Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Phân tích tính chất tự nguyện, tự quản tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.27 KB, 9 trang )

I. MỞ ĐẦU.
Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam có chung
mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và điều lệ, không vì lợi nhuận nhằm đáp ứng những
lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lí nhà nước, quản lí xã hội. Trong
giai đoạn hiện nay, khi quyền tự do, dân chủ của công dân ngày càng được chú trọng mở rộng
và bảo vệ thì các tổ chức xã hội ra đời ngày càng nhiều, có ý nghĩa quan trọng đối với chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Các tổ chức xã hội có những đặc điểm chung nhất định để phân biệt
với các cơ quan nhà nước và với tổ chức khác, trong đó có tính chất tự nguyện và tự quản trong
tổ chức và hoạt động là những đặc điểm quan trọng. Để hiểu hơn về vấn đề này, nhóm em xin
chọn đề tài “Phân tích tính chất tự nguyện, tự quản trong tổ chức và hoạt động của các tổ
chức xã hội được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước”.
II. NỘI DUNG.
1. Khái quát các tổ chức xã hội được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước.
1.1. Các tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
Để đáp ứng nhu cầu xã hội về việc làm, hỗ trợ lẫn nhau về chuyên môn nghiệp vụ, mở
rộng dân chủ… nhà nước ta cho phép hình thức tổ chức xã hội nghề nghiệp được thành lập và
hoạt động. Hoạt động nghề nghiệp của các tổ chức này đặt dưới sự quản lí của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Là 1 loại tổ chức xã hội nên tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng mang những đặc điểm
chung của tổ chức xã hội. Đó là: được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện của các thành viên
cùng chung 1 lợi ích hay cùng 1 giai cấp, cùng nghề nghiệp, sở thích; hoạt động tự quản theo
pháp luật của nhà nước và điều lệ do các thành viên của tổ chức xây dựng; hoạt động không
nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên; nhân
danh chính tổ chức mình để tham gia hoạt động quản lí nhà nước, chỉ trong trường hợp đặc biệt
do pháp luật quy định thì mới được nhân danh nhà nước.
Ngoài các đặc điểm chung của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp còn có 1 số
đặc điểm riêng, đó là:
+ đây là loại hình tổ chức xã hội do sáng kiến của nhà nước, nó được hình thành theo quy định
của Nhà nước. Điều này thể hiện: điều kiện thống nhất về thành viên do Nhà nước quy định
(thành viên của Đoàn luật sư trước hết phải là luật sư…), tổ chức và hoạt động đặt dưới sự quản
lí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;


+ các tổ chức xã hội nghề nghiệp được hình thành để hỗ trợ và phối hợp cùng cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết 1 số công việc xã hội;
+ tính chất nghề nghiệp của tổ chức xã hội nghề nghiệp được đề cao bởi nó không chỉ là sự
tập hợp các cá nhân để giúp đỡ giữa các thành viên của tổ chức mà hoạt động nghề nghiệp của

1

1


tổ chức xã hội còn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều cá nhân, tổ chức khác,
quyết định đến uy tín sự tồn tại và phát triển của tổ chức.
Các tổ chức xã hội nghề nghiệp là nguồn lực quan trọng giúp nhà nước thực hiện tốt
hơn chức năng quản lí của mình, có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong quản lí hành chính nhà nước. Một số tổ chức xã hội – nghề nghiệp tiêu biểu là
Trung tâm trọng tài, Đoàn luật sư…
1.2. Các tổ chức tự quản.
Các tổ chức tự quản được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước, hoạt động theo quy
định của Nhà nước nhằm mục đích thực hiện những nhiệm vụ tự quản trong một phạm vi nhất
định đối với các công việc mà Nhà nước không trực tiếp quản lí. Như tổ chức xã hội – nghề
nghiệp, các tổ chức tự quản cũng có các đặc điểm chung của tổ chức xã hội, bên cạnh đó, nó
cũng có những đặc điểm riêng để phân biệt với các tổ chức xã hội khác. Khác với các tổ chức
chính trị – xã hội là những tổ chức có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, được hình thành từ trung ương
xuống địa phương để hoạt động trong phạm vi cả nước thì các tổ chức tự quản thường được
thành lập theo chế độ bầu cử dân chủ, không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, không tạo thành hệ
thống, không được chia thành nhiều cấp trong cả nước. Các tổ chức tự quản không có điều lệ
hoạt động mà hoạt động theo pháp luật. Hoạt động của các tổ chức tự quản đặt dưới sự quản lí
trực tiếp của các cơ quan Nhà nước hữu quan và hoạt động trong 1 phạm vi nhất định. Các tổ
chức tự quản ở cơ sở có điều kiện gần dân, trực tiếp với dân, nắm chắc tình hình an ninh trật tự
ở địa phương giúp cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện tốt hơn hoạt động

quản lí hành chính ở địa phương. Ví dụ, tổ chức thanh tra nhân dân, tổ dân phố, tổ dân phòng…
2. Tính chất tự nguyện, tự quản của các tổ chức xã hội được thành lập theo sáng kiến của
Nhà nước.
2.1. Tính chất tự nguyện của các tổ chức xã hội được thành lập theo sáng kiến của Nhà
nước.
Các tổ chức xã hội được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước cũng được hình
thành trên nguyên tắc tự nguyện của các thành viên cùng chung một lợi ích hay cùng giai cấp,
nghề nghiệp, cùng giới tính, sở thích... Với những điểm chung đó, họ liên kết nhau lại, tìm
tiếng nói chung trong 1 hình thức tổ chức nhất định nhằm đáp ứng và bảo vệ những lợi ích
chính đáng của các thành viên. Do đó đây là dấu hiệu đặc trưng thể hiện quyền tự do của công
dân trong việc tham gia hoặc không tham gia vào một tổ chức nhất định. Các tổ chức xã hội
được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước đều xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của mỗi cá
nhân, không ai có quyền ép buộc người khác phải tham gia hoặc không tham gia, trên cơ sở tự
nguyện của các thành viên có chung một đặc điểm nào đó, ví du Đoàn Luật sư là tổ chức của
những người có cùng nghề nghiệp. Yếu tố tự nguyện còn được thể hiện ở việc kết nạp hay khai
trừ các thành viên hoàn toàn do tổ chức và các thành viên quyết định, Nhà nước không can

2

2


thiệp và cũng không sử dụng quyền lực Nhà nước để chi phối việc gia nhập, kết nạp thành viên
hay lựa chọn người đầu tổ chức các này mà vấn đề này do điều lệ quy định phù hợp với tôn chỉ,
mục đích hoạt động và dấu hiệu tập hợp thành viên của chính các tổ chức xã hội được thành lập
theo sáng kiến của Nhà nước.
* Các tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
Trong phạm vi bài viết, nhóm em xin phân tích tính chất tự nguyện trong tổ chức và hoạt
động của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp với 1 số tổ chức tiêu biểu: Trung tâm trọng tài,
Đoàn luật sư.

• Trung tâm trọng tài.
Trung tâm trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thương mại mà các bên tranh chấp là cá nhân kinh doanh hoặc
tổ chức kinh doanh. Đây là 1 tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu và có tài
khoản riêng. Tính chất tự nguyện của trung tâm trọng tài được thể hiện ở điều kiện tham gia
vào trung tâm trọng tài, đó là không ai có quyền ép buộc người khác phải tham gia hay không
tham gia vào Trung tâm trọng tài được thành lập khi có ít nhất năm sáng lập viên là công dân
Việt Nam có đủ điều kiện là Trọng tài viên quy định tại Điều 20 của Luật Trọng tài thương mại
năm 2010: “1. Những người có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể làm Trọng tài viên:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự;
b) Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên;
c) Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn
làm Trọng tài viên.
2. Những người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này nhưng thuộc một trong các
trường hợp sau đây không được làm Trọng tài viên:
a) Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức thuộc
Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án;
b) Người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong
bản án nhưng chưa được xóa án tích”.
Tính chất tự nguyện còn thể hiện ở việc kết nạp hay khai trừ các thành viên của trung
tâm trọng tài hoàn toàn do trung tâm trọng tài và quyết định, Nhà nước không sử dụng quyền
lực nhà nước để chi phối việc kết nạp hay khai trừ các thành viên của trung tâm trọng tài.
• Đoàn luật sư.
Đoàn được thành lập vì lợi ích và nhu cầu của các thành viên. Điều 7 Luật luật sư 2006
ra đời đã chính thức khẳng định “Tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư được thành lập để
đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vu luật sư,

3


3


giám sát việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, thực hiện
quản lí hành nghề luật sư theo quy định của luật này.
Tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư là Đoàn luật sư ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương và tổ chức luật sư toàn quốc”.
Cũng như trung tâm trọng tài, Đoàn luật sư có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con
dấu riêng và hoạt động bằng kinh phí do các luật sư đóng góp và các nguồn thu nhập khác. Tại
mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi có từ ba người có Chứng chỉ hành nghề luật sư
trở lên thì được thành lập Đoàn luật sư và việc thành lập này dựa trên sự tự nguyện của họ. Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho phép thành lập Đoàn luật sư sau khi
thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Công dân Việt Nam có đủ điều kiện gia nhập đoàn luật
sư, tự nguyện xin gia nhập thì đều có thể trở thành thành viên của Đoàn. Tiêu chuẩn thành viên
được quy định cụ thể trong Luật luật sư và Điều lệ Đoàn, đó là: Là công dân Việt Nam thường
trú tại Việt Nam; là luật sư (khoản 4 Điều 60); có phẩm chất đạo đức tốt; không phải là cán bộ,
công chức theo quy định của Luật cán bộ, công chức.
Những người không được gia nhập Đoàn luật sư là: Người đang bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; người đang bị quản chế hành chính; người bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân
sự; là cán bộ, công chức bị buộc thôi việc mà chưa hết thời hiệu 3 năm kể từ ngày quyết định
buộc thôi việc có hiệu lực.
Các thành viên của Đoàn luật sư tự giác chấp hành Điều lệ và thủ tục gia nhập của Đoàn,
tự nguyện đóng phí gia nhập Đoàn luật sư, phí thành viên của Đoàn. Ví du, theo Điều 28 Điều
lệ Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, mỗi luật sư thành viên đóng 80.000đ/1 tháng. Trong đó:
Phí thành viên của Đoàn luật sư 50.000 đồng ; Phí thành viên của Liên đoàn luật sư 30.000
đồng; Mỗi luật sư khi gia nhập Đoàn luật sư thành phố Hà Nội góp quỹ 10.000.000đ/người.
* Các tổ chức tự quản.
Điều 3, Hiến pháp 1992 khẳng định “nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền
làm chủ về mọi mặt của nhân dân”. Quyền được tham gia vào quản lý các công việc của nhà
nước và xã hội là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và trên thực tế nó đã

được bảo đảm thực hiện thông qua hàng loạt những hoạt động cụ thể. Ở nơi cư trú, sinh hoạt,
làm việc, nhân dân lao động thường xuyên thực hiện các hoạt động mang tính chất tự quản.
Trên thực tế, các hoạt động này được tiến hành một cách có hiệu quả bởi lẽ chúng rất gần gũi
và thiết thực đối với cuộc sống của mỗi người dân như: hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, vệ
sinh môi trường, tổ chức đời sống công cộng … Nguyên tắc tự nguyện được thể hiện ở chỗ các
tổ chức này được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện của những thành viên cùng chung lợi
ích hay cùng giai cấp... Nhân dân có quyền tự do tham gia vào các tổ chức tự quản mà không bị
ép buộc từ bất kì cá nhân hay tổ chức nào khác.

4

4


Ví du như Ban thanh tra nhân dân là tổ chức thanh tra của quần chúng, là hình thức tổ
chức đại diện cho tập thể người lao động, thực hiện quyền giám sát, kiểm tra đối với mọi tổ
chức, cá nhân trong cơ quan về việc thi hành chính sách, pháp luật, nghị quyết của Nhà nước.
2.2. Tính chất tự quản của các tổ chức xã hội được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước.
Các tổ chức xã hội được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước hoạt động tự quản theo
quy định của pháp luật và theo điều lệ do các thành viên trong tổ chức xây dựng. Mô hình tổ
chức tự quản được hiểu là các thành viên của tổ chức xã hội này tự quy định cách thức quản lí
của tổ chức mình tham gia thông qua điều lệ của tổ chức mà không cần sự can thiệp từ bên
ngoài. Nói cách khác là các thành viên của các tổ chức xã hội được thành lập theo sáng kiến
của nhà nước tự quyết định nội dung quản lí của tổ chức mình như việc kết nạp đoàn viên, bầu
ban lãnh đạo, tôn chỉ mục đích hoạt động của tổ chức mình. Nhà nước không trực tiếp can thiệp
vào công việc nội bộ của các tổ chức xã hội này, không sử dụng quyền lực nhà nước để sắp xếp
người lãnh đạo tổ chức hay cách thức của họ trong các tổ chức xã hội đó. Các tổ chức xã hội
nghề nghiệp có điều lệ do toàn thể thành viên hoặc đại biểu thành viên thông qua. Điều lệ này
không được trái pháp luật và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn. Việc Nhà nước
phê chuẩn điều lệ hoạt động là kiểm tra, đánh giá tính hợp hiến, hợp pháp của các điều lệ đó.

Điều lệ hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp không quy định quyền và nghĩa vụ
pháp lí của các tổ chức xã hội, không xác định năng lực chủ thể của các tổ chức xã hội trong
quản lí nhà nước và chỉ có hiệu lực đối với các thành viên của tổ chức, mà vấn đề này do Nhà
nước quy định trong các văn bản pháp luật về hội như Hiến pháp, Luật luật sư, pháp lệnh trọng
tài thương mại… Trong khi đó, các tổ chức tự quản không có điều lệ hoạt động mà hoạt động
tự quản theo pháp luật. Trong quá trình hoạt động, các tổ chức xã hội này tự xử lí và giải quyết
các công việc nội bộ của mình, Nhà nước không can thiệp nếu hoạt động của các tổ chức xã hội
được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước không trái pháp luật.
* Các tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
• Trung tâm trọng tài.
Trung tâm trọng tài hoạt động tự quản theo quy định của pháp luật và điều lệ của mình. Nhà
nước không trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của trung tâm trọng tài, không sử dụng
quyền lực nhà nước để sắp xếp người lãnh đạo hay cơ cấu tổ chức của trung tâm trọng tài.
Trung tâm trọng tài được lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước, nước ngoài theo quy
định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hoạt động của chúng. Cơ cấu, bộ máy của Trung
tâm trọng tài do điều lệ của Trung tâm quy định theo đó, Trung tâm trọng tài có Ban điều hành
và Ban thư ký. Ban điều hành Trung tâm trọng tài gồm có Chủ tịch, một hoặc các Phó Chủ tịch,
có thể có Tổng thư ký do Chủ tịch Trung tâm trọng tài cử, Chủ tịch Trung tâm trọng tài phải là
Trọng tài viên. Nghị định 63/CP ngày 28 tháng 07 năm 2011 hướng dẫn luật trọng tài thương
mại 2010 quy định về điều lệ của trung tâm trọng tài đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

5

5


phê chuẩn tại Điều 7. Điều lệ của trung tâm trọng tài chỉ điều chỉnh các quan hệ trong nội bộ
của tổ chức và chỉ có hiệu lực với các thành viên của tổ chức. Trong quá trình hoạt động, trung
tâm trọng tài tự xử lí các công việc nội bộ của mình, Nhà nước chỉ can thiệp khi hoạt động của
trung tâm trọng tài trái với quy định của pháp luật. Ví dụ, Theo Điều lệ, trung tâm trọng tài

thương mại Hà Nội có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương
mại bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vu; phân phối đại diện, đại lý thương mại; ký
gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân
hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng
không, đường biển, đường sắt, đường bộ v.v... Nhà nước sẽ không can thiệp vào hoạt động trên
của trung tâm trọng tài thương mại Hà Nội trừ trường hợp trái với quy định của pháp luật.
• Đoàn luật sư.
Một trong những nội dung tự quản của Đoàn luật sư liên quan tới cơ cấu tổ chức của
Đoàn luật sư. Theo Luật thì cơ quan của Đoàn luật sư bao gồm Hội nghị toàn thể luật sư; Ban
chủ nhiệm; Hội đồng khen thưởng kỷ luật; Văn phòng Đoàn luật sư. Nhà nước không can thiệp,
không sử dụng quyền lực nhà nước để sắp xếp người lãnh đạo hay cách thức tổ chức của Đoàn
luật sư. Ví du, Ban chủ nhiệm của Đoàn luật sư thành phố Hà Nội là cơ quan chấp hành của Hội
nghị toàn thể luật sư hoặc hội nghị đại biểu luật sư. Hội nghị bầu ra Ban chủ nhiệm, sau đó từ
số các thành viên đã trúng cử vào Ban chủ nhiệm, Hội nghị bầu ra Chủ nhiệm. Ban chủ nhiệm
gồm Chủ nhiệm, các phó chủ nhiệm và các uỷ viên. Điều 23 Điều lệ của Đoàn luật sư thành
phố Hà Nội quy định “khi cần thiết Ban chủ nhiệm có thể tổ chức các ban để giúp Ban chủ
nhiệm nghiên cứu hoặc thực hiện một số công việc nhất định”. Điều 24 Điều lệ quy định
“Những người trong Ban chủ nhiệm bao gồm Chủ nhiệm và uỷ viên thường trực được hưởng
một khoản phu cấp thường xuyên hàng tháng còn các thành viên khác trong Ban chủ nhiệm,
các thành viên Hội đồng khen thưởng kỷ luật được bồi dưỡng về những ngày làm việc”.
Hội nghị toàn thể luật sư là cơ quan cao nhất của Đoàn luật sư, họp thường lệ mỗi năm 2
lần và họp bất thường khi cần thiết hoặc theo yêu cầu của ít nhất ½ số thành viên của Đoàn. Tất
cả những vấn đề như bầu, bãi, miễn chủ tịch, các ủy viên; thông qua, sửa đổi, bổ sung nội quy
của Đoàn; quyết định mức hội phí, các chế độ tài chính… do Hội nghị toàn thể luật sư quyết
định. Hội đồng luật sư là cơ quan thường trực của Đoàn luật sư do Hội nghị toàn thể luật sư
bầu, có nhiệm kì 3 năm. Cơ cấu gồm: chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên. Hội đồng luật sư có
nhiệm vụ giám sát hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Một nội dung tự quản khác trong Đoàn
luật sư là quan hệ giữa Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư với các tổ chức hành nghề luật sư. Điều 27
Điều lệ quy định: “Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư có những quyền hạn và nhiệm vu sau đây đối
với tổ chức hành nghề luật sư:

1. Bồi dưỡng các luật sư trong các tổ chức hành nghề về chính trị, nghiệp vu, đạo đức luật sư;

6

6


2. Giám sát hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư; giải quyết các khiếu nại, tố cáo đối
với luật sư hoặc tổ chức hành nghề luật sư, yêu cầu luật sư hoặc tổ chức hành nghề luật sư
chấm dứt việc làm trái pháp luật; Đưa ra Hội đồng khen thưởng kỷ luật xem xét những trường
hợp luật sư vi phạm kỷ luật;
3. Hoà giải những tranh chấp giữa luật sư với khách hàng, giữa các luật sư hoặc tổ chức hành
nghề luật sư.
4. Tổ chức tổng kết hoạt động của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư;
5. Phản ảnh, báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các khó khăn của các luật sư
và tổ chức hành nghề luật sư; bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư và tổ chức
hành nghề luật sư”.
Trong quá trình hoạt động, Đoàn luật sư tự xử lí và giải quyết các công việc nội bộ của
mình, Nhà nước sẽ không can thiệp nếu hoạt động của Đoàn luật sư không trái pháp luật. Ví du,
Điều 36 Điều lệ Đoàn luật sư thành phố Hà Nội quy định:
“1. Ban Chủ nhiệm tiếp nhận đơn thư, chuyển đến Hội đồng khen thưởng, kỷ luật thu lý
thực hiện nhiệm vu, quyền hạn theo khoản 4 Điều 25 Điều lệ này. Quyết định của Ban chủ
nhiệm xét kỷ luật được thông qua khi được ít nhất 2/3 số thành viên Ban chủ nhiệm biểu quyết
tán thành.
2. Khi Ban chủ nhiệm xét, xử lý kỷ luật, luật sư bị xét kỷ luật được tham dự để tự bảo vệ
quyền lợi của mình hoặc nhờ luật sư khác bênh vực cho mình. Đại diện tổ chức hành nghề luật
sư nơi luật sư công tác có thể tham gia và phát biểu ý kiến.
3. Trường hợp luật sư bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách luật sư,
Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề, đề nghị Liên
đoàn luật sư thu thồi Thẻ luật sư và thông báo bằng văn bản cho Sở Tư pháp”.

* Các tổ chức tự quản.
Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào việc sắp xếp các thành viên của tổ chức hay cách
thức của họ. Các tổ chức tự quản hoạt động tự quản theo pháp luật. Được thành lập theo sáng
kiến của Nhà nước, hoạt động theo quy định của Nhà nước, các tổ chức thanh tra nhân dân, tổ
dân phố, dân phòng,... thực hiện nhiệm vụ tự quản của mình trong một phạm vi nhất định mà
Nhà nước không trực tiếp quản lí. Các tổ chức này thường được thành lập theo nguyên tắc bầu
cử dân chủ, hoạt động đặt dưới sự quản lí trực tiếp của các cơ quan Nhà nước hữu quan. Ví dụ
về việc bãi nhiệm, miễn nhiệm thành viên Ban Thanh tra nhân dân và bầu thành viên thay thế
trong điều 26, Nghị định 99/2005/NĐ-CP ngày 28/7/2005:
". 1. Trong nhiệm kỳ, nếu thành viên Ban Thanh tra nhân dân không hoàn thành nhiệm
vu, vi phạm pháp luật hoặc không còn được tín nhiệm thì Ban Chấp hành công đoàn cơ sở tổ
chức hội nghị để bãi nhiệm thành viên đó và bầu người khác thay thế. Việc bãi nhiệm và bầu
người khác thay thế được tiến hành tại Đại hội công nhân, viên chức hoặc Đại hội đại biểu

7

7


công nhân, viên chức thường kỳ hàng năm hoặc hai năm một lần ở cấp Tổng công ty nhà nước.
2. Trong trường hợp vì lý do sức khỏe, hoàn cảnh gia đình hoặc lý do khác, thành viên Ban
Thanh tra nhân dân có đơn xin thôi tham gia Ban Thanh tra nhân dân thì Ban Chấp hành công
đoàn cơ sở xem xét, quyết định việc miễn nhiệm. Hay như đối với tổ dân phố thì Hội nghị thôn,
tổ dân phố được tổ chức định kỳ 6 tháng một lần (trừ trường hợp bất thường) do Trưởng thôn,
Tổ trưởng dân phố triệu tập và chủ trì. Hội nghị có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Trưởng
thôn, Tổ trưởng dân phố khi có trên 50% số cử tri hoặc đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân
phố tham dự.
III. KẾT LUẬN.
Các tổ chức xã hội được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước có vai trò rất lớn đối với
việc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lí hành chính Nhà nước. Các tổ chức này ra

đời đã góp phần quan trọng trong việc giúp đỡ các cơ quan nhà nước đặc biệt là cơ quan quản lí
hành chính nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lí của mình. Các tổ chức xã hội được thành
lập theo sáng kiến của nhà nước là các tổ chức phi Chính phủ hoạt động vì mục đích đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong tổ chức. Việc đảm bảo tính chất tự nguyện,
tự quản trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội được thành lập theo sáng kiến của
nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức này phát huy được vai trò của mình trong cuộc
sống.

8

8


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb.CAND, Hà Nội –
2008.
- Nghị định 138/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định
của Luật luật sư về tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư.
- Luật trọng tài thương mại năm 2010.
- Nghị định 99/2005/NĐ-CP ngày 28/7/2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành 1 số điều
của Luật thanh tra về tổ chức và hoạt động của ban thanh tra nhân dân.
- Điều lệ Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.
- Điều lệ trung tâm trọng tài thương mại Hà Nội.
- Nghị định 63/CP ngày 28 tháng 07 năm 2011 hướng dẫn luật trọng tài thương mại 2010.
- Luật luật sư năm 2006.

9

9




×