào;
- Đấu tranh với sự nghèo của Lào, tài liệu số 14 (2007);
- Tổng kết tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm
(2004-2009) của tỉnh Chămpasắc;


6

- Tổng kết công tác xóa đói giảm nghèo 5 năm (2004-2009) và mục tiêu
phấn đấu trong 5 năm tới (2009-2014) của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh
Chămpasắc;
- Tổng kết khảo sát tình hình đói nghèo trên địa bàn tỉnh năm 2009 của
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Chămpasắc.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu và tài liệu nêu trên đã có nhiều

đóng góp quý báu cả lý luận và thực tiễn về công tác xóa đói giảm nghèo.
Mặc dù vậy, các hoạt động quản lý nhà nước về xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Chămpasắc chưa được các nhà nghiên cứu, các tác giả đi sâu phân tích thực
tiễn, tìm ra giải pháp, xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo thực sự đồng bộ,
phù hợp và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra tại tỉnh Chămpasắc.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua phân tích thực tiễn, hệ thống lý luận, cơ sở pháp lý của quản
lý nhà nước về công tác xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Chămpasắc, tác giả xây
dựng một số giải pháp, đề xuất kiến nghị nhằm tăng cường, hoàn thiện hơn
nữa công tác quản lý nhà nước về xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Chămpasắc và
đóng góp một phần vào công tác này trên phạm vi đất nước Lào.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa các quan điểm, tư tưởng, tri thức, cơ sở lý luận của vấn
đề xóa đói giảm nghèo và làm rõ thực chất của công tác xóa đói giảm nghèo;
- Phân tích, đánh giá việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác xóa đói
giảm nghèo ở Lào;
- Thông qua lý luận, thực tiễn nêu trên mà tác giả đề xuất những giải
pháp nhằm tăng cường hoàn thiện hơn công tác quản lý nhà nước về xóa đói


7

giảm nghèo ở phạm vi tỉnh Chămpasắc, góp phần vào tăng cường hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước trên phạm vi cả nước Lào.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi không gian của nước Lào, tập trung chủ
yếu ở tỉnh Chămpasắc;
Phạm vi thời gian nghiên cứu: số liệu sử dụng để phân tích là từ năm
2001 đến hết năm 2012 và định hướng đến năm 2020.

4. Đối tượng nghiên cứu
Các đường lối, chủ trương, chính sách, quy định và chương trình thực
hiện công tác xóa đói giảm nghèo, nhất là mô hình xóa đói giảm nghèo cụ thể.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn tiến hành nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Tư tưởng Cayxỏn Phômvihẳn; hệ thống
các quan điểm, văn kiện của Đảng nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Cộng sản
Việt Nam; kế thừa những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong
và ngoài nước.
- Luận văn sử dụng tổng hợp và kết hợp các phương pháp nghiên cứu
với nhau, như phương pháp lý luận, thực tiễn, phân tích tổng hợp, lịch sử và
lôgic, thống kê, so sánh, thu thập ý kiến của chuyên gia…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ việc tăng cường quản lý nhà nước về
xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Chămpasắc và đất nước Lào; đề xuất thực hiện
những giải pháp thiết thực, cụ thể, khoa học, phù hợp đối với công tác này
trong thời gian tới ở phạm vi một tỉnh cụ thể và một phạm vi nhất định trên
đất nước Lào.


8

- Luận văn có thể giúp chính quyền tỉnh Chămpasắc tham khảo và áp
dụng trong thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo, Trường Chính trị tỉnh
nghiên cứu để giảng dạy; làm tài liệu tham khảo cho bạn đọc quan tâm đến
công tác xóa đói giảm nghèo ở các địa phương khác trên đất nước Lào đang
phát triển.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn chia làm 03 chương.

Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO Ở TỈNH CHĂMPASẮC
Chương 3: TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH CHĂMPASẮC


9

Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ CƠ SỞ
LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Nhận thức chung về đói nghèo, người nghèo và những đặc trưng
của họ
1.1.1. Những cách nhìn nhận về đói nghèo
Nghèo đói là vấn đề toàn cầu và có sự biến đổi trong từng giai đoạn lịch
sử xã hội, mỗi quốc gia có những cách nhìn nhận khác nhau, tùy vào góc độ
xem xét. Sau đây là một số quan niệm về nghèo đói được nhìn nhận theo chủ
thể và góc độ xem xét như sau:
1.1.1.1. Theo Liên hợp quốc
Đói nghèo đang là một thách thức đối với sự phát triển của toàn thế giới
kể cả với các nước công nghiệp phát triển, tấn công vào nghèo đói, thực hiện
xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu phát triển của xã hội. Vì vậy
đây là vấn đề các chính phủ, các nhà lãnh đạo, các tổ chức quốc tế quan tâm
để tìm ra giải pháp hạn chế và tiến tới xoá bỏ nạn đói nghèo trên phạm vi toàn
cầu.
Bước vào thế kỉ 21, đói nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn của
nhân loại, xóa đói giảm nghèo được coi là một trong những nhiệm vụ quan

trọng ưu tiên hàng đầu trong các mục tiêu phát triển của thế giới hiện đại.
Chính vì vậy, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại
Copenhaghen (Đan Mạch) tháng 3 năm 1995 đã xác định: “Xóa đói giảm
nghèo là một trong ba vấn đề trọng tâm được các nước cam kết thực hiện, coi
đây là đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức, xã hội, chính trị và kinh tế của cả
nhân loại”.
Tại cuộc họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc về phát triển xã
hội tháng 6/2000 ở Giơnevơ (Thụy Sỹ), cộng đồng quốc tế tích cực cam kết


10

thực hiện xóa đói giảm nghèo, phấn đấu đến năm 2005 giảm một nữa số
người nghèo trên thế giới.
Hội nghị về chống nghèo ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tháng 9-1993 tại Bangkok, Thái Lan đã đưa ra định nghĩa về
nghèo như sau: "Nghèo là một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả
mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã
hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế-xã hội phong tục tập quán
của địa phương”.
Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith cũng quan niệm: "Con người bị coi là
nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù thích đáng để họ có thể tồn tại,
rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập cộng đồng. Khi đó họ không thể có những
gì mà đa số trong cộng đồng coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách
đúng mực."
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức năm 1995 đưa
định nghĩa về nghèo: "Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn
dưới một đô la mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua
những sản phẩm cần thiết để tồn tại."
Còn nhóm nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF trong công trình

"Xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam-1995" đã đưa ra định nghĩa: "Nghèo là tình
trạng thiếu khả năng trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham
gia vào lĩnh vực kinh tế."
1.1.1.2. Theo các nước phát triển
Nghèo đói được tính đến điều kiện khó khăn trong phát triển con người
cơ bản, nhấn mạnh đến phương pháp tiếp cận trên những quyền lợi cơ bản của
con người. Đó là:
Về tiêu dùng: Được tính đến những năm 1970;


11

Về tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực: Giữa những năm 1970 và
những năm 1980, tiếp cận theo nhu cầu thiết yếu;
Về tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương: Từ
những năm 1980, cách tiếp cận theo năng lực và cơ hội;
Về tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực, tính dễ bị tổn thương và phẩm
giá: Từ năm 1980 đến năm 2000;
Về tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực, tính dễ bị tổn thương, phẩm giá
và tự chủ: Báo cáo tỉnh trạng nghèo khổ trên thế giới, Ngân hàng thế giới năm
2000.
1.1.2.1. Xác định chuẩn nghèo theo Liên hợp quốc
Xác định chuẩn nghèo là vấn đề có tính định lượng. Chuẩn nghèo hay
còn gọi là đường nghèo, ngưỡng nghèo hoặc tiêu chí nghèo. Đây chính là cơ
sở, tiêu chí, công cụ để phân biệt người nghèo và người không nghèo, để đo
lường và giám sát nghèo đói.
Việc xác định chuẩn nghèo cơ bản dựa vào thu nhập hoặc chi tiêu.
Những người được xác định là nghèo khi thu nhập hoặc chi tiêu thấp hơn
chuẩn nghèo. Ngược lại, người có thu nhập hoặc chi tiêu cao hơn hoặc bằng
chuẩn nghèo thì được gọi là người không nghèo hoặc đã vượt nghèo, thoát

nghèo.
- Xác định chuẩn nghèo dựa vào khẩu phần ăn:
Không có sự thống nhất giữa các quốc gia về lượng calo tiêu dùng để
xác định chuẩn nghèo, chẳng hạn:


12

Việt Nam
Indonesia
Philippin
Thái Lan
Trung Quốc

2.100
2.100
2.000
1.978
2.150

Cách xác định chuẩn nghèo này không được chính xác, nếu đối chiếu
giữa người nghèo nông thôn và thành thị. Vì giá lương thực, thực phẩm nông
thôn thấp hơn đô thị, hàm lượng calo thu nhập cho các hộ gia đình nông thôn
cao hơn gia đình đô thị, kết quả chuẩn nghèo nông thôn thấp hơn đô thị.
- Xác định chuẩn nghèo dựa vào chi phí cho các nhu cầu cơ bản:
Phương pháp này căn cứ vào giá trị tiêu dùng cần thiết để đáp ứng các
nhu cầu cơ bản. Đó là:
Đường nghèo là Z: Z=ZS + ZN
Trong đó: ZS là đường nghèo lương thực, thực phẩm;
ZN là đường nghèo phi lương thực, thực phẩm.

- Xác định chuẩn nghèo từ thu nhập bình quân:
Một số quốc gia xác định chuẩn nghèo dựa vào sự thiếu hụt của cá nhân,
hộ gia đình so với mức sống trung bình đạt được. Có nước xác định chuẩn
này dựa trên một phần hai thu nhập bình quân, có quốc gia dựa trên một phần
ba thu nhập bình quân.
Các quốc gia đều có sự thay đổi, điều chỉnh lại chuẩn nghèo, trừ Mỹ
không có sự điều chỉnh lại chuẩn nghèo trong 4 thập kỷ qua. Châu Âu xác
định nghèo là có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn một nữa thu nhập
của đối tượng trung lưu. Khi thu nhập của đối tượng trung lưu tăng lên thì
chuẩn nghèo cũng tăng theo.
- Chuẩn nghèo dựa vào 1 USD, 2 USD/ngày/người:


13

Để đánh giá hiệu quả của các chính sách chống đói nghèo theo thời gian,
so sánh tỷ lệ nghèo đói giữa các nước với nhau, xác định nơi cần trợ giúp, các
tổ chức quốc tế, như Ngân hàng thế giới đã sử dụng mức chuẩn 1 USD, 2
USD/ngày/người, theo sức mua tương đương với đồng tiền USD. Đây là
chuẩn nghèo tuyệt đói. Thực tế, còn nhiều vấn đề liên quan đến cách tính
USD theo sức mua, do đó cách xác định chuẩn nghèo này để so sánh quốc tế
hơn là trong nước.
1.1.2.2. Xác định chuẩn nghèo trên đất nước Lào
Nước Lào có sự thay đổi chuẩn nghèo trong những giai đoạn khác nhau
nhằm thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo phù hợp. Đó là cách xác định
chuẩn nghèo của Chính phủ, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Tổng cục
Thống kê và Ngân hàng thế giới công bố:
Xác định đường nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng thế giới:
Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm được xác định là chi phí cần thiết
mua lương thực, thực phẩm cung cấp đủ lượng calo tiêu dùng bình quân

2.100 calo/người/ ngày. Năm 1998, chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm được
xác định là 1.287 ngày đồng/người/năm.
Chuẩn nghèo chung được xác định bằng cách lấy chuẩn nghèo về lương
thực, thực phẩm cộng với chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm
của nhóm dân cư 3 (nhóm có mức sống trung bình). Chuẩn nghèo chung được
xác định cho năm 1998 là 1.790 ngàn đồng/người/năm.
Phương pháp trên không phản ánh được sự vận động kịp sự phát triển xã
hội. Sử dụng duy nhất chuẩn nghèo áp dụng cho cả nông thôn, thành thị nên
phản ánh không chính xác hiện thực xã hội, không xác định và lập được danh
sách hộ nghèo cụ thể ở các địa phương.
1.1.1.3. Theo các nước đang phát triển


14

Sự tồn vong và phát triển của các nước đang phát triển gắn liền vời công
tác xóa đói giảm nghèo. Chính vì vậy, các nước đang phát triển đã có những
quan tâm nhất định và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này.
1.1.2. Xác định chuẩn nghèo trên đất nước Lào
Chuẩn nghèo là một tiêu chuẩn để đo mức độ nghèo của các hộ dân, là căn
cứ cho các hỗ trợ về chính sách cho hộ đó. Chuẩn nghèo ở mỗi quốc gia là
khác nhau.
Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn quốc tế, gồm đường
đói nghèo ở mức thấp gọi là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm.
Đường đói nghèo thứ hai ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao
gồm cả mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm).
Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm được xác định theo chuẩn mà hầu
hết các nước đang phát triển cũng như Tổ chức Y tế Thế giới và các cơ quan
khác đã xây dựng mức Kcal tối thiểu cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là
chuẩn về nhu cầu 2.100 Kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới

mức chi cần thiết để đạt được lượng Kcal này gọi là nghèo về lương thực,
thực phẩm. Đường đói nghèo chung tính thêm các chi phí cho các mặt hàng
phi lương thực, thực phẩm.
Trong một thời gian dài, các nhà kinh tế và nhiều nhà nghiên cứu đã định
nghĩa giàu nghèo theo quan điểm định lượng, tức là đưa ra một chỉ số để đo
lường chủ yếu nhằm đơn giản hoá việc hoạch định chính sách. Hộ đói là hộ
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm đau không có tiền
chữa trị, nhà ở rách nát (nếu theo thu nhập thì các hộ này chỉ có thu nhập bình
quân đầu người của loại hộ này quy ra gạo dưới 25 kg/tháng ở thành thị, 20
kg/tháng ở nông thôn đồng bằng và trung du, dưới 15 kg/tháng ở nông thôn
miền núi). Xã nghèo là xã có trên 40% tổng số hộ nghèo đói, không có hoặc
có rất ít những cơ sở hạ tầng thiết yếu, trình độ dân trí theo tỉ lệ mù chữ cao.


15

Còn đối với thế giới, để đánh giá tương đối đúng đắn về sự phát triển, sự tiến
bộ của mỗi quốc gia, Liên Hợp Quốc đưa ra chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) và chỉ số phát triển con người (HDI).
1.2. Chương trình quản lý nhà nước về xóa đói giảm nghèo
1.2.1. Khái niệm về xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là quá trình làm cho người nghèo từ vất vã, khổ cực
vươn lên đủ ăn, đủ dùng; người-gia đình đủ ăn, đủ dùng vươn lên khá giàu;
người-gia đình khá giàu thì vươn lên khá, giàu hơn.
Vì vậy, xóa đói giảm nghèo là xóa bỏ tình trạng thiếu thốn phương tiện
tiếp cận các dịch vụ, như tăng thu nhập hàng năm, có nhiều cơ hội thu nhập,
có nhiều tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong cuộc sống hàng ngày, có tiền
chữa bệnh, có tiền sử dụng vào các mục đích cơ bản khác của con người.
1.2.2. Các chương trình quản lý nhà nước nhằm xóa đói giảm nghèo
1.2.2.1. Theo kế hoạch của Liên hợp quốc và một số tổ chức quốc tế

- Tạo cơ hội cho người nghèo
Để thực hiện xóa đói giảm nghèo có hiệu quả, nhiều nước đã tạo cơ hội
cho người nghèo thông qua thực hiện chính sách tăng trưởng kinh tế, tùy điều
kiện mỗi nước khác nhau mà áp dụng biện pháp phù hợp thực tế, chẳng hạn:
+ Cải cách nông nghiệp và phân phối lại ruộng đất:
Cải cách ruộng đất được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, khắc
phục hiện tượng ruộng đất tập trung vào tay một số ít người. Phân phối ruộng
đất công bằng, hợp lý góp phần cơ bản tăng năng suất lao động. Thực tế chỉ
ra, khi nông dân có quyền sử dụng ruộng đất sẽ hăng hái hơn trong lao động,
cải tạo, đầu tư trên mãnh đất của mình; nông dân có điều kiện sử dụng nhiều
lao động và áp dụng công nghệ vào sản xuất.
+ Cung cấp vốn và tín dụng:


16

Thực tiễn cho thấy, ở các nước người nghèo sống chủ yếu dựa vào sức
lao động cơ bắp, trong khi người giàu sống dựa vào những khoản thu từ
quyền sở hữu tài sản của họ. Người nghèo không có điều kiện hưởng trực tiếp
lợi ích từ sự tăng trưởng kinh tế, không có vốn, không có điều kiện học tập,
tiếp cận khoa học, công nghệ. Do đó, cung cấp vốn bằng nhiều hình thức khác
nhau là một điều kiện quan trọng để cải thiện đời sống cho người nghèo,
thông qua có vốn đầu tư sản xuất.
+ Đầu tư cơ sở hạ tầng: Bao gồm điện, đường, trường, trạm…, người
nghèo phần lớn tập trung nông thôn và nông thôn có cơ sở hạ tầng rất yếu
kém và không đồng bộ. Vì vậy, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn là một chương
trình, kế hoạch rất cần thiết góp phần vào xóa đói giảm nghèo.
+ Chính sách Maketing, giá cả, tỷ giá hối đoái: Đó thực chất là sự phát
triển thị trường, sản xuất hàng hóa tập trung vào nông thôn; nhà nước thực
hiện chính sách kinh tế vĩ mô về giá cả, tỷ giá hối đoài nhằm thúc đẩy ổn định

thị trường, tăng giá trị sản xuất.
+ Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, công nghiệp hóa nông thôn:
Hình thức đa dạng sản xuất góp phần vào phát triển sản xuất thông qua các
hợp tác xã, các tổ chức kinh tế tập thể; xây dựng các công trình công cộng, cơ
sở chế biến sản phẩm nông nghiệp.
- Giáo dục-đào tạo và chương trình việc làm: Nông thôn phần đông
không có điều kiện nâng cao trình độ dân trí, trình độ học vấn thấp; việc làm
nhàn rỗi nhiều. Do đó, thực hiện chương trình giáo dục, đào tạo, trong đó có
đào tạo nghề, thông qua tạo nhiều việc làm cho nhân dân nông thôn và thành
thị là giải pháp cơ bản để khắc phục tình trạng thất nghiệp.
- Thực hiện chương trình sức khỏe, dinh dưỡng và chương trình dân số:
Sức khỏe không đảm bảo dẫn đến ốm đau, thiếu lương thực đều dẫn đến hạn
chế cơ hội công ăn việc làm, sức kiếm sống của người nghèo. Mức sống


17

người nghèo được cải thiện nếu quy mô gia đình nhỏ, hợp lý vì có ít khẩu ít
người ăn theo hơn.
1.2.2.2. Chương trình của một số nước đang phát triển
Các nước đang phát triển cũng từng bước đang thực hiện một số chương
trình của các nước phát triển và thực hiện dưới mức độ nhất định. Đồng thời
thực hiện một số chương trình sau:
- Chú trọng vào các nhóm mục tiêu: Đó là hành động trợ giúp những
người nghèo, như mở các cơ sở giáo dục, các cơ sở kinh tế nhà nước theo các
chương trình mục tiêu quốc gia. Một số nước như Ấn Độ đã dùng những
khoản kích thích và trợ cấp công nghiệp để giúp cho các vùng lạc hậu về kinh
tế, đào tạo cho những người nghèo khổ làm kinh doanh.
- Tấn công toàn diện vào đói nghèo: Đó thực chất là phân phối lại sản
phẩm xã hội theo mức tăng trưởng kinh tế, thực hiện các chương trình trên

không đảm bảo người nghèo tiếp cận các nguồn lực. Giai đoạn đầu là đất đai
nông nghiệp được phân phối lại, giai đoạn sau là phân phối nguồn nhân lực
thông qua giáo dục, đào tạo cho người nghèo được chú trọng.
- Thực hiện chính sách định hướng theo tăng trưởng: Đó là thực hiện
tăng GDP gắn với giảm tỷ lệ hộ nghèo, tăng hộ khá, giàu. Thu hẹp khoảng
cách chênh lệch giữa các nhóm đối tượng, các vùng, thu hẹp bất bình đẳng về
giới, sự tiến bộ phụ nữ và trẻ em. Phát triển mạng lưới an sinh xã hội, trợ giúp
cho các đối tượng yếu thế và người nghèo. Xây dựng và tổ chức thực hiện các
biện pháp giúp đối tượng yếu thế cải thiện các điều kiện tham gia thị trường,
cứu trợ xã hội. Mở rộng sự tham gia và nâng cao vai trò của các tổ chức xã
hội, tổ chức phi chính phủ trong việc phát triển mạng lưới an sinh xã hội.
- Giảm bớt nguy cơ bị tổn thương: Đời sống người nghèo rất dễ bị tổn
thương, khi bị tổn thương họ rất khó phục hồi lại được. Sức khỏe của họ bị
giảm sút sẽ ảnh hưởng đến trực tiếp đời sống hơn những người có điều kiện


18

cuộc sống khá giả, vì lao động của họ chủ yếu dựa vào cơ bắp, họ không có
điều kiện chữa bệnh. Thực hiện bảo hộ đầu tư sản xuất nông nghiệp cho
người nghèo giúp họ yên tâm sản xuất. Các dịch vụ khuyến nông, thú y có thể
giúp họ giảm bớt đầu tư vào sản xuất nông nghiệp.
1.2.3. Lý luận quản lý nhà nước về xóa đói giảm nghèo
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế-xã hội mang tính chất toàn cầu. Nó
không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển mà nó còn tồn
tại ngay tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào
điều kiện tự nhiên, thể chế chính trị xã hội và điều kiện kinh tế của mỗi quốc
gia mà tính chất, mức độ nghèo đói của từng quốc gia có khác nhau. Nhìn
chung mỗi quốc gia đều sử dụng một khái niệm để xác định mức độ nghèo
khổ và đưa ra các chỉ số nghèo khổ để xác định giới hạn nghèo khổ. Giới hạn

nghèo khổ của các quốc gia được xác định bằng mức thu nhập tối thiểu để
người dân có thể tồn tại được, đó là mức thu nhập mà một hộ gia đình có thể
mua sắm được những vật dụng cơ bản phục vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu
cầu thiết yếu khác theo mức giá hiện hành.
Theo số liêu của ngân hàng thế giới thì hiện nay trên thế giới có khoảng
1,3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ
em.
Thực trạng đó mà tất cả các quốc gia nhận thấy về sự cần thiết của công
tác xoá đói giảm nghèo. Xét tình hình thực tế, sự phân hoà giàu nghèo diễn ra
rất nhanh nếu không tích cực xoá đói giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề
xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no
về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy được truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và tiến bộ của thời đại.


19

Xoá đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó còn là
vấn đề kinh tế-xã hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa
chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Xoá đói giảm nghèo về kinh tế là điều kiện tiên quyết để xoá đói giảm
nghèo về văn hoá, xã hội. Vì vậy, phải tiến hành thực hiện xoá đói giảm
nghèo cho các hộ nông dân sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những
vùng căn cứ kháng chiến cách mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự
cấp, độc canh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp
trên toàn quốc theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông
thôn, mở rộng thị trường nông thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao đông ở
nông thôn vào sản xuát tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con
đường cơ bản để xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ở nông thôn phải được xem như là một giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoặt

cho phát triển ở nông thôn, nhằm xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
Tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở
nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đó là con đường để cho
mọi người vượt qua đói nghèo, để nhà nước có thêm tiềm lực về kinh tế để
chủ động xoá đói giảm nghèo. Thực hiện thành công chương trình xoá đói
giảm nghèo không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu nhập
chính đáng cho người nông dân ổn định cuộc sống lâu dài, mà xoá đói giảm
nghèo, phát triển kinh tế nông thôn còn là nền tảng, là cơ sở để cho sự tăng
trưởng và phát triển một nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp đổi
mới đất nước. Hơn thế nữa nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, xã hội.
Xoá đói giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăn sóc tốt sức khoẻ
nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà nhập
vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành mạnh,
giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người nghèo, ổn định


20

tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và chủ
trương của Đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ nạn
xã hội khác, bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngoài ra, còn có thể nói rằng không giải quyết thành công các nhiệm vụ
và yêu cầu xoá đói giảm nghèo thì sẽ không chủ động giải quyết được xu
hướng gia tăng phân hoá giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai cấp với
hậu quả là sự bần cùng hoá và do vậy sẽ đe doạ tình hình ổn định chính trị và
xã hội làm chệch hướng sự phát triển kinh tế-xã hội. Không giải quyết thành
công các chương trình xoá đói giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được công
bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung. Như thế mục tiêu phát triển và
phát triển bền vững sẽ không thể thực hiện được. Không tập trung nỗ lực, khả
năng và điều kiện để xoá đói giảm nghèo sẽ không thể tạo được tiền đề để

khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ mới.
Nguyên nhân đói nghèo trên thế giới có nhiều ý kiến khác nhau xung
quanh việc xác định nguyên nhân của đói nghèo. Trên thực tế không có một
nguyên nhân biệt lập, riêng rẽ dẫn tới đói nghèo nhất là đói nghèo trên diện
rộng, có tính chất xã hội. Nó cũng không phải là nguyên nhân thuần tuý về
mặt kinh tế hoặc do thiên tai dịch hoạ. Ở đây nguyên nhân của tình trạng đói
nghèo là có sự đan xen, thâm nhập vào nhau của cái tất yếu lẫn cái ngẫu
nhiên, cái cơ bản và cái tức thời, cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực
tiếp, tự nhiên lẫn kinh tế-xã hội.
Nguyên nhân đói nghèo trên thế giới bao gồm những nguyên nhân chủ
yếu sau:
- Sự khác nhau về của cải (những chênh lệch lớn nhất trong thu nhập là
do những sự khác nhau về sở hữu tài sản).
- Sự khác nhau về khả năng cá nhân.


21

- Sự khác nhau về giáo dục đào tạo.
- Một số nguyên nhân khác như: Chiến tranh, thiên tai địch hoạ, rủi ro...
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước trong xóa đói giảm nghèo của
một số nước
1.3.1. Kinh nghiệm của Việt Nam
Việt Nam xác định xóa đói giảm nghèo là một nội dung cơ bản của mọi
tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền, ủy Đảng và toàn xã hội. Công
tác này được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, được xây
dựng chiến lược, hoạch định, quy hoạch, chương trình thực hiện trong từng
giai đoạn cách mạng cụ thể. Thực hiện thống nhất giữa chính sách kinh tế với
chính sách xã hội.

Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước
và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của Nhà nước, của xã
hội và của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa
phương, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xóa đói giảm nghèo,
phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước
và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người
nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của công cuộc xóa đói
giảm nghèo.
Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện nghèo là
nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp
ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính quyền, sự
phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đồng thời,
phải phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế hoạch, đến
tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của Chương trình.


22

Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo chung trong
cả nước, Trung ương tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo.
Xác định mục tiêu tổng quát là tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời
sống vật chất, tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các
huyện nghèo, bảo đảm đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu
vực. Hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản
xuất hàng hóa, khai thác tốt các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp với đặc điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ
cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây
dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được
nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh, quốc

phòng.
Thực hiện một số chính sách thống nhất với chính sách phát triển chung
của đất nước.
Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm thông qua khoán chăm sóc, bảo vệ rừng,
giao rừng và giao đất để trồng rừng sản xuất.
Giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao mặt bằng dân trí, bố trí đủ giáo
viên cho các huyện nghèo; hỗ trợ xây dựng nhà “bán trú dân nuôi”, nhà ở cho
giáo viên ở các thôn, bản; xây dựng trường Dân tộc nội trú cấp huyện theo
hướng liên thông với các cấp học ở huyện (có cả hệ phổ thông trung học nội
trú) để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho các huyện nghèo;
tăng cường, mở rộng chính sách đào tạo ưu đãi theo hình thức cử tuyển và
theo địa chỉ cho học sinh người dân tộc thiểu số, ưu tiên các chuyên ngành
nông nghiệp, lâm nghiệp, y tế, kế hoạch hóa gia đình, đào tạo giáo viên thôn,
bản, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật.


23

Tăng cường dạy nghề gắn với tạo việc làm: đầu tư xây dựng mỗi huyện
01 cơ sở dạy nghề tổng hợp được hưởng các chính sách ưu đãi, có nhà ở nội
trú cho học viên để tổ chức dạy nghề tại chỗ cho lao động nông thôn về sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp, ngành nghề phi nông nghiệp; dạy nghề tập trung
để đưa lao động nông thôn đi làm việc tại các doanh nghiệp và xuất khẩu lao
động.
Chính sách đào tạo cán bộ tại chỗ: đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn,
cán bộ y tế cơ sở cho con em ở các huyện nghèo tại các trường đào tạo của Bộ
Quốc phòng; ưu tiên tuyển chọn quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự là
người của địa phương để đào tạo, bổ sung cán bộ cho địa phương.
Chính sách đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở: tổ chức
tập huấn, đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho đội ngũ cán bộ cơ sở thôn, bản, xã,

huyện về kiến thức quản lý kinh tế-xã hội; xây dựng và quản lý chương trình,
dự án; kỹ năng xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch.
Tăng cường nguồn lực thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia
đình. Đẩy mạnh công tác truyền thông, vận động kết hợp cung cấp các dịch
vụ kế hoạch hóa gia đình để nâng cao chất lượng dân số của các huyện nghèo.
Chính sách cán bộ đối với các huyện nghèo. Thực hiện chính sách luân
chuyển và tăng cường cán bộ tỉnh, huyện về xã đảm nhận các cương vị lãnh
đạo chủ chốt để tổ chức triển khai thực hiện cơ chế, chính sách đối với các
huyện nghèo; thực hiện chế độ trợ cấp ban đầu đối với cán bộ thuộc diện luân
chuyển; có chế độ tiền lương, phụ cấp và chính sách bổ nhiệm, bố trí công tác
sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Có chính sách hỗ trợ và chế độ đãi ngộ thỏa
đáng để thu hút khuyến khích trí thức trẻ về tham gia tổ công tác tại các xã
thuộc huyện nghèo.
Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Đẩy nhanh thực hiện quy
hoạch các điểm dân cư ở những nơi có điều kiện và những nơi thường xảy ra


24

thiên tai; nâng cao hiệu quả đầu tư. Sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển trong
cân đối ngân sách hàng năm (bao gồm vốn cân đối ngân sách địa phương và
hỗ trợ từ ngân sách trung ương), vốn trái phiếu Chính phủ, vốn từ các chương
trình, dự án, vốn ODA để ưu tiên đầu tư cho các công trình hạ tầng kinh tế-xã
hội.
1.3.2. Kinh nghiệm của Camphuchia
Camphuchia thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo xuất phát từ chính
nơi có điều kiện đời sống kinh tế-xã hội phát triển. Thực hiện trước hết địa
bàn này tạo cơ sở thu hút địa bàn có đời sống dân cư khó khăn, hộ nghèo còn
cao phấn đấu theo.
Nhưng cần thấy rằng, đời sống kinh tế-xã hội của Camphuchia không

cao so với các nước khu vực nhưng công tác xóa đói giảm nghèo được tổ
chức quốc tế đặc biệt quan tâm, đồng thời sự tham gia của nhà nước được
thực hiện tích cực.
Một mặt tập trung giải quyết xóa đói giảm nghèo tập trung, mặt khác tập
trung hỗ trợ tạo điều kiện cho các vùng, khu vực phấn đấu thông qua gia tăng
sản xuất nông nghiệp. Cải thiện đời sống người cơ nhở ở đô thị, nhất là tạo
việc làm cụ thể, thông qua phân phối thị trường.
Chú trọng công tác đầu tư cơ sở hạ tầng gắn với phát triển kinh tế-xã hội
từng bước. Thực hiện khá tốt chính sách an sinh xã hội thông qua chính sách
thuế áp dụng doanh nghiệp có doanh thu cao.
1.3.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Ngay từ khi Đại Hội Đảng XII của Đảng ộng sản Trung Quốc năm 1984,
Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện cải cách trên nhiều lĩnh vực, nhưng cái
chính là cải cách cơ cấu nông nghiệp nông thôn. Mục đích của nó là làm thay
đổi các quan hệ chính trị, kinh tế ở nông thôn, giảm nhẹ gánh nặng về tài


25

chính đã đè quá nặng lên những người nghèo khổ ở nông thôn trong nhiều
năm qua, phục hồi ngành sản xuất nông nghiệp.
Năm 1985, Đặng Tiểu Bình đã nói: "Sự nghiệp của chúng ta sẽ không có
ý nghĩa gì nhiều nếu không có sự ổn định ở nông thôn.". Sau khi áp dụng một
loạt các chính sách cải cách kinh tế ở khu vực nông thôn, Trung Quốc đã thu
được những thành tựu đáng kể, đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong thể
chế chính trị, thay đổi về căn bản về cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển đổi
phương thức quản lý, thay đổi căn bản phương thức phân phối, phân phối
theo lao động đóng vai trò chính và Trung Quốc đã thực hiện thành công việc
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết cuả Nhà nước, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài.

Trong những năm Trung Quốc thực hiện chuyển hướng sang nền kinh tế
thị trường thì sự phân hoá giàu nghèo đã tăng lên rõ rệt trong xã hội. Do chính
sách mở cửa nền kinh tế, các thành phố lớn thì tập trung các nhà máy sản xuất
công nghiệp, tuy có phát triển một số nhà máy công nghiệp ở một số vùng
nông thôn, song vùng giàu có thì ngày càng giàu có, vùng nghèo đói thì vẫn
nghèo đói nhất là vùng sâu, vùng xa. Để khắc phục tình trạng nghèo khổ cho
khu vực nông thôn chính phủ đã đưa ra một loạt các giải pháp cơ bản nhằm
xoá đói giảm nghèo cho nhân dân, trong đó có các giải pháp về tập trung phát
triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, xây dựng các vùng định canh, định cư,
khu dân cư mới, chính sách này đã đem lại những thành công đáng kể cho nền
kinh tế-xã hội Trung Quốc trong những năm qua.
Qua kinh nghiệm các nước tác giả nhận thấy quản lý nhà nước về xóa
đói giảm nghèo cần thực hiện những nội dung sau:
1. Tăng cường công tác tuyên truyền sâu rộng và trước hết đến người
nghèo, hộ nghèo, vùng có đời sống kinh tế-xã hội khó khăn, nhất là nông
thôn. Qua đó khơi dậy tinh thần tự phấn đấu vươn lên của người nghèo.


×