Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIAO QUYỀN SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT LÂU DÀI CHO NÔNG DÂN ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.33 KB, 31 trang )

Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIAO QUYỀN
SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT LÂU DÀI CHO NÔNG DÂN
ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA

1.1. QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIAO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂU DÀI CHO
NÔNG DÂN ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA

1.1.1. Một số vấn đề lý luận của Mác và Lênin về ruộng đất
Đất đai là tài sản quốc gia vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không
thể thay thế được của Nông - Lâm - Ngư nghiệp. Nó là cơ sở tự nhiên, là tiền đề
trước tiên của mọi quá trình sản xuất. C.Mác đã từng chỉ rõ: "Đất là không gian,
yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi hoạt động của loài
người" [33, tr. 473]. Trong sản xuất nông nghiệp ruộng đất không chỉ tham gia với tư
cách là yếu tố thông thường, mà là yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu sản xuất
chủ yếu. Nó là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, nó xuất hiện và tồn tại
ngoài ý muốn con người, vì vậy ruộng đất là tài sản quốc gia. Nhưng từ khi được con
người khai phá, sử dụng trong quá trình lịch sử lâu dài, thì trong đất đai đã kết tinh
lao động của nhiều thế hệ. Ngày nay, ruộng đất vừa là sản phẩm của tự nhiên lại vừa
là sản phẩm của lao động. Do vậy, khi xét về mặt giá trị sản xuất, C.Mác đã nói: "Đất
là tư liệu sản xuất cơ bản, phổ biến và quí báu nhất của sản xuất nông nghiệp" [33,
tr. 324]. Vì loài người sử dụng đất trồng trọt tạo ra lương thực, thực phẩm, tận
dụng đất đồi núi để chăn nuôi, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và khai thác lâm
sản, sử dụng mặt nước để nuôi trồng thủy sản. Như vậy đất nông nghiệp tạo ra
những điều kiện để con người sinh sống và phát triển.
Trong quan hệ với lao động, ruộng đất vừa là đối tượng lao động vừa là tư
liệu lao động. Khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác động vào đất đai thay
đổi hình dạng theo mục đích sử dụng của mình thì ruộng đất là đối tượng của lao
động. Chính vì vậy, để có thể sử dụng có hiệu quả hơn hoặc cải tạo đất theo nhu


cầu sản xuất, người ta phải khai thác hợp lý hoặc tác động vào các điều kiện sinh


thái đất, như dựa vào yếu tố khí hậu thời tiết để tăng vụ, yếu tố địa hình và chế độ
nước để qui hoạch hệ thống cây trồng, hoặc dùng các loại cây trồng khác nhau để
bảo vệ và cải tạo đất v.v... Từ đó cho ta thấy đất đai là một điều kiện hết sức cần
thiết cho sản xuất, nhưng tự nó không thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà cần
có những điều kiện khác, trong đó có điều kiện quan trọng bậc nhất là lao động của
con người. Đất đai cùng với lao động là hai cơ sở tạo ra của cải vật chất để cho con
người và xã hội loài người tồn tại và phát triển. Điều này đã được C.Mác dẫn lời
của nhà kinh tế học cổ điển W.Petty nói: "Lao động là cha, còn đất là mẹ của của
cải vật chất" [29, tr. 68].
Ngoài ra, đất nông nghiệp còn tạo cơ sở cho sự ra đời và phát triển của nhiều
ngành kinh tế khác. Như công nghiệp khai khoáng, vật liệu xây dựng, công nghiệp
chế biến từ những sản phẩm được tạo ra từ đất với sự tác động của lao động con
người.
Qua đó chúng ta có thể khẳng định rằng, đất đai là điều kiện cần thiết để con
người và các sinh vật sinh sống và phát triển. Đất chính là cơ sở tồn tại của nhân loại,
là cội nguồn của hệ thống cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người, là nguồn
tài nguyên tái sinh của sự sống của nhân loại, C. Mác đã từng nói: Đất là điều kiện
không thể thiếu được của sự tồn tại và tái sinh của hàng loạt thế hệ loài người kế
tiếp nhau.
Ở mỗi quốc gia đất đai đều được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau,
riêng đất đai nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản giống nhau, được hiểu cụ thể:
Thứ nhất: Đất đai nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt. Vì trong sản xuất
nông nghiệp đất đai vừa là tư liệu lao động, vừa là đối tượng lao động. Đối với các
loại đất chuyên dùng khác thì đất chỉ là đối tượng lao động, con người phải sử
dụng tư liệu lao động để tác động vào tạo ra sản phẩm trong khai khoáng. Đối với
đất đai nông nghiệp được coi là tư liệu lao động, bởi vì con người đã dùng nó làm


vật dẫn truyền lao động của mình để tác động vào cây trồng. Đồng thời nó lại thể
hiện là đối tượng lao động khi con người dùng công cụ, máy móc tác động vào

ruộng đất làm thay đổi hình dạng và tính chất của nó. Chính sự biểu hiện hai mặt
của loại tư liệu sản xuất này, nên đất đai nông nghiệp được coi là một loại tư liệu
sản xuất đặc biệt. Mặt khác, đất đai đối với nông nghiệp, nó là sức sản xuất quan
trọng nhất, thiếu nó thì không thể có quá trình sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai: Đất đai có vị trí cố định và diện tích giới hạn
Các loại tư liệu sản xuất khác có thể di chuyển từ nơi này đến nơi kia, còn
đất đai có vị trí cố định, không thể di chuyển theo ý muốn của con người. Trong
mỗi quốc gia, mỗi vùng đất đai chịu ảnh hưởng của địa hình khí hậu thời tiết, điều
kiện kinh tế, tình hình phân bố lao động, điều kiện giao thông... khác nhau. Chính
những điều này giúp cho con người thực hiện trong việc thực hiện chuyên môn hóa
đối với nông nghiệp một cách thích hợp đối với từng vùng. Mặt khác, xét về diện
tích thì đất đai có giới hạn. Trên phạm vi toàn cầu đất đai bị khống chế bởi bề mặt
trái đất, ở mỗi nước diện tích bị giới hạn ở biên giới của mỗi quốc gia đối với tỉnh,
huyện, xã thì diện tích bị giới hạn trong khuôn khổ địa giới của từng địa phương.
Do đó con người muốn sản xuất nông nghiệp phải đầu tư thâm canh để mở rộng
diện tích theo chiều sâu, còn việc khai hoang mở rộng diện tích chỉ để khai thác số
đất đai chưa được sử dụng mà thôi.
Thứ ba: Đất đai nông nghiệp gắn với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, thời
tiết, thủy văn ở từng vùng nhất định và do đó mỗi vùng chỉ thích hợp với từng loại
cây, con nhất định.
Sản xuất nông nghiệp luôn luôn gắn chặt với môi trường tự nhiên, đặc biệt là
khí hậu thời tiết, nguồn nước, thổ nhưỡng là những tài nguyên tác động mạnh và
thường xuyên đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp ở từng quốc gia. Ngay ở
trong một nước, ở các vùng có điều kiện khác nhau, có thể cho năng suất tự nhiên
khác nhau đối với mỗi loại cây trồng, vật nuôi nhất định. Vì vậy, khi giao quyền sử


dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa phải
cần có quy hoạch đất đai, hướng dẫn đầu tư khoa học kỹ thuật để vận dụng trồng
cây gì? nuôi con gì cho từng vùng thích hợp. Mặt khác ở nước ta, đã từ lâu người

ta phải chia đất đai nông nghiệp thành 4 vùng lớn: Đó là đồng bằng, ven biển trung
du và miền núi. Cách phân chia này chủ yếu căn cứ vào yếu tố địa hình, chưa thấy
hết các yếu tố khác tác động vào sản xuất nông nghiệp. Do đó cần phải xem xét
một yếu tố quan trọng khác đó là vùng sinh thái nông nghiệp. Về qui mô, phạm vi
vùng sinh thái nông nghiệp được xác định rộng hay hẹp phụ thuộc vào những điều
kiện đặc thù tương đối giống nhau về khí hậu, lượng mưa, độ ẩm, không khí, nhiệt
độ, thổ nhưỡng v.v... Ngoài công tác điều tra nghiên cứu cơ bản, phân tích các yếu
tố tự nhiên bằng những phương pháp khoa học hiện đại, chính xác, người ta còn
giám sát các thảm thực vật, lấy đó làm tài liệu tham khảo trong việc xác định vùng
sinh thái nông nghiệp.
Khi nói đến việc sử dụng đất đai và giao quyền sử dụng đất đai một cách
hợp lý, cần chú ý tới sự thích ứng của cây trồng, vật nuôi đối với các điều kiện tự
nhiên và vùng sinh thái nông nghiệp. Trong đó điều kiện khí hậu, đất đai - địa hình,
địa chất, thổ nhưỡng là những yếu tố quan trọng bậc nhất trong các điều kiện tự
nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến sức sản xuất của chính bản thân đất đai và điều kiện
sống của con người.
Thứ tư: Chất lượng đất đai phụ thuộc vào sự tác động của con người và sự
tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Ruộng đất thường không đồng nhất về chất lượng do sự khác nhau giữa các
yếu tố dinh dưỡng vốn có của nó. Độ màu mỡ của đất nói lên khả năng có thể cung
cấp dinh dưỡng cho cây trồng. Con người không những sử dụng độ màu mỡ tự
nhiên của đất, mà còn có khả năng sáng tạo thêm độ màu mỡ nếu biết sử dụng nó
một cách hợp lý. Ngược lại, nếu sử dụng không hợp lý thì làm giảm độ màu mỡ
của tự nhiên. Thực tế này đã diễn ra một số vùng trung du và miền núi nước ta. Ở


những vùng này, trước đây con người chỉ lợi dụng độ màu mỡ tự nhiên vốn có của
đất để canh tác, không chú ý bồi dưỡng, cải tạo nên đất bị bạc màu, một số diện
tích vốn có độ màu mỡ cao, nay bị kiệt quệ trở thành đồi trọc. Trong khi đó, ở một
số nơi, khi giao quyền sử dụng ruộng đất hộ nông dân đã biết khai thác và cải tạo,

bồi dưỡng cho nó làm cho độ màu mỡ của đất không ngừng tăng lên, từ đó năng
suất cây trồng cũng thường xuyên nâng cao. Từ đó có thể khẳng định cho thấy chất
lượng đất đai luôn phụ thuộc vào sự tác động của con người và tiến bộ khoa học kỹ
thuật.
Chính đất đai nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản khiến nó không giống
với bất kỳ một loại tư liệu sản xuất nào. Chẳng hạn: đất đai là tư liệu sản xuất đặc
biệt; là tài nguyên có hạn chế về số lượng và không có khả năng tái sinh; đất đai có
vị trí cố định trong không gian không thể di chuyển theo ý muốn chủ quan của con
người... Từ những đặc điểm đó đã làm cho đất đai được đặt đúng với giá trị của nó
từ nhiều đời. Ông cha ta từng nói: "Tấc đất tấc vàng" câu nói này đặc biệt đúng với
các loại đất nói chung, riêng đối với đất nông nghiệp thì đất đai là tài nguyên đặc
biệt quý giá và là tư liệu sản xuất đặc biệt..., như vậy đã là tư liệu sản xuất đặc biệt
thì đất đai nông nghiệp cũng có những đặc tính cơ bản như mọi hàng hóa khác:
Tức là có thể mua được bán được.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin thì giá trị của
hàng hóa là lao động được vật hóa, nhưng khi nghiên cứu lý luận của C.Mác về địa
tô, chúng ta thấy rằng về thực chất đất không có giá trị, vậy tại sao vẫn hình thành
thị trường đất đai. Lý luận Mác-Lênin chỉ rõ: Giá cả ruộng đất là biểu hiện quan hệ
kinh tế phát sinh chứ không phải biểu hiện bằng tiền của giá trị ruộng đất. Quan
điểm này không hề mâu thuẫn với lý luận của C.Mác về giá trị và giá trị sử dụng
của hàng hóa, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị.
Vậy xét về mặt lý luận chúng ta đặt câu hỏi: Tại sao đất lại "có giá". Nếu đất
có giá trị thì ai là người có quyền sở hữu đất (chủ sở hữu được quyền định đoạt,


tức là có quyền bán đất hoặc cho thuê đất), còn người phải trả tiền tức là người sử
dụng đất đó với tư cách là một tư liệu sản xuất.
Để làm rõ vấn đề nêu trên, cần sử dụng lý luận về quan hệ đất đai và địa tô
của C.Mác. Do đó, trước hết chúng ta phải hiểu và thống nhất quan điểm của
C.Mác.

Thứ nhất: C.Mác nghiên cứu địa tô xuất hiện trong xã hội tư bản chủ nghĩa,
khi mà trong xã hội đã có sự độc quyền kinh doanh về ruộng đất.
Thứ hai: Địa tô phản ánh mối quan hệ thống nhất đối lập giữa ba giai cấp
cấu thành cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa- Người công nhân làm thuê, nhà tư
bản kinh doanh nông nghiệp và địa chủ.
Quá trình nghiên cứu của mình, C.Mác đã chỉ ra địa tô không phải là một
hình thái phân phối đơn thuần, quyền sở hữu ruộng đất tự bản thân nó không đảm
nhiệm một chức năng nào trong các quá trình sản xuất. Việc địa chủ trở thành người
cho thuê đất một cách thuần túy chính là do quan hệ sở hữu ruộng đất đã bị "cải tạo"
theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở đây có sự tách rời giữa quyền sở hữu
ruộng đất và quyền kinh doanh ruộng đất theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Khi đánh giá về
vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa: Một là,
biến nghề nông "thành một sự ứng dụng nông học một cách khoa học và tự giác"
[33, tr. 244] và nhờ vào sự "hợp lý hóa nông nghiệp, việc hợp lý hóa này lần đầu
tiên đã tạo khả năng kinh doanh nông nghiệp theo phương thức xã hội" [33, tr.
245]. Hai là, tách quyền sở hữu ruộng đất khỏi quyền kinh doanh trên ruộng đất,
biến sở hữu ruộng đất thành sở hữu "thuần túy" kinh tế. Và dưới con mắt của nhà
tư bản đi nữa thì cũng phải thấy đó là "một vật thừa vô dụng và phi lý". Theo phân
tích như trên thì C.Mác đã đưa ra định nghĩa một cách chung nhất về địa tô tư bản
chủ nghĩa như sau: "Địa tô là hình thái dưới đó quyền sở hữu ruộng đất được thực
hiện về mặt kinh tế, tức là đem lại thu nhập" [33, tr. 246].


Dưới chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa đất đai nói chung: trong đó cụ thể là đất
nông nghiệp nằm chủ yếu trong tay các địa chủ (chủ sở hữu ruộng đất - đất đai
thuộc sở hữu tư nhân). Người thực sự canh tác ruộng đất là những người lao động
làm thuê, nhà tư bản thuê đất của địa chủ để kinh doanh, coi nông nghiệp là một
lĩnh vực đầu tư kinh doanh. Chính vì thế trong lĩnh vực này lao động của những
nông dân làm thuê cho nhà tư bản cũng tạo ra giá trị thăng dư, tuy nhiên toàn bộ
giá trị thăng dư này không rơi vào nhà tư bản, mà do tính đặc thù của kinh doanh

nông nghiệp là phải sử dụng một loại tư liệu sản xuất đặc biệt là đất đai, đất đai
này thuộc sở hữu của địa chủ, vì vậy nhà tư bản phải trả cho chủ đất, kẻ sở hữu
ruộng đất, theo hợp đồng một khoản tiền (gọi là địa tô TBCN) để được sử dụng
ruộng đất trong một thời gian nhất định. "Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi
nhuận siêu ngạch do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra (tức bộ phận giá
trị thăng dư sau khi trừ lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư vào nông nghiệp) và
do nhà tư bản thuê đất nộp cho người sở hữu ruộng đất" [33, tr. 246]. Trong xã hội
tồn tại sở hữu tư nhân về đất đai, đặc biệt trong chủ nghĩa tư bản, không chỉ có đất
đai được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp mới phải nộp địa tô, mà tất cả các loại
đất: Đất xây dựng, đất hầm mỏ cũng phải đem lại thu nhập cho người sở hữu
chúng, đó là địa tô đất xây dựng, hầm mỏ. C.Mác đã chỉ ra rằng: Bất kỳ ở đâu có
những sức tự nhiên bị độc chiếm và tạo ra một lợi nhuận siêu gạch cho nhà tư bản
sử dụng những sức tự nhiên ấy thì số lượng lợi nhuận siêu ngạch mà nhà tư bản tạo
ra cũng phải nộp cho kẻ sở hữu những lực lượng tự nhiên dưới những hình thức địa
tô khác nhau.
Nhìn một cách khái quát cho thấy: "Đặc trưng của địa tô là ở chỗ, cùng với
những điều kiện khiến cho sản phẩm nông nghiệp phát triển thành những giá trị
(những hàng hóa) và cùng với những điều kiện thực hiện giá trị của chúng, thì đồng
thời quyền lực của quyền sở hữu ruộng đất là chiếm lấy một phần càng ngày càng lớn
những giá trị đó, những giá trị, được sáng tạo ra mà không có sự tham gia đóng góp
gì của nó cả, cũng càng phát triển, nghĩa là một phần giá trị thăng dư ngày càng lớn


sẽ

được

chuyển

hóa


thành

địa

tô [33, tr. 276-378].
Từ sự phân tích nguồn gốc và sự hình thành địa tô tư bản chủ nghĩa, chúng
ta khẳng định C.Mác đã hoàn toàn đúng khi đã đưa ra một hệ thống chỉ dẫn khoa
học

khi

nghiên

cứu

địa





bản

chủ

nghĩa.

Kết


luận

của

C. Mác dù đã gần 2 thế kỷ nhưng vẫn phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế
của chủ nghĩa tư bản ngày nay. "Thác nước, cũng như đất đai nói chung, cũng như
mọi lực lượng tự nhiên, không có giá trị nào cả, vì không có một lao động nào
được vật hóa ở trong đó, do đó nó cũng không có giá cả, vì theo lẽ thường, giá cả
không phải cái gì khác hơn là biểu hiện tiền tệ của giá trị. Giá cả đó chẳng qua là
một địa tô tư bản hóa" [33, tr. 291].
Có thể kết luận rằng: Đất đai tự nhiên không có giá trị, nhưng được đầu tư (lao
động quá khứ và lao động sống) thì đất có giá trị và biểu hiện bằng tiền của giá cả, giá
đất về thực chất chính là địa tô mà đất đai mang lại trong một số năm nhất định,
chính vì thế đất đai là một dạng hàng hóa đặc biệt, thị trường đất đai cũng là một
thị trường đặc biệt (thị trường bất động sản).
Nghiên cứu học thuyết về địa tô của C.Mác chúng ta thấy rằng: tính không
tái sản xuất được và không di chuyển được đất đai chỉ tạo ra địa tô cho giai cấp giữ
độc quyền ruộng đất chứ không hề ngăn cản đất đai trở thành hàng hóa, không hề
ngăn cản hình thành thị trường đất vận động theo các qui luật khách quan của thị
trường nói chung. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội dù đất đai thuộc sở
hữu toàn dân, nhưng khi còn sản xuất hàng hóa thì còn có thị trường đất đai.
Ở Việt Nam do những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội nên quan hệ đất
đai cũng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trước 1945 đất đai thuộc sở hữu của
địa chủ phong kiến và tư bản thực dân, người nông dân sống trong cảnh làm thuê,
cuốc mướn và nộp tô cho địa chủ, cường hào, quan lại và tư bản nước ngoài.


Sau khi hòa bình lập lại 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng tiếp tục
sự nghiệp cách mạng của Đảng, toàn dân hào hứng tiến hành công cuộc cải cách
ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, hơn hai triệu gia đình nông dân

được chia ruộng đất. Cầm tấm thẻ nhận ruộng, cắm trên mảnh ruộng được chia
người nông dân sung sướng trào ra nước mắt. Đây là lần đầu tiên trong đời họ, chế
độ sở hữu ruộng đất của những người nông dân được xác lập. Mơ ước ngàn đời
nay đã được thực hiện. Người nông dân thực sự trở thành người chủ sở hữu chân
chính ruộng đất của mình. Quyền sở hữu ruộng đất của người nông dân đã được
khẳng định trong cương lĩnh ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam lúc bấy giờ là
xóa bỏ chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, thực hiện chế độ sở
hữu của người nông dân. Trong sắc lệnh của Chủ tịch nước, cũng ghi: Người được
chia ruộng đất có quyền sở hữu ruộng đất đó, chính quyền cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu ấy, xóa bỏ mọi khế ước cũ người được chia ruộng có quyền chia gia
tài, cầm, bán cho ruộng đất mà mình được chia.
Như vậy chỉ từ sau khi công cuộc cải cách ruộng đất hoàn toàn thắng lợi
người nông dân mới thực sự trở thành người chủ chân chính có quyền sở hữu
ruộng đất của mình. Những quyền sở hữu ấy cũng chỉ tồn tại được một thời gian
không lâu. Từ 1959 trở đi sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp
đã tiến hành tập thể hóa ồ ạt, nhanh chóng, ruộng đất và những tư liệu sản xuất chủ
yếu khác của người nông dân chuyển thành sở hữu tập thể của hợp tác xã. Người
nông dân lúc này trở thành người chủ sở hữu hình thức. Quyền sở hữu thực sự đất
đai và tư liệu sản xuất, quyền sản xuất kinh doanh thuộc về tập thể và hợp tác xã.
Đối với miền Nam lúc này sở hữu ruộng đất tập trung vào tay giai cấp địa chủ
phong kiến, tư sản thực dân và một số rất ít gia đình nông dân khi hình thành trang
trại và sản xuất kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa.
Sau 1975 đất nước ta đã hoàn toàn thống nhất, ruộng đất được điều cho các
gia đình nông dân một cách hợp lý. Công cuộc cải tạo nông nghiệp Miền Nam


cũng nhanh chóng được tiến hành đã biến toàn bộ đất đai ruộng vườn của nông dân
thành sở hữu tập thể của hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Sự chuyển đổi hình thức
sở hữu ruộng đất từ chỗ quyền sở hữu ruộng đất là của gia đình nông dân, sang chỗ
sở hữu ruộng đất là của tập thể hợp tác xã đã bộc lộ dần những hạn chế, những cản

trở làm cho sản xuất nông nghiệp ngày càng chậm phát triển, kinh tế nông nghiệp
nông thôn ngày càng đứng trước những khó khăn bế tắc đòi hỏi phải được tháo gỡ.
Đứng trước tình hình đó, ngày 18-1-1981 Ban bí thư Trung ương đã đưa ra
chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến người lao động. Chỉ thị khoán 100 đến với
người nông dân như làn gió mới thổi vào nông nghiệp đáp ứng kịp thời những yêu
cầu đòi hỏi bức bách của sự phát triển nông nghiệp. Sức sản xuất trong nông
nghiệp được giải phóng, lao động nông nghiệp được phát huy cao độ, tận dụng mọi
nguồn lực và thời gian cho lao động sản xuất. Đồng thời quan hệ kinh tế mới trong
sản xuất nông nghiệp ra đời và phát triển, nông thôn đã có bước chuyển mình,
nông dân phấn khởi lao động sản xuất, quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển kích thích
người lao động hướng theo phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa, làm quen dần
tiền tệ với thị trường.
Khoán 100 ra đời, đi vào nông nghiệp đã phát huy nhiều mặt tích cực khơi
dậy sức sống cho nông nghiệp, nông dân. Song cũng còn bộc lộ những hạn chế đòi
hỏi phải khắc phục. Do đó chỉ thị khoán 100 đã được nghiên cứu bổ sung và hoàn
thiện bằng Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 6 của Trung
ương chủ trương khoán sản phẩm cuối cùng đến hộ; lấy hộ gia đình nông dân làm
đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất kinh doanh.
Với Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 6 của Trung ương, vai trò
kinh tế của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp lại có bước chuyển đổi quan trọng là
ruộng đất thuộc sở hữu tập thể không còn thích hợp. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VII đã chủ trương đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tách quyền sở hữu và
quyền sử dụng để giao quyền sử dụng ruộng đất cho hộ nông dân. Cùng với sự ra


đời của Hiến pháp 1992 và luật đất đai 1993 qui định, đất đai thuộc sở hữu toàn
dân và nhà nước thống nhất quản lý theo qui định chung, nhằm bảo đảm cho đất
đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân còn thể hiện
bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi vì đất đai là tài sản của cả dân tộc.
Mỗi tấc đất của chúng ta từ biên cương đến hải đảo đều thắm đượm mồ hôi, xương

máu của ông cha, của bao thế hệ nhân dân đã tạo lập và gìn giữ. Đất đai là tài
nguyên quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt của công nghiệp; là địa bàn phân bố
dân cư, là mặt bằng xây dựng các cơ sở kinh tế - văn hóa, an ninh, quốc phòng là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Xuất phát từ lợi ích của dân
tộc, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Đối với nông nghiệp, tuy ruộng đất vẫn thuộc sở hữu toàn dân, nhưng Nhà
nước giao cho hộ nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước qui định bằng pháp luật vấn
đề chuyển quyền sử dụng ruộng đất. Không thể tư hữu hóa ruộng đất, vì làm như
vậy sẽ dẫn đến phân hóa lớn về giai cấp, cản trở việc qui hoạch xây dựng kết cấu
hạ tầng và các cơ sở vật chất khác, làm căng thẳng thêm vấn đề tranh chấp ruộng
đất.
Quan điểm cho rằng muốn phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp
phải tư hữu hóa ruộng đất là hết sức sai lầm. Mà chỉ có quyền sử dụng ruộng đất,
hay nói đúng hơn là cách sử dụng tư liệu sản xuất mới liên quan đến vấn đề sản
xuất hàng hóa hay không. Nếu trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân thì tất
yếu dẫn đến tự do mua - bán đất. Như vậy sẽ xuất hiện bọn đầu cơ ruộng đất làm
cho giá cả ruộng đất tăng lên và sự phân hóa giai cấp càng thêm nhanh chóng. Tuy
nhiên không loại trừ việc cho phép chuyển quyền sử dụng ruộng đất khi một người
nào tìm kiếm được nghề khác hoặc không có người thừa kế sử dụng ruộng đất.
Người được quyền sử dụng ruộng đất phải trả cho người chuyển nhượng một
khoản bồi hoàn hoa màu và chi phí cải tạo đất. Khoản bồi hoàn này không phải là
giá cả ruộng đất mà thấp hơn giá cả ruộng đất. Bởi vì, giá cả ruộng đất theo đúng


nghĩa của nó là địa tô tư bản hóa, nó không ngừng tăng lên theo mức độ tăng của
địa tô và khan hiếm của ruộng đất.
Để khuyến khích nông dân đầu tư thâm canh, ứng dụng công nghệ mới
nhằm thu địa tô chênh lệch II, cần giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và qui
định được quyền thừa kế. Tuy vậy, quyền thừa kế cũng làm nảy sinh mâu thuẫn

giữa việc bảo đảm đủ phần ruộng khoán cho tất thảy mọi hộ nông dân với việc duy
trì qui mô ruộng đất canh tác tối ưu, nhất là qui mô nông trại. Trong điều kiện dân
số tăng nhanh, bình quân ruộng đất tính theo nhân khẩu rất thấp, quyền thừa kế tất
yếu dẫn đến làm tăng sự phân tán manh mún ruộng đất. Chỉ có thể khắc phục tình
trạng ấy bằng khai hoang tăng vụ, thâm canh và tổ chức dịch vụ, phát triển các
ngành nghề khác để rút bớt lao động ra khỏi trồng trọt, chứ không phải bằng cách
tư hữu hóa và cho phép tự do mua bán, bán ruộng đất. Điều đó đúng với tinh thần
Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: "Ruộng đất thuộc sở hữu
toàn dân được Nhà nước giao cho hộ nông dân sử dụng lâu dài" [8. tr. 116].
1.1.2. Vấn đề giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài để phát triển nông
nghiệp hàng hóa
Ruộng đất là sản phẩm tự nhiên, có trước lao động, vì thế nó là tài sản của
quốc gia. Khi con người xuất hiện khai thác và sử dụng ruộng đất vào cuộc sống,
vào sản xuất những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình,lao động của nhiều thế
hệ được kết tinh vào ruộng đất và ruộng đất trở nên có chủ sở hữu. Cùng với sự
xuất hiện của chế độ tư hữu, các chế độ sở hữu khác nhau về ruộng đất cũng hình
thành và phát triển. Lịch sử đã trải qua những hình thái kinh tế xã hội khác nhau,
với chế độ sở hữu ruộng đất khác nhau, nhưng theo C. Mác có ba loại sở hữu về
ruộng đất.
- Sở hữu ruộng đất của nhà nước.


- Sở hữu ruộng đất của địa chủ, quan lại, nhà tư bản C.Mác gọi đây là "chế
độ đại sở hữu ruộng đất được trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa" [33, tr.
532]
- Sở hữu ruộng đất của người nông dân tự do hay sở hữu ruộng đất của
người sản xuất nhỏ C. Mác gọi đây là chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ" [33, tr. 519].
Trong nền kinh tế thị trường, tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về
ruộng đất, trong đó sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân lớn và sở hữu tư nhân của
người sản xuất nhỏ là các hình thức cơ bản. Quá trình phát triển của lực lượng sản

xuất ngày càng cao sản xuất ngày càng đa dạng hóa, xuất hiện nhiều hình thức sở
hữu khác nhau về ruộng đất.
Mặt khác, quyền sở hữu ruộng đất bao gồm hai nội dung: quyền chiếm hữu
và quyền sử dụng. Hai mặt này có thể gắn với nhau trong một chủ thể sở hữu cũng
có thể tách rời khi nền kinh tế phát triển đến một trình độ phát triển nhất định. Sự
tách rời giữa quyền chiếm hữu và quyền sử dụng là một quá trình. Lúc đầu khi nền
kinh tế phát triển còn ở trình độ thấp, người chiếm hữu đồng thời là người sử dụng.
Người nông dân tự do sở hữu ruộng đất, thì họ vừa là người chiếm hữu vừa là
người sử dụng ruộng đất vào sản xuất nông nghiệp. Ngay trong thời kỳ đầu phát
triển của chủ nghĩa tư bản, nhà tư bản với tư cách là người chiếm hữu tư bản đồng
thời là người chủ kinh doanh. Vì vậy, quyền chiếm hữu và quyền sử dụng gắn vào
cùng một chủ thể kinh doanh. Song khi kinh tế phát triển, người sở hữu tài sản có
thể trực tiếp sử dụng tài sản của mình đề kinh doanh, cũng có thể giao cho người
khác sử dụng: địa chủ cho nông dân thuê ruộng đất, nhà tư bản sở hữu tiền tệ cho
nhà kinh doanh vay tư bản để sử dụng... Trong những trường hợp như vậy, quyền
chiếm hữu và quyền sử dụng tách với nhau.
Đối với nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tức là về mặt chiếm hữu đất
đai thuộc sở hữu quốc gia, sở hữu của toàn dân tộc. Nhà nước ta đã từng bước tách
quyền chiếm hữu và quyền sử dụng đất. Nhà nước giao đất cho người sử dụng đất


ổn định lâu dài hoặc có thời hạn, giao đất có thu tiền sử dụng đất và giao đất không
thu tiền sử dụng đất. Quan hệ đất đai đã dần dần ổn định, theo qui định của luật,
Chính phủ ban hành Nghị định số 64/CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ quy định
về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục
đích sản xuất nông nghiệp và Nghị định số 02/CP ngày 15-01-1994 của Chính phủ
ban hành quy định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Điều này có nghĩa đất đai
thuộc quyền chiếm hữu toàn dân nhưng quyền sử dụng lại được trao cho các chủ
thể kinh doanh trong nền kinh tế, trong đó chủ yếu là các hộ nông dân với tư cách
là đơn vị kinh tế tự chủ. Các chủ thể sử dụng ruộng đất có các quyền thừa kế, thế

chấp, chuyển nhượng, cho thuê và chuyển đổi. Tuy nhiên do đất đai thuộc quyền sở
hữu toàn dân nên quản lý toàn bộ đất đai là chức năng của nhà nước.
Nhưng tại sao quyền sử dụng ruộng đất lại được giao chủ yếu cho các hộ
nông dân. Bởi vì: trước hết là do đặc tính sinh học của sản xuất nông nghiệp. Trong
sản xuất nông nghiệp, do trình độ sản xuất hàng hóa chưa phát triển ở mức độ cao
như các lĩnh vực khác, hơn nữa do đặc thù của lĩnh vực sản xuất này. Cả con người
với tư cách là chủ thể sở hữu người lao động, cả đối tượng sản xuất là cây con, cả
công cụ lao động là con trâu con bò, và cả đất đai - tư liệu sản xuất đặc biệt là
những thực thể sinh học, cơ thể sống, có quá trình sinh trưởng và phát triển, suy
thoái theo các qui luật sinh học. Đặc tính sinh học này qui định sự tồn tại tất yếu của
kinh tế hộ nông dân. Ở đây luôn luôn chứa đựng mâu thuẫn khách quan giữa tồn
tại kinh tế hộ nông dân mang tính độc lập tương đối, bị qui định bởi tính sinh học
với việc nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp gắn với quá trình tích tụ, tập trung
và chuyên môn hóa. Chính đặc thù của sản xuất nông nghiệp đã qui định sự tồn tại
lâu dài của kinh tế hộ nông dân, kinh tế hợp tác và kinh tế nhà nước chỉ là sự bổ
sung, định hướng, đa dạng hóa hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất mà thôi.
Thứ hai, sở hữu ruộng đất ở nước ta là sở hữu toàn dân, Nhà nước là chủ sở
hữu, có quyền chiếm hữu, nhưng các chủ thể kinh tế, mà chủ yếu là kinh tế hộ
nông dân lại được giao quyền sử dụng. Đây là một đặc điểm quan trọng của sở hữu


ruộng đất, nó thể hiện mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước và nông dân, đồng thời
cũng quy định vai trò quản lý nhà nước đối với đất đai, nhưng sự can thiệp vào
quan hệ đất đai có thể với những mức độ khác nhau đối với từng loại đất; nhất là
đối với đất nông nghiệp.
Thứ ba, ruộng đất là mối quan tâm hàng đầu của người nông dân, phát triển
nông nghiệp, nông thôn trước hết phụ thuộc vào mối quan hệ của người nông dân
với ruộng đất và việc sử dụng có hiệu quả ruộng đất. Tách người nông dân ra khỏi
ruộng đất, làm cho họ không gắn bó với đất đai một thời gian đã dẫn nông nghiệp nông thôn nước ta vào con đường trì trệ, chậm phát triển. Vì vậy, khi chính sách
ruộng đất ra đời đã qui định trách nhiệm và quyền lợi của những người được giao

quyền sử dụng đất. Các chủ sử dụng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đai lâu dài, ổn định, có thể tự mình sắp xếp, bố trí đất đai hợp lý để sản xuất ra
những sản phẩm trong nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao. Việc giao quyền sử
dụng ruộng đất cho các hộ nông dân và xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự
chủ đã và đang từng bước khơi dậy tính năng động, giải phóng sức sản xuất, khôi
phục sự gắn bó lâu đời giữa người làm ruộng với ruộng đồng, giữa người lao động
với tư liệu sản xuất, từng bước họ vươn lên làm chủ cuộc sống, góp phần vào thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Thứ tư, sự biến đổi về quan hệ ruộng đất cũng đã tạo ra cơ sở và động lực
cho sự tự chủ của người nông dân. Đồng thời cũng là một yếu tố quan trọng vận động
theo quá trình phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp để thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn hướng giảm dần tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp, tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Cùng với xu hướng đó là
các ngành đều có tốc độ tăng trưởng phù hợp thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng mở rộng và tăng diện tích đất trồng các loại cây có giá trị kinh tế
cao, giá trị hàng hóa lớn, trên cơ sở phát triển một nền nông nghiệp thâm canh và ứng
dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu.


Thực hiện quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân cũng góp phần
quan trọng đối với việc chuyển đổi hình thức hợp tác xã hội kiểu cũ chuyển sang
phát triển kinh tế hộ, phù hợp đối với đất đai của sản xuất nông nghiệp, từng bước
hình thành hợp tác xã dịch vụ đa dạng trên cơ sở yêu cầu và tự nguyện của nông
dân, tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của
các doanh nghiệp nhà nước về nông, lâm nghiệp. Với việc thực hiện giao quyền sử
dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân như đã phân tích ở trên, sẽ có nhiều tác
dụng:
- Khuyến khích các hộ nông dân đầu tư, thâm canh, làm tăng độ phì của đất,
khai thác mọi tiềm năng của ruộng đất và làm cho người nông dân gắn bó thân

thiết với ruộng đất.
- Kích thích phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, thúc đẩy phân công lao
động ở nông thôn. Khi công nghiệp và dịch vụ phát triển, nông dân dễ dàng chuyển
sang làm nghề khác và tập trung ruộng đất vào những hộ làm tốt việc nhà nông.
- Bảo đảm được quyền kiểm soát của nhà nước, đặc biệt là nội dung quản lý
nhà nước về đất đai, nghiêm trị những hành vi hủy hoại ruộng đất, qui định chặt
chẽ quyền sử dụng đối với đất đai khi xây dựng những công trình có liên quan tới
đất đai và ruộng đất canh tác.
- Tăng cường vai trò quản lý nhà nước về đất đai để cho người nông dân họ
yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, sử dụng ruộng đất có hiệu quả. Kiểm soát nhà
nước về thừa kế và sử dụng ruộng đất về tài sản về chuyển nhượng sử dụng đất sẽ
hạn chế sự phân hóa và phân chia thành giai cấp đối kháng ở nông thôn. Quan hệ
sở hữu nói trên sẽ thúc đẩy sự hình thành hộ nông dân - đơn vị kinh tế tự chủ kinh
doanh hàng hóa và hình thức hiệp tác trong sản xuất theo hình thức mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của vấn đề giao quyền sử dụng
ruộng đất lâu dài vẫn còn bộc lộ một số mặt hạn chế: Đó là việc sử dụng ruộng đất
chưa cao, qui mô ruộng đất của mỗi hộ nông dân quá nhỏ bé, lại phân bổ không


đồng đều giữa các hộ. Đất nông nghiệp của từng hộ quá phân tán, manh mún, cản
trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn. Bình quân
mỗi hộ có từ 9-10 mảnh. Miền núi, trung du phía Bắc bình quân 1 hộ có 15 -20
thửa, mỗi thửa có diện tích từ 150-300m2. Đồng bằng Bắc Bộ bình quân một hộ có
7 thửa cá biệt đến 25 thửa, mỗi thửa có diện tích từ 300 - 400 m 2. Khu bốn cũ có từ
7 - 10 thửa, cá biệt có 30 thửa, diện tích từ 300 - 500 m 2. Duyên hải miền Trung có
từ 5-10 thửa, cá biệt có 30 thửa, diện tích từ 300 - 1000 m 2. Tây Nguyên có từ 5
-10 thửa, cá biệt có 10 thửa diện tích từ 200 - 500 m 2. Đông Nam Bộ có 4 thửa, cá
biệt có 15 thửa và đồng bằng sông Cửu Long có 3 thửa, cá biệt có 10 thửa diện tích
từ 3000 - 5000 m2 [28, tr. 25]. Trong khi đó dân số, nhất là số khẩu, số hộ trong
nông thôn tăng nhanh, thì ngược lại diện tích lúa nước và rừng ngày càng suy

giảm. Nếu tính từ năm 1980 - 1985 đất ruộng lúa mất khoảng 376.000ha, mỗi năm
mất khoảng 75.000 ha, chiếm tỷ lệ 1,6%; từ năm 1986 - 1997, mỗi năm còn mất tới
20.000ha, chiếm tỷ lệ 0,5%. Đối với đất rừng, mỗi năm mất đi 445.000ha, chiếm tỷ
lệ:4,8%. Những năm gần đây, khi thực hiện Nghị định 02/CP ngày 15/1/1994 (nay là
163/CP) về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, các hộ gia đình, các nhà sử dụng ổn
định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Mặc dù diện tích rừng đã được bổ sung khá
nhiều nhưng diện tích rừng vẫn suy giảm nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là
do lấy đất nông lâm nghiệp làm giao thông, thủy lợi, mở rộng đô thị, khu công
nghiệp... không có quy hoạch, hoặc không theo qui hoạch. Hơn nữa trong quá trình
chuyển đổi kinh tế, dưới tác động của nhiều yếu tố đã dẫn đến một số nông dân
không có đất và thiếu đất, đặc biệt ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên nhân là do
các hợp tác xã giải thể, một số hộ nông dân phải trả đất; nhiều hộ vì nhu cầu bức
xúc hoặc hoàn cảnh khó khăn nên phải sang nhượng cho người khác. Không ít hộ
do thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm sản xuất nên làm ăn thất bát phải bán ruộng đi làm
thuê. Có những người do lười lao động cờ bạc, rượu chè nên phải bán ruộng. Ở
Miền Bắc, thực hiện Nghị định 64/CP, đất đai được chia hết một lần cho những


người trực tiếp sản xuất nông nghiệp có mặt tại thời điểm chia, khi chết không rút
ra, không chia thêm cho những trường hợp mới sinh, chỉ để lại 5% đất công ích.
Trong khi đó dân số mỗi năm tăng thêm hơn 1 triệu người, số người không có công
ăn việc làm ở thành phố, cán bộ công nhân viên chức về hưu mất sức cũng đòi có
ruộng đất trong khi đất không còn để chia, dẫn đến tình trạng một bộ phận dân cư ở
nông thôn không có đất hoặc thiếu đất canh tác.
Từ những phân tích trên cho thấy cần phải giao quyền sử dụng ruộng đất cho
nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa. Đây là một vấn đề đòi hỏi rất lớn
nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu xã hội và sản phẩm nông nghiệp ngày
càng tăng với quy mô ruộng đất trong nông nghiệp ngày càng có hạn. Đồng thời
giải quyết tốt việc kết hợp phát triển sản xuất nông lâm nghiệp với việc giữ vững
cân bằng sinh thái và bảo vệ môi trường, đáp ứng với yêu cầu của cơ chế thị

trường, biến động đất đai thành hàng hóa đặc biệt, hình thành thị trường bất động
sản. Do vậy, phải nâng cao năng lực hiệu quả quản lý nhà nước với tư cách là chủ
thể quản lý nhà nước về kinh tế và là chủ sở hữu đất đai, đại diện cho sở hữu toàn
dân về ruộng đất trong quá trình thực hiện việc cấp giấy chứng nhận và giao quyền
sử dụng ruộng đất cho nông dân khi triển khai thực hiện Nghị định 64/CP.
1.2. GIAO QUYỀN SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT LÂU DÀI CHO NÔNG DÂN - MỘT
CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH LỚN CỦA ĐẢNG TA

1.2.1. Một số chủ trương của Đảng ta về giao quyền sử dụng đất cho
nông dân
Thực hiện công cuộc đổi mới, từ những năm cuối thập kỷ 80 đến nay, nông
nghiệp và nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật, góp phần tạo ra
những bước chuyển biến quan trọng về kinh tế- xã hội, nhưng cũng đã xuất hiện
nhiều thách thức mới về cục diện nông nghiệp và nông thôn. Một trong những
thành tựu nổi bật, khởi sắc mới của nông nghiệp nước ta trong thập kỷ vừa qua là
sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn đã được giải phóng. Từ một nền nông


nghiệp công hữu với hai hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu là nông lâm trường
quốc doanh và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, với cơ chế quản lý đặc trưng là kế
hoạch tập trung quan liêu, mệnh lệnh, hành chính, đang chuyển dần sang nền nông
nghiệp gồm nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức kinh doanh, nhiều cách
quản lý theo hướng sản xuất hàng hóa.
Nông nghiệp và kinh tế nông thôn có nhịp độ tăng trưởng khá, nhiều vùng
nông thôn bước đầu đã đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện. Mức sống về
vật chất tăng lên, các điều kiện sinh hoạt như nhà ở, đồ dùng gia đình, kết cấu hạ
tầng về giao thông, điện, thủy lợi, y tế, trường học... ở một số nơi phát triển vững
mạnh.
Những chuyển mình trong đời sống kinh tế - xã hội nông nghiệp - nông thôn
nước ta do nhiều nguyên nhân, trong đó có chính sách ruộng đất của Đảng và Nhà

nước ta. Bởi ruộng đất là mối quan tâm hàng đầu của người nhân dân. Sự phát triển
nông nghiệp - nông thôn trước hết phụ thuộc vào mối quan hệ của người nông dân
với ruộng đất và việc sử dụng có hiệu quả ruộng đất. Tách người nông dân ra khỏi
ruộng đất, làm cho họ không gắn bó với đất đai đã dẫn đến nông nghiệp - nông
thôn nước ta vào con đường trì trệ, chậm phát triển.
Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã
tổ chức triển khai trên thực tế mục tiêu cương lĩnh "Dân cày có ruộng". Năm 19551956, cải cách ruộng đất đã mang lại quyền và lợi ích cơ bản cho nông dân nói
riêng, nhân dân lao động nói chung, tạo ra động lực to lớn góp phần vào thắng lợi
của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Công cuộc hợp tác hóa
và những đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp - nông thôn những năm gần
đây, bằng những chính sách đổi mới của Đảng trên mặt trận nông nghiệp, bắt đầu
chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao
động, đến Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết TƯ 5 (khóa VII) đã tạo ra
động lực cho nông nghiệp - nông thôn phát triển.


Năm 1993, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký lệnh
công bố Luật đất đai -đạo luật quan trọng quy định chế độ quản lý và sử dụng đất
đai, quyền và nghĩa vụ người sử dụng đất. Đồng thời cũng ra đời sau đó là các văn
bản dưới luật có liên quan là cơ sở pháp lý, bước đầu tạo điều kiện tiền đề cho việc
xác lập ruộng đất là một yếu tố quan trọng vận động theo quá trình phát triển sản
xuất hàng hóa, đồng thời là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những chủ
trương chính sách lớn điểm Đảng ta là: Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của
Chính phủ về ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình,
cá nhân ổn định sử dụng lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp và một số quy
định ban hành theo Nghị định 64/CP.
- Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 của Chính phủ ban hành quy định về giao
đất lâm nghiệp cho tổ chức, các hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục
đích lâm nghiệp (chủ yếu nghiên cứu hộ gia đình và cá nhân).

Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài ổn định cho nông dân là một vấn đề
lớn trong quan điểm tư tưởng đối mới của Đảng mà Nghị quyết Đại hội đại biểu
lần thứ VII đã khẳng định. Đồng thời cũng là một nội dung cơ bản và quan trọng
nhất của chủ trương chung về giao quyền sử dụng đất đai cho người sử dụng mà
luật đất đai đã qui định. Thực hiện giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài ổn định,
cho nông dân là sự tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn nữa nội dung đổi mới sở
hữu trong khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng và nội dung đổi mới sở hữu trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung. Ở đây quan hệ sở hữu đã
được chuyển đổi, đất đai từ sở hữu tập thể đã chuyển sang sở hữu toàn dân. Quyền
sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất được tách rời nhau cho hai chủ thể khác nhau.
Quyền sở hữu là của nhà nước. Quyền sử dụng giao cho nông dân.
Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn nữa nội dung đổi mới sở hữu trong khu
vực kinh tế nông nghiệp là để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế hộ


gia đình, cho tăng cường kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể nhằm tạo điều kiện thúc
đẩy cho phát triển nông nghiệp nông thôn mới. Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu
dài cho nông dân mà nội dung cốt lõi của nó là để cho người nông dân có toàn
quyền sử dụng ruộng đất của mình một cách ổn định lâu dài trong những thời hạn
hợp lý nhất định. Trong suốt thời hạn đó người nông dân có toàn quyền sử dụng,
quyền hoạt động sản xuất kinh doanh, lao động canh tác trên mảnh đất của mình
được giao. Quyền sử dụng ruộng đất lâu dài của người nông dân có nội dung rất
phong phú:
Đó là quyền sản xuất kinh doanh, đầu tư lao động, vật tư tiền vốn, khoa học
kỹ thuật, quyền thâm canh tăng vụ... với mục đích là khai thác nguồn lực đất đai.
Bên cạnh quyền sử dụng ruộng đất lâu dài ổn định của nông dân, Nhà nước
còn quy định người nông dân có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế
chấp, cho thuê và góp vốn ruộng đất mà mình được giao. Thực chất nội dung của
những quyền này là nằm ngay trong nội dung của quyền sử dụng ruộng đất lâu dài
ổn định của người nông dân. Bởi vì những quyền này không phải là quyền chi phối

trực tiếp đối với ruộng đất, mà nó chỉ chi phối trực tiếp đến quyền sử dụng ruộng
đất của người nông dân mà thôi. Điều đó có nghĩa là người nông dân có quyền sử
dụng ruộng đất được giao và có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế
chấp, cho thuê quyền sử dụng đối với ruộng đất của mình. Khi người nông dân đã
thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng thừa kế, thế chấp, cho thuê (quyền sử
dụng đất của mình cho người khác), thì những người đó (người chấp nhận sự
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, chế chấp, cho thuê) mới là người có quyền sử
dụng ruộng đất ấy.
Từ một nước thiếu lương thực, qua 10 năm đổi mới, bằng một số chính sách
đất đai phù hợp (Nghị định 64/CP và Nghị định 02/CP...) Đảng đã đưa nông nghiệp
nước ta trở thành nền nông nghiệp có gạo xuất khẩu đứng thứ 2 - 3 trên thế giới. Với
những kinh nghiệm đó, trong những năm gần đây, vấn đề đất đai liên tục được


nghiên cứu và đề cập đến trong các nghị quyết lớn của Đảng và trong hệ thống
pháp luật của Nhà nước.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), Nghị quyết Trung ương 4
ban hành tháng 12/1997 đã giành một phần nội dung đáng kể cho vấn đề đất đai
với chủ trương "thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông
nghiệp hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm và thu nhập
cho nông dân". Nghị quyết T.Ư 4 đã chỉ ra các chủ trương cụ thể giúp mọi hộ nông
dân sản xuất, nông nghiệp có đất sản xuất; khuyến khích khai thác đất hoang, đồi
trọc để phát triển các trang trại, bổ sung thể chế để sử dụng và quản lý đất đai có
hiệu quả cao.
Tháng giêng năm 1998, Chính phủ ra Chỉ thị số 10/1998/CT-TTg đề ra các
biện pháp tích cực đẩy nhanh tốc độ giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho nông nghiệp, khuyến khích gắn với việc đổi ruộng thành thành ô thửa
lớn. Chỉ thị đã thúc đẩy nhanh quá trình giúp nông dân và nông thôn ổn định và
phát triển sản xuất hàng hóa. Thực hiện chỉ thị đó Ngành địa chính đã cùng các địa
phương trong cả nước phấn đấu nâng cao được tỷ lệ đất nông nghiệp được cấp giấy

chứng nhận lên đến gần 65% trong đó nhiều tỉnh trước đây đã cơ bản hoàn thành
công tác này; khoảng 600 xã đổi ruộng để có bình quân số thửa trên một hộ đạt 34 thửa. Đồng thời hạn chế được tình trạng nông dân chuyển nhượng trái phép
ruộng đất để trở thành đất không có sản xuất; số nông dân nghèo ở các địa phương
trọng điểm cũng từng bước được giảm dần.
Tháng 10/1998, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết Trung ương
6 (lần 1) về nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 1999, trong đó chỉ ra một số nhiệm vụ
quản lý đất đai để ổn định và phát triển kinh tế nông thôn. Tiếp đó Bộ Chính trị đã
ra Nghị quyết số 06/NQ/TƯ ngày 10-11-1998 về một số vấn đề phát triển nông
nghiệp và nông thôn cũng như chỉ ra biện pháp khắc phục để đạt các mục tiêu.
Trong đó, sự chậm chạp trong đổi mới chính sách đất đai, sự lạc hậu trong các quy


định của hệ thống pháp luật đất đai cũng như những khuyết điểm trong việc triển
khai thực hiện các chính sách, pháp luật đó được Đảng ta coi là một trong những
nguyên nhân chính cản trở sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn. Nghị quyết
đã chỉ ra một số chủ trương chính sách lớn. Để khuyến khích phát triển kinh tế hộ
Nghị quyết tiếp tục nhắc nhở sớm hoàn thành giao đất và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ nông dân trong cả nước. Nghị quyết chỉ thị rà soát, tổ
chức lại các nông lâm trường phải giao lại phần đất không sử dụng cho địa
phương, để địa phương giao lại cho hộ nông dân sản xuất, không được để sự bất
bình đẳng trong sử dụng đất giữa hộ nông lâm trường với hộ nhân dân địa phương
sở tại. Bộ Chính trị nêu rõ "Nhà nước qui định giá đất một cách công khai". Nhà
nước phải kiểm soát và quản lý chặt chẽ việc tích tụ đất đai, không để quá trình này
để diễn ra một cách tự phát làm cho nông dân mất ruộng, trở thành bần cùng. Bộ
Chính trị chỉ ra việc kết hợp các biện pháp kinh tế và hành chính để bảo vệ đất
canh tác lúa nước, tăng cường khai hoang để mở rộng diện tích trồng lúa nước.
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của luật đất đai 1993, tập trung khắc phục những cản trở ách tắc trong quản
lý và sử dụng đất đai, mở thêm khả năng cho nông nghiệp và nông dân và các tổ
chức cá nhân khác phát huy cao độ nội lực của mình để một mặt tập trung sử dụng

đất đai có hiệu quả cao nhất, mặt khác khai phá thêm ngày càng nhiều đất đai
hoang hóa, đất trống đồi trọc đưa vào sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, hệ thống chính sách và pháp luật đất đai của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn gần đây, nhất là chủ trương chính sách của Đảng ta về giao quyền
sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân đã tạo ra hành lang pháp lý ngày càng phù
hợp với nhu cầu khai thác và sử dụng đất đai để phát triển kinh tế-xã hội nói
chung, phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa và nông thôn nói riêng.
1.2.2. Tác động chủ trương của Đảng về giao quyền sử dụng đất lâu dài
để phát triển sản xuất nông nghiệp


Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai năm 1993 qui định, đất đai thuộc sở
hữu toàn dân và Nhà nước thống nhất quản lý theo qui định chung, nhằm bảo đảm
cho đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm đồng thời chủ trương của Đảng về
giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân để phát triển sản xuất nông
nghiệp theo tinh thần của Nghị định 64/CP ban hành ngày 27/9/1993 và Nghị định
02/CP (nay là 163/CP) về giao đất hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài
vào mục đích lâm nghiệp đã thực sự đi vào cuộc sống, tạo ra những chuyển biến
tích cực trên mặt trận nông nghiệp.
Bởi vì đất đai luôn luôn gắn bó với người nông dân đầu tư xa xưa, là vấn đề
mọi thời đại quan tâm. Ngày nay trong quá trình chuyển sang cơ chế mới, phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước thì đất đai lại càng có vị trí quan trọng. Do đó với chủ
trương này và quá trình hoàn thiện việc giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân và
các thành phần kinh tế có điều kiện để khai thác đất đai ngày càng có hiệu quả.
Trước thời kỳ Đảng ta thực hiện công cuộc đổi mới (từ năm 1986 trở về
trước) hộ gia đình chưa được coi là đối tượng trực tiếp giao đất, giao rừng, mà đất
có rừng và các loại đất canh tác đều được giao cho các lâm trường quốc doanh và
hợp tác xã quản lý. Do những yếu kém về công tác quản lý của các lâm trường
quốc doanh và hợp tác xã nông nghiệp, nên trong một thời gian dài đất đai không

được khai thác và sử dụng có hiệu quả.
Từ năm 1987 theo tinh thần đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà
nước, vấn đề giao đất, giao rừng cho hộ nông dân được bước đầu thực hiện. Đến
khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về "khoán hộ", đã khẳng định việc giao đất
canh tác cho các hộ xã viên là hợp lý, đồng thời đưa ra các phương thức sử dụng
đất đai khoán thầu và đấu thầu... Nghị quyết đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo
ra những bước chuyển biến tích cực trên mặt trận nông nghiệp.
Việc thừa nhận hộ nông dân là đơn vị tự chủ, được trao quyền sử dụng ruộng
đất lâu dài, khiến cho kinh tế hộ nông dân trở thành nhân tố giữ vai trò quyết định


đối với sự phát triển sản xuất nông sản và nông thôn. Điều này có mặt tích cực, đất
đai đã có người chủ cụ thể, trực tiếp - đó là các hộ gia đình nông dân. Từ đó làm
cho kinh tế của từng hộ có tư cách pháp nhân, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh trên ruộng đất của mình. Nó là động lực kích thích các hộ nông dân đầu tư
sức người, sức của để thâm canh, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, khai hoang
tăng vụ, phát triển ngành nghề trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nó làm cho
vị trí người nông dân từ chỗ lao động một cách thụ động theo sự quản lý, điều
hành của hợp tác xã, trở thành người vừa tham gia lao động sản xuất, vừa là người
tổ chức quản lý quá trình sản xuất của mình.
Chính sách ruộng đất bước đầu đã phân định rõ vai trò và trách nhiệm của
nhà nước, xóa bỏ dần việc nhà nước hóa trong hoạt động sản xuất kinh doanh có
liên quan đến ruộng đất. Cũng từ đó mà tăng cường quyền tối cao của nhà nước
pháp quyền về quản lý đất đai, bảo hộ tài nguyên đất đai, bảo đảm ruộng đất được
sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn.
Việc giao quyền sử dụng cho các hộ nông dân và xác định hộ nông dân là
đơn vị kinh tế tự chủ đã từng bước khơi dậy tính năng động giải phóng sức sản
xuất, khôi phục sự gắn bó lâu đời giữa người làm ruộng với ruộng đồng, giữa
người lao động với tư liệu sản xuất, từng bước họ vươn lên làm chủ cuộc sống, góp
phần vào thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh. Sự biến đổi trong quan hệ ruộng đất cũng tạo ra được cơ sở và động lực cho
sự tự chủ của người nông dân, trên cơ sở đó góp phần dân chủ hóa đời sống kinh
tế-xã hội ở nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Sự biến đổi quan hệ ruộng đất
trong những năm gần đây đã được quy định trong luật đất đai và các văn bản dưới
luật có liên quan là cơ sở pháp lý, bắt đầu tạo điều kiện tiền đề cho việc xác lập
ruộng đất là một yếu tố rất quan trọng vận động theo quá trình phát triển sản xuất
hàng hóa, đồng thời là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp, tăng tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Cùng với xu hướng đó là


×