Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Đề tài Tiểu luận Phân cấp trong quản lý hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.72 KB, 13 trang )

Đề tài Tiểu luận môn "Phân cấp trong quản lý hành chính" là: Qua
nghiên cứu Chương V "Phi tập trung hóa: cái gì, khi nào và như thế nào"
(Sách "Phục vụ và duy trì"), anh, chị rút ra được những điều gì tâm đắc
nhất cho bản thân mình?
Bài làm
Đọc chương 5 của quyển sách “Phục vụ và duy trì” bản thân tôi đã
rút ra nhiều điều tâm và điều đắc nhất là vấn đề phân cấp, phân quyền ở
chính quyền địa phương hiện nay.
Trong những năm qua, vấn đề phân cấp, phân quyền luôn được
nhắc đến như là một giải pháp quan trọng trong quá trình cải cách hành
chính.Thực chất của vấn đề phân cấp, phân quyền là hoạt động hay một
quá trình sắp xếp, bố trí quyền quyết định đến cấp thấp hơn trong cơ cấu
thứ bậc của tổ chức. Mỗi một tổ chức có cơ cấu thứ bậc. Tập trung một số
lĩnh vực vào một cấp; trong khi đó nhiều lĩnh vực sẽ thực hiện phân cấp,
phân quyền cho các cấp thấp hơn. Trong giới hạn chủ đề này, chúng ta
chỉ bàn đến việc phân cấp, phân quyền trong khu vực công, nhà nước và
chủ yếu là việc phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước giữ chính quyền
trung ương và chính quyền địa phương.
Thực tế không có mô hình giống nhau trong phân cấp, phân quyền.
Nghĩa là không có mô hình chung mà tùy vào điều kiện cụ thể, loại vấn
đề và loại hình tổ chức mà đưa ra mô hình cụ thể cho mỗi quốc gia, vùng
lãnh thổ. Tuy nhiên, làm thế nào để đạt được mục tiêu của việc trao
quyền cho chính quyền địa phương hoạt động có hiệu quả ở địa phương
lại là một vấn đề không nhỏ. Kinh nghiệm thực tế của các nước cũng như
các nghiên cứu học thuật trên thế giới cho thấy một số điều kiện cần thiết
cho việc phân cấp thành công như sau:
Một điều kiện cần thiết đầu tiên cho chính quyền địa phương vững
mạnh là sự tồn tại ổn định. Rõ ràng, chính quyền địa phương không thể
thực hiện tốt chức năng của mình nếu không có sự ổn định bởi khả năng
của chính quyền cấp trên có thể giải tán cấp dưới dễ dàng hoặc thay đổi
lãnh thổ của họ (ví dụ, hợp nhất chúng với các khu vực lân cận). Sự tồn


tại ổn định đòi hỏi các tổ chức, nhân sự của chính quyền địa phương phải
được đảm bảo bằng văn bản (Luật) hóa các tiêu chí về chế độ thành lập,
giải tán, cách chức, bổ nhiệm…
Phân cấp, giao quyền cho địa phương là quy luật tất yếu khách
quan để các địa phương tự quyết, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của
địa phương mình. Thực tế cho thấy chúng ta đã đẩy mạnh việc phân cấp,
giao quyền chủ động cho địa phương. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập
trong phân cấp quản lý giữa Trung ương và chính quyền các cấp, đó
chính là lý do tôi lựa chọn vấn đề phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà
nước giữa trung ương và địa phương là vấn đề mà tôi tâm đắc nhất.
1


Phân cấp là hình thức đưa chính phủ lại gần hơn với người dân,
giúp cho các hoạt động và quyết định của khu vực công phù hợp với lợi
ích chung của nhân dân. Có thể định nghĩa phân cấp theo một số khía
cạnh sau:
Hiện nay, có một số quan niệm khác nhau xung quanh khái niệm
“phân cấp”. Theo một số tác giả, phân cấp chính là phân quyền giữa trung
ương và địa phương. Phân cấp là phân ra, chia thành các cấp, các hạng.
Phân cấp có sự chuyển giao quyền lực quản lý xuống các cấp dưới để
thực hiện cho sát dân và sát tình hình thực tiễn, đồng thời, để giảm bớt
khối lượng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải quyết những việc sự vụ.
Việc phân cấp phải gắn trách nhiệm với quyền hạn rõ ràng và bảo đảm
tính thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Có quan niệm khác cho rằng,
phân cấp có thể theo hai hướng: một hướng nằm ngang là sự phân chia
căn cứ vào sự khác nhau của các công việc của một cấp; hướng nằm dọc
(thẳng đứng) là sự phân chia theo cơ cấu thứ bậc công việc giữa các cấp
khác nhau.
Có ý kiến cho rằng, cần phân biệt “phân cấp quản lý” với một số khái

niệm gần với nó là phân công, phân nhiệm, phân quyền vì “phân công và
phân nhiệm đều để chỉ sự xác định quyền hạn, trách nhiệm cả theo chiều
ngang và chiều dọc. Thông thường, người ta sử dụng khái niệm phân
công để chỉ quan hệ theo chiều ngang với dụng ý phân biệt nó với phân
cấp. Nếu phân quyền được hiểu là phân giao quyền hạn cho một cơ quan
hoặc một cấp chính quyền nào đấy thì thực ra sử dụng thuật ngữ phân
công và phân cấp là đầy đủ và chính xác hơn”.
Như vậy, cho đến nay, mặc dù được sử dụng một cách rộng rãi, song cách
hiểu về phân cấp còn chưa hoàn toàn thống nhất.
Dưới góc độ ngôn ngữ, “cấp” được hiểu là loại hạng trong một hệ thống
(xếp theo trình độ cao thấp, trên dưới). Từ đó, phân cấp quản lý được cắt
nghĩa là giao bớt một phần quyền quản lý cho cấp dưới, quy định nhiệm
vụ và quyền hạn cho mỗi cấp. Như vậy, ở đây có hai nội dung cần lưu ý
là chuyển giao thẩm quyền cho cấp dưới và xác định thẩm quyền của mỗi
cấp trong đó.
Hiện nay, căn cứ vào cách phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ
mà ở Việt Nam hình thành các cấp chính quyền: trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện và cấp xã. Phân cấp quản lý nhà nước, trước hết được hiểu là phân
cấp giữa trung ương với chính quyền cấp tỉnh; đồng thời, còn bao hàm cả
phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau.
Theo các văn kiện của Đảng, phân cấp được tiến hành theo hướng
“phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và
quản lý lãnh thổ và trên cơ sở nguyên tắc “chính quyền trung ương quản
lý tập trung một số lĩnh vực theo ngành dọc được xác định từ yêu cầu
thực tế. Đối với một số lĩnh vực khác, trung ương trực tiếp quản lý một
phần, còn một phần phân cấp cho địa phương quản lý”. Cũng với tinh
2


thần đó mà hiện nay, phân cấp được hiểu là việc chuyển giao nhiệm vụ,

thẩm quyền từ cơ quan quản lý nhà nước cấp trên xuống cơ quan quản lý
cấp dưới nhằm đạt mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả quản lý.
Việc chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn chỉ có thể được tiến hành
một khi thẩm quyền và trách nhiệm của cấp chuyển giao và cấp được
chuyển giao đã được xác định hết sức rõ ràng. Vì vậy, bản thân khái niệm
phân cấp phải hàm chứa trong đó nội dung phân định thẩm quyền của
từng cấp hay nói một cách khác, phân định thẩm quyền là tiền đề cho việc
chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn (hoặc rộng hơn nữa, điều chỉnh khối
lượng nhiệm vụ, quyền hạn cho phù hợp với khả năng và điều kiện thực
tế của mỗi cấp chính quyền).
Trên cơ sở những lập luận đó, có thể đưa ra khái niệm về phân cấp
quản lý nhà nước như sau: Phân cấp quản lý nhà nước là sự phân định
thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự
phù hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm quyền với năng lực và điều
kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu
quả của hoạt động quản lý nhà nước.
Công cuộc đổi mới đất nước, sự phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và xu hướng mở cửa, hội nhập quốc tế tạo ra
những tiền đề và đòi hỏi phải đổi mới, tăng cường phân cấp quản lý nhà
nước giữa Trung ương và địa phương nhằm phát huy mạnh mẽ tính năng
động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa
phương các cấp trong quản lý, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn.
Để đẩy mạnh cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước hiện nay, cần tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà
nước giữa Trung ương và địa phương, tập trung vào phân cấp nhiệm vụ,
thẩm quyền, trách nhiệm giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) trên các lĩnh vực
chủ yếu nhất: quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển; ngân sách
nhà nước; đất đai, tài nguyên; doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự
nghiệp, dịch vụ công; tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức. Trên cơ sở đó,
để tiếp tục phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền địa phương các

cấp (tỉnh - huyện - xã).
Quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về
phân cấp quản lý, những năm qua Chính phủ đã có nhiều giải pháp tích
cực, cụ thể để đổi mới, tăng cường phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung
ương và địa phương. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp đã
được tăng thêm thẩm quyền, trách nhiệm trong việc quyết định quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; quyết định các
dự án đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; phân bổ và điều hành ngân
sách địa phương; quản lý đất đai, tài nguyên, doanh nghiệp; quản lý các

3


hoạt động sự nghiệp và quyết định một số vấn đề về tổ chức bộ máy, cán
bộ công chức. Từ việc thí điểm phân cấp nhiều hơn cho Thủ đô Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh trong một số lĩnh vực, đã rút ra những bài học
bổ ích để tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ
và chính quyền cấp tỉnh.
Những kết quả đạt được về phân cấp những năm vừa qua đã phát
huy được tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương; khai thác
các nguồn lực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, phục vụ tốt hơn nhu
cầu của tổ chức và lợi ích của nhân dân.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính
phủ và chính quyền địa phương các cấp vừa qua xét về tổng thể vẫn chưa
đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, còn nhiều hạn chế, bất
hợp lý:
- Phân cấp nhưng chưa bảo đảm quản lý thống nhất, còn biểu hiện
phân tán, cục bộ; kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; chưa chú
trọng việc thanh tra, kiểm tra đối với những việc đã phân cấp cho địa

phương.
- Chưa phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm
của mỗi cấp chính quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà
nước, tổ chức cung cấp dịch vụ công, đại diện chủ sở hữu đối với các tổ
chức kinh tế nhà nước và tài sản nhà nước. Chưa xác định rõ trách nhiệm
của mỗi cấp, của tập thể và cá nhân đối với những nhiệm vụ đã được
phân cấp.
- Phân cấp nhiệm vụ cho cấp dưới, nhưng chưa bảo đảm tương ứng
các điều kiện cần thiết để thực hiện, còn thiếu sự ăn khớp, đồng bộ giữa
các ngành, các lĩnh vực có liên quan, chưa tạo điều kiện thực tế cho địa
phương chủ động cân đối các nguồn lực và các nhu cầu cụ thể của mình.
- Một số nội dung phân cấp đã được pháp luật quy định nhưng chậm
được triển khai thực hiện hoặc thực hiện không triệt để. Mặt khác, các
quy định phân cấp hiện hành chưa phù hợp với thực tiễn của mỗi khu
vực, vùng lãnh thổ, chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa đô thị và nông
thôn.
Những hạn chế, bất cập trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau,
nhưng chủ yếu là do các nguyên nhân: nhận thức, quan điểm về các chủ
trương, giải pháp phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính
quyền cấp tỉnh chưa rõ ràng, rành mạch, thiếu nhất quán, lo ngại phân cấp
4


mạnh dẫn đến tình trạng cục bộ, cát cứ, phân tán. Trong tổ chức chỉ đạo
còn thiếu quyết tâm, mạnh dạn từ xây dựng, ban hành thể chế, chính sách
đến tổ chức thực hiện; chưa chú trọng tổng kết, đánh giá, rút kinh
nghiệm. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng với yêu cầu của
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới.
Về mục tiêu của sự phân cấp trong thời gian tới là tiếp tục đẩy mạnh
phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh, giữa

chính quyền địa phương các cấp nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo,
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở
phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong
bộ máy chính quyền nhà nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất
và thông suốt của Chính phủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước phục vụ tốt hơn nhu cầu và
lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa
phương trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Về quan điểm và nguyên tắc là
a) Quán triệt quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất, bảo đảm
quản lý thống nhất của Chính phủ về thể chế, chính sách, chiến lược, quy
hoạch, thanh tra, kiểm tra; đồng thời phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền cấp tỉnh trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản
lý nhà nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
b) Tuân thủ nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với
quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ những nhiệm vụ quản lý nhà nước của
bộ, ngành với nhiệm vụ quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối
với các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ.
c) Bảo đảm nguyên tắc hiệu quả, việc nào, cấp nào sát thực tế hơn,
giải quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và nhân
dân thì giao cho cấp đó thực hiện; phân cấp phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ
trách nhiệm, gắn với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp.
d) Phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng
giai đoạn, đặc thù của ngành, lĩnh vực, điều kiện và khả năng phát triển
của từng khu vực, vùng lãnh thổ, với từng loại hình đô thị, nông thôn, với
xu thế hội nhập khu vực và quốc tế.
đ) Phải bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm
với nguồn lực tài chính, tổ chức, nhân sự và các điều kiện cần thiết khác;
phải đồng bộ, ăn khớp giữa các ngành, lĩnh vực có liên quan.

5


e) Bảo đảm quyền và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong
việc quyết định, thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp; chấp hành
nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính; đồng thời phát huy dân chủ rộng
rãi để nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
g) Phân cấp phải thể hiện được sự đồng bộ, thống nhất trong hệ
thống thể chế, văn bản quy phạm pháp luật gắn với đổi mới cơ chế và bảo
đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị cơ sở.
h) Đối với những vấn đề đã phân cấp, chính quyền cấp tỉnh chịu
trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện; các bộ, ngành trung ương có
trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn và kiểm tra, nếu phát hiện có vi phạm
pháp luật hoặc trái với quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực thì
xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét
Về những định hướng chủ yếu trong thời gian tới đối với việc phân
cấp:
1. Phân cấp quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển
a) Về phân cấp quản lý quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội
Chính phủ thống nhất quản lý công tác quy hoạch trên phạm vi cả
nước. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp quyết định quy hoạch
cấp quốc gia, bao gồm: quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của
cả nước, của các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương; quy hoạch các
công trình kết cấu hạ tầng quan trọng có ý nghĩa chiến lược; quy hoạch
tổng thể phát triển ngành, vùng kinh tế; quy hoạch chung xây dựng các
đô thị (từ loại II trở lên); quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu
công nghệ cao. Các bộ quản lý ngành phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu
tư xây dựng quy hoạch phát triển ngành, trình Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt. Bộ trưởng Bộ quản lý ngành quyết định quy hoạch cụ thể phát
triển nội bộ ngành, lĩnh vực theo phân công của Chính phủ.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể của cả nước, của ngành, của vùng
kinh tế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng các quy hoạch cấp
địa phương, bao gồm: quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của
các tiểu vùng lãnh thổ thuộc tỉnh và của các đơn vị hành chính trực thuộc;
quy hoạch cụ thể phát triển ngành trên địa bàn; quy hoạch xây dựng các

6


đô thị (từ loại III trở xuống), nông thôn của tỉnh trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp phê chuẩn, trước khi quyết định.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm của cấp nào
do cấp đó quyết định. Chính phủ lập, trình Quốc hội quyết định kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập,
trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn.
b) Về phân cấp quản lý đầu tư
Căn cứ tính chất, phạm vi hoạt động, lĩnh vực đầu tư, quy mô và
nguồn vốn đầu tư mà thực hiện phân cấp cụ thể, không lệ thuộc vào nhóm
A, B hoặc C, không áp dụng cơ chế uỷ quyền của cấp trên cho cấp dưới.
Chính quyền cấp tỉnh được quyền quyết định các dự án đầu tư từ ngân
sách địa phương và cấp giấy phép cho các dự án đầu tư nước ngoài phù
hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng quản lý của địa
phương.
2. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân định rõ quyền và trách nhiệm quản lý và sử dụng ngân sách
nhà nước của các cấp. Chính phủ điều hành ngân sách trung ương do
Quốc hội phê chuẩn. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập dự toán, điều chỉnh,
phân bổ, quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng

cấp phê duyệt. Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định một số chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu ngân
sách trong trường hợp không trái quy định của pháp luật; quyết định một
số loại, mức lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân phù hợp với đặc
điểm, điều kiện cụ thể của địa phương.
Điều chỉnh lại các nguồn thu và tăng tỷ lệ để lại cho địa phương theo
hướng để các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt mức phát triển trung
bình của cả nước tự cân đối được chi thường xuyên theo định mức của Chính
phủ.
3. Phân cấp quản lý đất đai, tài nguyên, tài sản nhà nước
Phân định rõ quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước và đại diện chủ
sở hữu nhà nước của các cấp về đất đai, tài nguyên theo hướng:

7


Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả
nước, quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp tỉnh. Chính
quyền địa phương các cấp trực tiếp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
về quản lý nhà nước đối với đất đai, tài nguyên trên địa bàn (trừ những
trường hợp có quy định riêng của Chính phủ); chịu trách nhiệm quản lý
sự biến động đất đai và thanh tra, kiểm tra việc sử dụng đất trên địa bàn.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập quy hoạch, quyết định kế hoạch sử
dụng đất; quyết định hạn mức giao đất, cho thuê đất, thu hồi và chuyển
đổi mục đích sử dụng đất của địa phương trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đã được Chính phủ phê duyệt; quyết định giá đất cụ thể theo
khung giá các loại đất do Chính phủ quy định.
Phân định rõ quyền quản lý, sử dụng tài sản của các cấp (gắn với
trách nhiệm), theo đó có loại tài sản cấp quốc gia, có loại tài sản cấp tỉnh,
có loại tài sản cấp huyện, có loại tài sản cấp xã. Tài sản của cấp nào do

cấp đó quyết định và chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng, định đoạt theo
quy định của pháp luật.
4. Phân cấp quản lý doanh nghiệp nhà nước
Phân định rõ quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước và đại diện chủ
sở hữu nhà nước của mỗi cấp chính quyền đối với doanh nghiệp nhà nước
tuỳ theo quy mô, đặc điểm, tính chất và tầm quan trọng của mỗi loại hình
doanh nghiệp nhà nước.
Chính phủ quản lý thống nhất thể chế, chính sách, tạo môi trường
thuận lợi và quyết định hỗ trợ trong những trường hợp cần thiết đối với
doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức kinh tế khác. Chính quyền cấp tỉnh
quyết định việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước do địa phương trực
tiếp quản lý theo đề án tổng thể đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước trực thuộc.
Thủ tướng Chính phủ thông qua đề án thành lập công ty nhà nước,
doanh nghiệp nhà nước; quyết định thành lập các tổng công ty nhà nước
và các doanh nghiệp đặc biệt quan trọng; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định thành lập các loại doanh nghiệp nhà nước còn lại.
Đổi mới về tổ chức và hoạt động của cơ cấu quản trị doanh nghiệp
nhà nước cho phù hợp với cơ cấu góp vốn và cơ cấu đại diện chủ sở hữu,
bảo đảm đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Hội đồng quản trị,

8


Tổng giám đốc hoặc Giám đốc đối với doanh nghiệp không có Hội đồng
quản trị và phải có cơ cấu tổ chức giám sát phù hợp, có hiệu quả.
5. Phân cấp quản lý các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công
Chính phủ thống nhất quản lý chiến lược, quy hoạch, thể chế, chính
sách và thanh tra, kiểm tra các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; chỉ đạo

các bộ, ngành tổ chức cung ứng các dịch vụ công thiết yếu nhất, quan
trọng trên phạm vi cả nước và những dịch vụ công mà chính quyền địa
phương không có khả năng, điều kiện thực hiện.
Phân cấp cho chính quyền cấp tỉnh quyết định:
- Quy hoạch mạng lưới tổ chức, quyết định thành lập và quản lý các
đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công trên địa bàn như: giáo dục, y tế, khoa học
công nghệ, văn hoá, thể dục thể thao, dịch vụ công ích vệ sinh, môi
trường, nước sạch... và các dịch vụ phục vụ sản xuất (khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công...);
- Các chủ trương, biện pháp cụ thể để khuyến khích phát triển và đẩy
mạnh xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công ở các lĩnh vực
giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, văn hoá, thể dục thể thao... để
phục vụ tốt hơn nhu cầu của nhân dân địa phương. Thực hiện cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức, đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công
về kế hoạch, tài chính, nhân lực, tổ chức, cán bộ.
Chuyển giao cho chính quyền cấp tỉnh trực tiếp quản lý các đơn vị
sự nghiệp hiện do các bộ, ngành đang quản lý, trừ một số đơn vị sự
nghiệp đặc thù, phức tạp, có tính chất quan trọng, chính quyền địa
phương chưa đủ khả năng, điều kiện quản lý.
Chính quyền các thành phố chịu trách nhiệm quản lý các dịch vụ
công cộng trên địa bàn đô thị; trực tiếp thực hiện các hoạt động đầu tư,
xây dựng, khai thác, sử dụng, duy tu, bảo dưỡng, kiểm tra theo quy
hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt; bảo đảm trật tự an toàn giao thông,
vệ sinh môi trường...; quyết định chủ trương khuyến khích phát triển kết
cấu hạ tầng kỹ thuật và phát triển các loại hình dịch vụ vận tải hành khách
công cộng trên địa bàn.
6. Phân cấp quản lý về tổ chức bộ máy và cán bộ công chức.
Trên cơ sở các quy định khung của Chính phủ, chính quyền cấp tỉnh
quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn của
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (trừ một số cơ quan chuyên môn do Chính phủ

quy định thống nhất) và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân
cấp huyện, phù hợp với tình hình, đặc điểm cụ thể của mỗi địa phương;
quyết định việc điều chỉnh một số nhiệm vụ cụ thể giữa các sở, ban,
9


ngành của cấp tỉnh và cấp huyện (không phải là những nhiệm vụ cơ bản,
chủ yếu theo chức năng của mỗi cơ quan chuyên môn).
Căn cứ vào các định mức, tiêu chuẩn biên chế do Chính phủ quy
định, chính quyền cấp tỉnh xác định tổng biên chế hành chính của địa
phương trình Chính phủ quyết định; quyết định tổng biên chế sự nghiệp
của tỉnh; quyết định phân bổ chỉ tiêu biên chế cán bộ, công chức hành
chính cho từng cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện;
quyết định các chế độ khuyến khích, thu hút nhân tài, nhân lực có trình
độ cao về làm việc tại địa phương; quyết định cụ thể số lượng cán bộ
chuyên trách, công chức thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định
khung của Chính phủ; quyết định số lượng và mức phụ cấp đối với cán
bộ không chuyên trách cấp xã phù hợp với đặc điểm, tính chất và khả
năng ngân sách của mỗi địa phương.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn chức danh và quy trình cán
bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, bãi nhiệm, cách chức, từ chức đối với người đứng đầu các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân và đơn vị sự nghiệp thuộc cấp tỉnh,
không phải thoả thuận với các bộ, ngành liên quan.
Về thực trạng vấn đề phân cấp”
Có thể nói, chủ trương phân cấp, một nội dung quan trọng trong
chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 –
2010. Trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, phân
cấp được đề cập tới như một mục tiêu cốt lõi. Những chuyên gia tham gia
xây dựng chương trình này đã nhìn thấy một thực tế là, quy mô của nền

kinh tế xã hội Việt Nam đang tăng trưởng từng ngày, khó lòng để một bộ
máy hành chính trung ương đảm đương hết các công việc của nó. Những
lý thuyết căn bản về quản lý nhà nước của thế giới đều nói rằng, trong
quá trình phát triển, một khi quản lý không theo kịp quy mô của phát triển
thì phân cấp là sự lựa chọn tối ưu và Nghị quyết số 08/2004/NĐ-CP về
đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền các
tỉnh thành đã được ban hành như một văn bản làm nền cho phân cấp.
22 bản đề án phân cấp của 22 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ đã được xây dựng, để đến năm 2007, có tới 163 đầu việc về phân cấp
đã được hoàn tất và ghi nhận. Nhiều nội dung quan trọng thuộc các lĩnh
vực như đầu tư, đăng ký kinh doanh, nhà đất… đã được thực hiện tương
đối hiệu quả, khẳng định chủ trương phân cấp là phù hợp với yêu cầu
thực tế. Qua phân cấp, các bộ ngành chỉ còn tập trung vào khâu hoạch
định thể chế, chính sách và thanh kiểm tra việc thực hiện, còn các công
việc như cấp giấy phép, quản lý hoạt động trực tiếp… thuộc về các địa
phương. Có khá nhiều ví dụ sinh động về việc hiện thực hóa chủ trương
phân cấp trong thực tế, khi mà nhiều bộ ngành vẫn muốn “giữ” lại một số
10


quyền hạn nhất định thay vì phân cấp hết cho các địa phương. Chẳng hạn,
vào năm 2006, khi trình dự thảo nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Đầu
tư (về sau là Nghị định 108), Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề xuất rằng chỉ
nên cho phép các địa phương cấp phép các dự án đầu tư quy mô vừa trở
xuống; đối với các dự án lớn vẫn phải để bộ này cấp phép. Chính phủ, khi
đó với tinh thần khá quyết liệt, đã quyết định rằng sẽ phân cấp việc cấp
phép đầu tư với mọi quy mô. Nhiều dự án tỷ đô đã được các tỉnh thành
“quyết”, thay vì phải xin giấy phép đầu tư từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư như
trước đó. Câu chuyện nói trên được nhiều chuyên gia thuộc nằm lòng như
là một ví dụ sinh động trong thực tiễn phân cấp, tuy nhiên khách quan mà

đánh giá, đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư khi đó cũng có những căn
cứ nhất định. Một thực tế là khi Nghị định 108 ra đời, nhiều địa phương
đã cảm thấy hơi “hoang mang” trước quyền hạn quá lớn trong việc quyết
định cấp phép đầu tư. Để “an toàn”, nhiều tỉnh thành trước khi cấp giấy
phép đầu tư cho các dự án lớn đã lại làm công văn trình… Bộ Kế hoạch
và Đầu tư để xin ý kiến. Các chuyên viên tại sở kế hoạch và đầu tư của
địa phương rõ ràng gặp khó khăn trong việc thẩm định các đề xuất của
các nhà đầu tư xuyên quốc gia, có sự am hiểu sâu sắc về thị trường, các
quy định pháp lý, cũng như việc tính toán các số liệu tài chính.
Các chuyên gia của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương
(CIEM), trong bản báo cáo tựa đề “Tiếp tục cải cách mô hình chính phủ”,
được công bố mới đây tại Hà Nội, đã nhấn mạnh rằng tình trạng phân cấp
nhưng “chưa tương ứng với năng lực của chính quyền cấp dưới” chính là
một điểm hạn chế đáng kể trong quá trình này. “Ở nhiều lĩnh vực, phân
cấp nhiệm vụ đã được tiến hành một cách quá nhanh chóng, trong khi
chính quyền cấp dưới ở địa phương chưa đủ năng lực, đặc biệt là đội ngũ
nhân sự còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, các điều kiện cơ sở
vật chất còn quá thiếu thốn để có thể đảm nhận thực thi những nhiệm vụ
này”, báo cáo viết. CIEM cũng cho rằng một hạn chế khác chính là tình
trạng phân cấp chưa đi liền với giám sát, đánh giá. Việc báo cáo tình hình
từ cấp dưới cũng như giám sát từ cấp trên hầu như bị lãng quên nên các
quyết sách điều chỉnh liên quan đến phân cấp đều được đưa ra quá chậm
trễ, gây ra không ít thiệt hại cho quá trình phát triển đất nước.
Nhiều nhà khoa học hàng đầu từng cho rằng chủ trương phân cấp
là đúng đắn, nhưng thực tiễn phân cấp tại Việt Nam đã phát sinh nhiều
vấn đề cần giải quyết đó là năng lực của cơ quan được phân cấp là vấn đề
rất quan trọng, vì phân cấp rất phức tạp nên cần tạo ra các điều kiện cần
và đủ để phân cấp. Phân cấp cũng đặt ra câu hỏi đối với việc xử lý mối
quan hệ giữa kinh tế quốc gia và kinh tế địa phương. Về nguyên tắc, kinh
11



tế quốc gia là điều cần được tôn trọng và theo nguyên tắc này thì cả nước
chỉ cần vài ba khu liên hợp sắt thép. Nhưng giờ đây, điều đó đã không
được nhiều địa phương tôn trọng, thể hiện qua việc hàng loạt tỉnh xin làm
dự án thép.
Và còn nhiều thực trạng khác của nước ta trong quá trình thực hiện
phân cấp trong thời gian qua.
Vì vậy để quá trình phân cấp cho chính quyền địa phương trong thời
gian tới được hiệu quả hơn, cần có một số giải pháp sau:
- Khảo sát đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước với các
nội dung: đánh giá thực trạng các quy định pháp luật và thực tế áp dụng
các quy định đó trong việc phân cấp giữa trung ương - địa phương và
giữa các cấp địa phương với nhau;
- Phân tích những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất cập trong
quản lý nhà nước về từng lĩnh vực công tác cụ thể;
Đề xuất nội dung phân cấp giữa các chủ thể quản lý theo tinh thần
xác định rõ địa chỉ phân cấp và trách nhiệm của từng chủ thể. Việc đề
xuất nội dung phân cấp có thể liên quan đến việc chuyển giao thẩm quyền
từ trung ương cho địa phương, từ cấp trên xuống cấp dưới và không loại
trừ trường hợp ngược lại: vì mục tiêu thống nhất quản lý nhà nước và vì
tính hiệu quả, nhiệm vụ cấp dưới được kiến nghị chuyển giao lên cấp trên
hoặc cấp trung ương.
Sản phẩm cuối cùng của quá trình phân cấp quản lý nhà nước là
một hệ thống quy định pháp luật về phân định thẩm quyền quản lý nhà
nước và cơ chế thực hiện những thẩm quyền đó. Như vậy, suy cho cùng,
phân cấp bao gồm các nội dung cụ thể như sau:
- Xác định những thẩm quyền đặc biệt của trung ương trong việc
quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực công tác cụ thể nhằm bảo đảm tính
thống nhất trong quản lý nhà nước;

- Xác định những thẩm quyền riêng của từng cấp chính quyền theo
tiêu chí “cấp tốt nhất”;
- Xác định thẩm quyền chung của hai (hoặc một số) cấp chính
quyền và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện thẩm quyền chung đó.
Thực tiễn quản lý nhà nước cho thấy không loại trừ sự tác động của một
số chủ thể lên cùng một đối tượng và khách thể quản lý. Trong trường
hợp này, không nên tuyệt đối hoá việc phân định thẩm quyền theo nghĩa
“mỗi việc chỉ do một chủ thể đảm nhiệm”. Vấn đề đặt ra là cần xác định
phạm vi trách nhiệm của mỗi chủ thể “đồng quản lý” và có cơ chế quản
lý thích hợp.

12


- Quy định các điều kiện về tài chính, tổ chức, nhân sự để bảo đảm
thực hiện thẩm quyền được phân định, đặc biệt là những thẩm quyền mới
được chuyển giao;
- Xác định cơ chế giám sát, kiểm tra việc thực hiện thẩm quyền là
kết quả của phân cấp quản lý nhà nước.
Nói tóm lại,
Phân cấp QLNN giữa các cấp chính quyền địa phương chính là nhằm
phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
chính quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy chính quyền nhà nước, bảo đảm
sự quản lý tập trung, thống nhất và thông suốt, tăng cường kỷ luật kỷ cương
hành chính để nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN phục vụ tốt hơn nhu cầu
và lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội ở từng địa phương
trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

13




×