Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh HuyệnYên Bình -Tỉnh Yên Bái với công tác giáo dục đạo đức, lối sống choThanh Niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.85 KB, 45 trang )

LỜI CẢM ƠN
Âm thầm, lặng lẽ con đò thời gian lại đưa thêm một chuyến đò đầy cập
bến, tạm xa giảng đường, xa mái trường dấu yêu, xa thầy cô, nơi chôn dấu
biết bao kỷ niệm. Em không thể nào quên những năm tháng đó, thầy cô như
người lái đò cần mẫn đưa khách sang sông đưa con thuyền cập bến, chắp cho
chúng em những đôi cánh vào đời, ươm cho đời những mầm xanh trái ngọt.
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới cô giáo
hướng dẫn: Tới Th.S: Trần Thị Thúy Ngọc đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn,
giúp đỡ em trong suốt thời gian nghiên cứu va hoàn thành tiểu luận tốt
nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc học viện thanh thiếu niên
Việt Nam đã cung cấp cho em những kiến thức quý giá và tạo điều kiện thuận
lợi, động viên, kích lệ em trong thời gian học tập và thực hiện tiệủ luận tốt
nghiệp.
Dù đã có nhiều cố gắng, song do điều kiện và thời gian hạn chế nên
trong đề tài của em chắc không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo để đề tài của em
được hoàn chỉnh hơn.
Em Xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 25 tháng 3 năm 2012
Người thực hiện
Lương Thị Huyền

1


MỤC LỤC

2



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐTN

:(Đoàn thanh niên)

CNH,HĐH

:(Công nghiệp hóa, hiện đại hóa)

GD-ĐT

:(Giáo dục đào tạo)

CNXH

: (Chủ nghĩa xã hội)

XHCN

: (Xã hội chủ nghĩa)

TNCS

:(thanh niên cộng sản)

UBND

: (ủy ban nhân dân)


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho Đoàn viên Thanh niên là một nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi
Thanh niên là một lực lượng xã hội đặc biệt, có vai trò rất quan trọng trong
lịch sử, trong các giai đoạn cách mạng cũng như trong hiện tại và tương lai.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với
Thanh niên. Khi đánh giá Thanh niên Hồ Chí Minh khẳng định: Thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh,
một phần lớn là do Thanh niên.
“ Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện
có đạo đức tri thức, sức khỏe thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”
( Điều 2 Luật giáo dục của nước CHXHCN Việt Nam 2005 )
Những con người có nhân cách như Luật giáo dục chỉ ra do nền giáo
dục, do các nhà trường góp phần hình thành đó là thế hệ trẻ Việt Nam, chủ
nhân tương lai của đất nước, là thế hệ có đủ tài đức “ vừa hồng, vừa chuyên”
đảm trách sứ mệnh xây dựng thành công CNXH.
Bác Hồ - vị lãnh tụ lỗi lạc rất coi trọng việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau, Bác khẳng định đây là công việc trọng đại của đất nước, của dân
tộc. Bác đã dạy “ người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Người
có tài mà không có đức thì vô dụng....” GD phải là bồi dưỡng được cái đức :
cái vốn quý của con người, đồng thời phát huy được khả năng sáng tạo, việc
tận dụng tri thức tiếp thu được trong học tập vào cuộc sống.
Trong những năm qua, đất nước ta chuyển mình trong công cuộc đổi
mới sâu sắc và toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta có nhiều thành

tựu to lớn rất đáng tự hào về phát triển kinh tế- xã hội, văn hóa- giáo dục.

4


Tuy nhiên mặt trái của cơ chế mới cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự
nghiệp giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn
là vấn đề mà toàn xã hội quan tâm. Đánh giá thực trạng giáo dục đào tạo :
Nghị quyết TW 2 khóa VIII nhấn mạnh : “ Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ
phận học sinh sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý
tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương
lai của bản thân và đất nước...”
Đoàn thanh niên Huyện Yên Bình -Tỉnh Yên Bái không đứng ngoài thực
trạng đó. Hơn ai hết là người làm công tác giáo dục, hoạt động, tổ chức của
Đoàn huyện Yên Bình trên quê hương mà mình đã sinh ra và lớn lên, tôi nhận
thức rõ trách nhiệm nặng nề đặt lên vai của mình. Phải có biện pháp chỉ đạo
thiết thực, phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục nói chung,
chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên.
Vì việc giáo dục tư tưởng đạo đức cho thanh niên là nền tảng, là gốc rễ
vững chắc cho mặt giáo dục khác. Xuất phát từ những lý do khách quan, chủ
quan như trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Huyện
Yên Bình -Tỉnh Yên Bái với công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho
Thanh Niên”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1 Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức, lối sống cho Thanh
niên. Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục, đạo đức lối
sống cho Thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Huyên
Yên Bình – Tỉnh Yên Bái từ đó đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức, lối sống cho Thanh niên nói chung và Thanh niên Huyện Yên

Bình nói riêng.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đặt được mức đích trên chuyên đè cân thực hiện các nhiệm vụ sau:

5


- Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận chung về giáo dục đạo đức, lối sống cho
Thanh niên.
- Thứ hai, khảo sát đánh giá thực trạng công tác giáo dục đạo đức ,lối sống
cho Thanh niên của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Huyện Yên
Bình – Tỉnh Yên Bái.
- Thứ ba, đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức,
lối sống cho Thanh niên nói chung và Thanh niên Huyện Yên Binh nói riêng.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Huyện Yên Bình -Tỉnh Yên Bái.
3.2. khách thể nghiên cứu.
Tình hình giáo dục đạo đức, lối sống cho Thanh niên của Huyện Yên Bình –
Tỉnh Yên Bái
4. phạm vi nghiên cứu tiểu luận.
4.1 Không gian: Huyện Yên Bình -Tỉnh Yên Bái mà
4.2 Thời gian: Tiểu luận nghiên cưú từ năm 2009 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp luận tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác-Leenin.
- Phương pháp điều tra xã hội học.
- Phương pháp nghiên cứu phân tích xử lý tài liệu.
- Phương pháp logic, phương pháp lịch sử và Phương pháp tổng hợp.
6. Kết cấu tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận được

kết cấu làm 3 chương, gồm 7 tiết và 26 tiểu tiết.

6


NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về giáo dục đạo đức , lối
sống cho thanh niên
1.1 Một số khái niệm cơ bản.

Giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, ảnh hưởng tự
giác, chủ động tới con người, dẫn đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý
thức, nhân cách. Dưới góc độ hoạt động, giáo dục là một hoạt động chuyên
biệt của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân cách của con người theo
những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Giáo dục
giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách.
Như vậy hoạt động giáo dục không đơn thuần chỉ là truyền thụ kiến
thức, mà là quá trình gồm nhiều bộ phận: Giáo dục đạo đức; Giáo dục trí tuệ;
Giáo dục thể chất; Giáo dục thẩm mỹ; Giáo dục lao động kỹ thuật tổng hợp,
hướng nghiệp.
Trong đó giáo dục đạo đức được xem là nền tảng gốc rễ tạo ra nội lực
tiềm tàng vững chắc cho các mặt giáo dục khác.
1.1.1. Khái niệm thanh niên
Thanh niên là lớp người trẻ tuổi, có sức khỏe vả trí tuệ, có những đóng
góp trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thanh niên rất
nhạy bén với những các mới, tiến bộ khoa học mới nhưng cũng rất dễ mắc
phải những sai lầm trong nhận thức của mình. Trong sự phát triển của đất
nước hiện nay thanh niên đóng một vai trò rất quan trọng với vị trí là người
chủ tương lai của đất nước.vì vậy khẩu hiệu “ Đâu cần thanh niên có, việc gì
khó có thanh niên’’ luôn luôn là khẩu hiệu của thanh niên Việt nam trong mọi

hoàn cảnh lịch sử của đất nước.
Với đặc điểm của lứa tuổi từ 15 tuổi đến 35 tuổi, đây là giai đoạn phát
triển và thay đổi rất mạnh mẽ về cả thể chất và tâm lý, Thanh niên là lớp

7


người đang trưởng thành, bắt đầu ở cuối tuổi dậy thì và kết thúc vào thời kỳ đã
hoàn thiện về thể chất và định hình về nhân cách,một thời kỳ phát triển tương
đối ổn định. Hoạt động chủ đạo của lứa tuổi này là hoạt động học tập – lao
động. các hoạt động như giao lưu, vui chơi…đều diễn ra theo phương hướng
và ít nhất chịu sự ảnh hưởng và bị chi phối bởi hoạt động chủ đạo. hoạt động
giao lưu của lứa tuổi thanh niên nhằm thỏa mãn nhu cầu tình bạn, tình yêu,
tình đồng chí …tham gia vào đời sống tập thể, xác lập vị trí của mình, tư
khẳng định mình trong tập thể, trong cộng đồng.
Thanh niên là thời kỳ tươi đẹp nhất trong đời sống mỗi con người. đó là
lứa tuổi trong sáng, đầy ước mơ, đầy khát vọng. Tuổi thanh niên cũng là lứa
tuổi đầy nhiệt tình, có nhiều hoài bão va đôi khi bồng bột, thiếu hiểu biết trong
cuộc sống, không nghe lời bố mẹ, chỉ biết vui chơi thỏai mái,sống theo sự suy
nghĩ của mình vì thế có khó khăn trong rèn luyện đạo đức.
1.1.2. Khái niệm đạo đức.
Theo chủ nghĩa Mác thì đạo đức là một bộ phận của ý thức xã hội. Đạo
dức tồn tại trong mọi ý thức, hoạt động giao lưu, trong toàn bộ hoạt động
sống của con người. Nhìn vào thực trạng đạo đức xã hội để đánh giá được sự
phát triển của quốc gia đó như thế nào. Vì vậy đạo đức cũng như giáo dục đạo
đức luôn được các nước quan tâm hành đầu và có giá trị bền vưng nhất.
Góc độ xã hội: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt được
phản ánh dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh (hoặc
chi phối) hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, với xã hội, giữa con người với nhau và với chính bản thân mình.

Góc độ cá nhân: Đạo đức chính là những phẩm chất, nhân cách của con
người, phản ánh ý thức của con người, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và
cách ứng xử phù hợp trong các mỗi quan hệ giữa con người với tự nhiên, với
xã hội giữa bản thân họ với người khác và với chính bản thân mình.

8


1.1.3. Giáo dục đạo đức.
Quá trình hình thành và phát triển của con người là quá trình tác động
qua lại giữa xã hội và cá nhân để chuyển hóa những nguyên tắc, yêu cầu
chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân làm
cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức phù hợp theo tiêu chuẩn của xã
hội. Có thể hiểu quá trình giáo dục đạo đức là một hoạt động có tổ chức, có
mục đích,có kế hoạch nhằm biến những nhu cầu chuẩn mực giá trị đạo đức
của xã hội để hình thành phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự
tiến bộ của xã hội.
Quá trình giáo dục đạo đức lối sống làm cho thanh niên thấm nhuần
sâu sắc thế giới quan Mác - Lê nin, tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, tính
chân lý khách quan của các giá trị đạo đức nhân văn của các tư tưởng đó, coi
đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình thông qua cuộc tiếp cận với
cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc và hoạt động của cá nhân để củng cố
niềm tin và lẽ sống lý tưởng sống, lối sống theo con đường CNXH, thanh niên
phải thấm nhuần tư tưởng chính sách của Đảng biết sống và làm việc theo
pháp luật có kỷ cương nền nếp có văn hóa trong các mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên với xã hội và giữa con người với nhau, nhận thức ngày
càng sâu sắc nguyên tắc yêu cầu chuẩn mực và các giá trị đạo đức XHCN,
biến các giá trị đó thành ý thức tính chất hành vi thói quen và cách ứng xử
trong đời sống hàng ngày. Để thực hiện được những yêu cầu đó quá trình giáo
dục đạo đức có nhiệm vụ phát triển nhu cầu đạo đức cá nhân theo những định

hướng giá trị mang tính đặc thù dân tộc và thời đại.
1.1.4 Khái niệm lối sống.
Lối sống là một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động sống
của các dân tộc, các giai cấp các nhóm xã hội, các cá nhân trong những
điều kiện của một hình thức kinh tế – xã hội nhất định và biểu hiện trên
các lĩnh vực của đời sống trong lao động và hưởng thụ trong quan hệ giữa
người với người , trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa tư tưởng lối sống

9


đạo đức chuẩn mực giá trị xã hội và phong tục tập quán với phát triển văn
hóa xây dựng con người.
1.2. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam về giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên.
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về giáo dục đạo đức, lối
sống văn hóa.
Theo Mác, giai cấp vô sản chỉ được hình thành với tư cách là một giai
cấp khi ý thức được địa vị và tương lai của mình. Nhưng công nhân tiên tiến
nhất hoàn toàn hiểu rõ rang, tương lai của giai cấp công nhân và do đó tương
lai của nhân loại, hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân
đang lớn lên. Cuối thế kỷ XIX, trong bối cảnh của xã hội tư bản, Mác cho
rang cần phải giải thoát cho thanh niên khỏi sự tác động có tính chất phá hoại
của hệ thống hiện đại. Chính Mác đã gọi Thanh niên là cội nguồn sự sống của
dân tộc và giai cấp công nhân là bộ xương của mỗi cơ thẻ dân tộc.Khi nói về
vai trò giáo dục thanh niên Mác đã nhấn mạnh: “ Công tác giáo dục sẽ làm
cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vưng nhanh chóng toàn bộ hệ
thống sản xuất trong thực tiễn” Tư tưởng của Mác là phải tổ chức giáo dục
các tầng lớp thanh niên để họ nắm vững những kĩ năng, kĩ xảo, quy trình sản

xuất, sẽ hỗ trợ cho việc phát triển toàn diện những năng lực của tất cả thành
viên toàn xã hội được xây dựng trên nguyên lý cộng sản chủ nghĩa.
Đạo đức của giai cấp vô sản, đạo đức cộng sản - được hình thành và
phát triển trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp giải phóng những người
lao động, giải phóng dân tộc và nhân loại khỏi áp bức, bất công. Đạo đức ấy
tác động góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh đó. Lênin cho rằng đạo đức cộng
sản góp phần cải tạo xã hội cũ và xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Với ý
nghĩa đó đạo đức mang tính cách mạng.

10


1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống.
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, hiếm có lãnh tụ nào quan tâm
đến sự nghiệp giáo dục một cách toàn diện như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người
khẳng định rằng: mọi người Việt Nam đều phải được giáo dục, phải có kiến
thức để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà.
Nhận thức vai trò chủ động, tích cực của đạo đức, ngay khi chuẩn bị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1927 trong tác phẩm Đường kách
mệnh, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đặt lên trang đầu nội dung về tư
cách một người cách mệnh. Có thể coi đó là chuẩn mực đầu tiên cần có cho
những ai bước vào con đường cách mạng. Tư cách ấy có 3 nhóm vấn đề: tự
mình phải làm gì; đối với người phải thế nào; làm việc phải như thế nào.
Trong 14 điểm tự mình phải làm gì rất đáng chú ý như: Giữ chủ nghĩa cho
vững; không hiếu danh, không kiêu ngạo; nói thì phải làm; ít lòng tham muốn
về vật chất; cần kiệm; chí công vô tư ... Có ý nghĩa sâu sắc, bền vững. Nhiều
thế hệ các chiến sĩ cách mạng, những đảng viên cộng sản đã giữ vững khí tiết
cộng sản, ý chí đấu tranh trên nền đạo đức đó.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến thế hệ trẻ, đặc biệt là thanh, thiếu niên.
Đào tạo thế hệ trẻ là đào tạo thế hệ tương lai cho đất nước. Trong Lời kêu gọi

chống nạn thất học (10-1945), Người viết: "Mọi người Việt Nam phải hiểu
biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể
tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết
viết chữ quốc ngữ”. Tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đã được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông
qua và công bố vào ngày 10-12-1948. Điều 26 của Tuyên ngôn ghi rõ: "Mọi
người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở
bậc tiểu học và căn bản. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc, giáo dục kỹ thuật và
chuyên nghiệp phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng
bình đẳng cho mọi người, trên căn bản tài năng xứng đáng…”.

11


Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra những quan điểm lý luận có ý nghĩa quan
trọng đối với công cuộc xây dựng nền giáo dục mới, mà còn có những kiến
giải khoa học và sáng tạo về phương pháp giáo dục. Người yêu cầu phải căn
cứ vào đặc điểm, nhu cầu của đối tượng, nội dung giáo dục, và các điều kiện
cơ bản của nhà trường mà xác định các phương pháp dạy học phù hợp.
Theo đó, phải lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm
nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Dạy và
học phải gắn tri thức lý luận với thực tiễn cuộc sống. Người nhấn mạnh: "Học
phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành.
Học với hành phải kết hợp với nhau”.
Lấy phương pháp nêu gương để giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu
cầu người giáo viên phải "làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức và
lối làm việc”. Người lấy tinh thần "Học, học nữa, học mãi,” của Lê-nin và
tinh thần "học không biết chán, dạy không biết mỏi” của Khổng Tử làm
mẫu số chung cho giáo viên và yêu cầu mọi người phải khắc ghi, thực
hành lời dạy ấy. Bản thân Người là tấm gương sáng về tinh thần tự học, tự

tìm tòi, kiên trì vượt quan khó khăn.
Phương pháp giáo dục phải thiết thực, lấy tự học làm cốt, học tập suốt
đời, đồng thời phải dạy cách học cho người học.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả
cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới,
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội
phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt
giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính... Huy động mọi lực lượng tham gia giáo
dục và đào tạo con người, hướng đến xã hội hóa giáo dục
Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh khẳng định rằng giáo dục và đào tạo
là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình, nhà trường và các lực
lượng xã hội. Mỗi thành phần trong lực lượng đó đều có vai trò, vị trí quan

12


trọng khác nhau, nhưng cần có sự hợp lực, thống nhất trong quá trình giáo
dục - đào tạo thế hệ trẻ. Vì chỉ có kết hợp chặt chẽ các yếu tố này mới tạo
thành sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp "trồng người” đi đến thắng lợi.
Từ nhận thức giáo dục và đào tạo là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội
quyết định tương lai của mỗi con người, quốc gia, dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: phải phát huy mối liên hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình - xã hội
trong giáo dục và đào tạo. Đây là lực lượng cơ bản nhất, quan trọng nhất.
Điều này được thể hiện trong bài nói của Người tại Hội nghị cán bộ Đảng
ngành giáo dục (6-1957): "Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu
giáo dục trong gia đình và ngòai xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
Trong Thư gửi cán bộ, thầy giáo, cô giáo, học sinh nhân dịp khai giảng năm
học mới, Người khẳng định: "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải
phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa,... do đó các ngành, các cấp đảng và

chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này,
phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên
những bước phát triển mới”.
Những kiến giải của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo nói
chung trở thành tài sản quý báu của dân tộc, là ngọn hải đăng soi đường sự
nghiệp trồng người của Đảng và Nhà nước ta.
Thực trạng nhức nhối của nền giáo dục Việt Nam hiện nay đã và đang
đặt ra những vấn đề cần phải nghiên cứu. Do đó, phải quán triệt những quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, đồng thời, phải
không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục là một trong những giải
pháp quan trọng cần được thực hiện.
1.2.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về giáo dục đạo đức, lối
sống .
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống
chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Vì
vậy, ngay từ khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “một

13


dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là
một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng.
Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra
quyết định số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục
là bộ phận quan trong của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ
chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt
nguyên lý giáo dục, học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động
sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù
hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của

Đảng.
Đặc biệt, sự nghiệp Giáo dục và Giáo dục lý luận chính trị được Đại hội
toàn quốc lần thứ X đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh hơn nữa nhằm giáo dục
con người phát triển toàn diện, nhất là thế hệ trẻ.
Đại hội X đã xác định mục tiêu giáo dục là nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ
tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, lòng nhân
ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ lập nghiệp,
không cam chịu nghèo nàn, đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản,
làm chủ năng lực nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với
chính trị, có ý chí vươn lên về khoa học – công nghệ.
Để cụ thể chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển
giáo dục một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo
dục mầm non, thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và trung
học cơ sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lợi để cho mội người
học tập và học tập suốt đời.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại càng phải quan tâm hơn nũa đến sự
nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ và
nhân dân lao động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn

14


hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm chủ khoa học
tiên tiến.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống.
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, hiếm có lãnh tụ nào quan tâm
đến sự nghiệp giáo dục một cách toàn diện như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người
khẳng định rằng: mọi người Việt Nam đều phải được giáo dục, phải có kiến
thức để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà.
Nhận thức vai trò chủ động, tích cực của đạo đức, ngay khi chuẩn bị

thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1927 trong tác phẩm Đường kách
mệnh, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đặt lên trang đầu nội dung về tư
cách một người cách mệnh. Có thể coi đó là chuẩn mực đầu tiên cần có cho
những ai bước vào con đường cách mạng. Tư cách ấy có 3 nhóm vấn đề: tự
mình phải làm gì; đối với người phải thế nào; làm việc phải như thế nào.
Trong 14 điểm tự mình phải làm gì rất đáng chú ý như: Giữ chủ nghĩa cho
vững; không hiếu danh, không kiêu ngạo; nói thì phải làm; ít lòng tham muốn
về vật chất; cần kiệm; chí công vô tư ... Có ý nghĩa sâu sắc, bền vững. Nhiều
thế hệ các chiến sĩ cách mạng, những đảng viên cộng sản đã giữ vững khí tiết
cộng sản, ý chí đấu tranh trên nền đạo đức đó.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến thế hệ trẻ, đặc biệt là thanh, thiếu niên.
Đào tạo thế hệ trẻ là đào tạo thế hệ tương lai cho đất nước. Trong Lời kêu gọi
chống nạn thất học (10-1945), Người viết: "Mọi người Việt Nam phải hiểu
biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể
tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết
viết chữ quốc ngữ”. Tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đã được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông
qua và công bố vào ngày 10-12-1948. Điều 26 của Tuyên ngôn ghi rõ: "Mọi
người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở
bậc tiểu học và căn bản. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật

15


và chuyên nghiệp phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng
bình đẳng cho mọi người, trên căn bản tài năng xứng đáng…”.
Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra những quan điểm lý luận có ý nghĩa quan
trọng đối với công cuộc xây dựng nền giáo dục mới, mà còn có những kiến
giải khoa học và sáng tạo về phương pháp giáo dục. Người yêu cầu phải căn
cứ vào đặc điểm, nhu cầu của đối tượng, nội dung giáo dục, và các điều kiện

cơ bản của nhà trường mà xác định các phương pháp dạy học phù hợp.
Theo đó, phải lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm
nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Dạy và
học phải gắn tri thức lý luận với thực tiễn cuộc sống. Người nhấn mạnh: "Học
phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành.
Học với hành phải kết hợp với nhau”.
Lấy phương pháp nêu gương để giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu
cầu người giáo viên phải "làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức và
lối làm việc”. Người lấy tinh thần "Học, học nữa, học mãi,” của Lê-nin và
tinh thần "học không biết chán, dạy không biết mỏi” của Khổng Tử làm
mẫu số chung cho giáo viên và yêu cầu mọi người phải khắc ghi, thực
hành lời dạy ấy. Bản thân Người là tấm gương sáng về tinh thần tự học, tự
tìm tòi, kiên trì vượt quan khó khăn.
Phương pháp giáo dục phải thiết thực, lấy tự học làm cốt, học tập suốt
đời, đồng thời phải dạy cách học cho người học.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả
cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới,
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội
phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt
giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính...
Huy động mọi lực lượng tham gia giáo dục và đào tạo con người, hướng
đến xã hội hóa giáo dục

16


Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh khẳng định rằng giáo dục và đào tạo
là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình, nhà trường và các lực
lượng xã hội. Mỗi thành phần trong lực lượng đó đều có vai trò, vị trí quan

trọng khác nhau nhưng cần có sự hợp lực, thống nhất trong quá trình giáo dục
- đào tạo thế hệ trẻ. Vì, chỉ có kết hợp chặt chẽ các yếu tố này mới tạo thành
sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp "trồng người” đi đến thắng lợi.
Từ nhận thức giáo dục và đào tạo là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội
quyết định tương lai của mỗi con người, quốc gia, dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: phải phát huy mối liên hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình - xã hội
trong giáo dục và đào tạo. Đây là lực lượng cơ bản nhất, quan trọng nhất.
Điều này được thể hiện trong bài nói của Người tại Hội nghị cán bộ Đảng
ngành giáo dục (6-1957): "Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu
giáo dục trong gia đình và ngòai xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.
Trong Thư gửi cán bộ, thầy giáo, cô giáo, học sinh nhân dịp khai giảng năm
học mới, Người khẳng định: "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải
phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa,... do đó các ngành, các cấp đảng và
chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này,
phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên
những bước phát triển mới”.
Những kiến giải của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo nói
chung trở thành tài sản quý báu của dân tộc, là ngọn hải đăng soi đường sự
nghiệp trồng người của Đảng và Nhà nước ta.
Thực trạng nhức nhối của nền giáo dục Việt Nam hiện nay đã và đang
đặt ra những vấn đề cần phải nghiên cứu. Do đó, phải quán triệt những quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, đồng thời, phải
không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục là một trong những giải
pháp quan trọng cần được thực hiện.

17


1.3. Vai trò của công tác giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên
hiện nay.

1.3.1. Đối với tổ chức đoàn, hội, đội.
Thời điểm này đây, tổ chức đoàn, hội, đội từ tỉnh đến cơ sở, chi đoàn cần
quan tâm sâu sắ hơn phong trào hành động cụ thể: “ Mỗi thanh niên một việc
làm có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội”; “ Mỗi đoàn viên, hội viên
một việc làm thiết thực cho tổ chức”. Thông qua đó từng bạn trẻ thấy được
trách nhiêm đối với công việc, tự khẳng định sự sang tạo của mình trong lao
động, công tác, học tập. Tổ chức đoàn hội đội thực sự là cầu nối giữa các môi
trường: gia đinh – nhà trường – xã hội chứ không thể đưng độc lập, nói chung
chung… và như thế, chung ta mới cụ thẻ hóa Nghị quyết của Đảng vào đời
sống của thanh niên bằng nhưng chương trình, kế hoạch đung sát hợp tâm tư,
nguyện vọng của xã hội đang cân gì ở lớp trẻ? Gia đình đang cân gì đối với
con em? Bản than thanh niên đang cần gì đối với gia đình, ở tổ chức và xã
hội?
Để phát triển xã hội bền vững, những nhà giáo dục và những người có
trách nhiệm phải có một hướng đi đúng đắn cho thế hệ trẻ hôm nay. Trong giá
trị đạo đức, cần định hướng để họ có một lý tưởng sống, biết xây dựng cuộc
sống trên những giá trị cao đẹp. Hơn nữa, chúng ta cần nhìn vào tình hình
thực tế để cảnh giác hơn đối với những cạm bẫy đang cám dỗ giới trẻ, như
nhà báo Lưu Đình Triều, khi đọc xong cuốn sách: “Hãy ngăn chặn cái xấu từ
xa, trước khi nó hình thành và phát triển”. Toàn xã hội cần phải làm nhiều
hơn nữa để giáo dục một thế hệ trẻ có đạo đức, có lý tưởng sống để có thể
đứng vững trước mọi thách thức và sóng gió trong cuộc đời.
1.3.2. Đối với thanh niên.
Có thể nói, công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc ở mọi
thời việc vun đắp nền tảng của quá trình “trồng người” cho thế hệ trẻ.
Thanh niên là lực lượng đông đảo trong dân số, với những kiến thức
chuyên ngành được trang bị, điều quan trọng hơn cả là họ phải được giáo

18



dục đạo đức, lối sống theo chuẩn giá trị, phù hợp với đạo đức xã hội có
như vậy với kiến thức song hành họ sẽ vững bước tương lai vào con
đường, lập thân, lập nghiệp, phụng sự cho tổ quốc, cho tập thể và cho
chính bản thân mình vững bước vào đời, có khả năng kiểm soát và tránh
xa mọi cám dỗ trong cuộc sống.
Hiện nay không ít người cho rằng thanh niên sống thiếu lý tượng,
phai nhặt lẽ sống, ưa hưởng thụ, ham mê vật chất, chây lười lao động
sống ích kỷ, không ít trên sách báo tivi… đưa tin những hình ảnh một số
thanh niên gây án khi tuổi đời còn rất trẻ và câu trả lời của họ cũng rất
ngây ngô khi bị xét hỏi chứng tỏ họ chưa được giáo dục đầy đủ về tư
cách đạo đức trong cuộc sống. Điều đó cho thấy vai trò của giáo dục đạo
đức, lối sống cho thanh niên rất cấp thiết. Chỉ khi họ được giáo dục trang
bị giáo dục đạo đức thì họ mới có khả năng miễn dịch trước cái xấu,
trước cám dỗ trong cuộc sống. Có như vậy họ mới tự tin sống và nhận
thức được đúng – sai; điều quan trong hơn cả là những chủ nhân tương
lai của đất nước mới thực sự “ Vừa hồng, vừa chuyên”; đảm nhận trách
nhiệm xây dựng bảo vệ tổ quốc, xây dựng bảo vệ phát triển cơ quan đơn
vị và cho chính bản thân mình.
Nhìn chung đại đa số đoàn viên thanh niên ngày nay có lập trường
chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
có chí tiến thủ, tích cực học tập, trau dồi phẩm chất, đạo đức cách mạng,
sẵn sàng tình nguyện đến những nơi khó khăn, gian khổ để đem sức trẻ,
trí tuệ, lòng nhiệt huyết của mình phục vụ, cống hiến cho đất nước.

19


Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục đạo đức lối sống
cho thanh niên Huyện Yên Bình -Tỉnh Yên Bái thời gian qua .

2.1. Đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội của huyện Yên Bình.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Yên Bình là huyện miền núi nằm ở phía đông nam tỉnh Yên Bái. Trung
tâm huyện cách thành phố Yên Bái 8Km về phía đông nam, cách thủ đô Hà
Nội 170Km về phía tây bắc, phía đông nam giáp huyện Đoan Hùng của tỉnh
Phú Thọ, phía tây nam giáp thành phố Yên Bái, phía tây bắc giáp thành phố
Yên Bái, huyện Trấn Yên và Huyện Văn yên, phía đông bắc giáp huyện Hàm
Yên của tỉnh Tuyên Quang, phía bắc giáp huyện Lục Yên.
Trên địa bàn có tuyến quốc lộ 70 từ Hà Nội đi Yên Bái và đi Lào Cai
chạy qua trung tâm và một số xã của huyện. Huyện Yên Bình có tổng diện
tích tự nhiên là 77.319,67 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp có 57.690,43
ha chiếm 74,61% tổng diện tích tự nhiên.
Yên Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có nhiệt độ trung
bình hàng năm là 22,90C. Lượng mưa bình quân hàng năm là 2.121,2mm, số
ngày mưa trung bình là 136 ngày, tập trung từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm.
Độ ẩm trung bình là 37% và không có sương muối. Do đặc điểm là huyện có
diện tích mặt nước nhiều (hồ Thác Bà trên 15.000 ha) nên khí hậu vùng này
mang tính chất vùng hồ: mùa đông ít lạnh, mùa hè mát mẻ, thuận lợi cho việc
phát triển nông, lâm nghiệp, trồng rừng phòng hộ và rừng nguyên liệu; trồng
cây công nghiệp chè, cao su, cây ăn quả và là tiềm năng để phát triển ngành
nuôi trồng thuỷ sản, phát triển du lịch dịch vụ.
Địa hình của huyện Yên Bình khá phức tạp, với đặc điểm địa hình
chuyển tiếp từ Trung du lên miền núi, địa hình cao dần từ Đông Nam lên Tây
Bắc được tạo bởi hai dãy núi: Cao Biền nằm phía tả ngạn sông Chảy ( phía
Đông hồ Thác Bà) và Con Voi nằm phía hữu ngạn sông Chảy( phía Tây hồ
Thác Bà ).

20



Đặc điểm đất đai thổ nhưỡng của Yên Bình là nhiều loại đất, nhóm đất
đỏ vàng (Feralit) là nhóm đất chiếm phần lớn diện tích trong huyện (61%)
gồm nhiều loại đất có khả năng phát triển cây công nghiệp (chè, cà phê, cao
su, cây ăn quả), cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày
(mía...) và phát triển đồng cỏ để chăn nuôi đại gia súc. Nhóm đất dốc tự phân
bổ rải rác ở các thung lũng sông suối có khả năng cải tạo thâm canh trồng cây
lương thực, thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Nhóm đất phù sa phân
bố dọc hai bên bờ sông Chảy có đặc tính độ phì cao của phù sa đáp ứng được
yêu cầu của các loại cây màu và cây lương thực.
Các tài nguyên thiên nhiên của huyện khá phong phú, ngoài tài nguyên
nước và tài nguyên rừng còn kể đến một số khoáng sản: đá vôi hoa hoá có độ
trắng cao, đá vôi vật liệu xây dựng, chì, kẽm, pyrit, cao lanh, fenpat; ngoài ra
có đá quý, bán đá quý và các loại cát, quặng vàng, than nâu...những loại tài
nguyên này đều có trữ lượng khá lớn.
Là địa phương có nhiều lợi thế so sánh về vị trí địa lý, là đầu mối giao
lưu kinh tế quan trọng của Tỉnh Yên Bái và Lào Cai với Hà nội, là cửa ngõ
của vùng Tây Bắc,đó là thuận lợi quan trọng để phát triển kinh tế dịch vụ.
Huyện có nhiều tiềm năng về khoáng sản, có thể phát triển công nghiệp, đặc
biệt là công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Có nhiều tiềm năng để phát
triển nông nghiệp: đất đai, thổ nhưỡng phù hợp với nhiều loại cây trồng công
nghiệp, cây ăn quả có múi, cây lương thực và có nhiều điều kiện tốt để phát
triển chăn nuôi đại gia súc, nuôi trồng thuỷ sản.

21


2.1.2 Tình hình kinh tế xã hội
Yên Bình có dân số là 107.398 người, lực lượng lao động xã hội
45.037 người, trong đó lực lượng lao động nông thôn chiếm 76,5%. Trên địa
bàn huyện có 5 dân tộc chính là Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao lan (Sán chay)

sống xen kẽ với nhau từ lâu đời.
Mật độ dân cư bình quân toàn huyện là 139 người dân/Km 2, nhìn chung
sự phân bố dân cư không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các xã, huyện và thị
trấn huyện lỵ, riêng xã vùng cao Xuân Long chỉ có 49,1 người/km 2. Đồng bào
các dân tộc trong huyện đoàn kết, cần cù lao động, tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước.
Yên Bình có 26 đơn vị hành chính cấp cơ sở gồm 24 xã và 2 thị trấn (1
thị trấn trung tâm huyện lỵ), trong đó có 1 xã vùng cao và 6 xã đặc biệt khó
khăn. Các đơn vị này được phân bố thành 4 vùng: Vùng trung tâm huyện có 4
xã và Thị trấn Yên Bình; Vùng Tây hồ gồm 9 xã dọc quốc lộ 70 ; vùng hạ
huyện có 6 xã và thị trấn Thác Bà; vùng thượng huyện có 9 xã nằm ở phía
Đông và đông bắc hồ Thác bà.
Hiện nay, toàn huyện có 79 trường học với gần 900 lớp học từ
ngành học mầm non đến phổ thông trung học, tổng số học sinh hàng năm
có khoảng 25.000 em, chiếm tỷ lệ 24% so với dân số. Năm 1995 toàn
huyện đã cơ bản hoàn thành xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.
Hiện có 25/26 xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia vè phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi; 26/26 xã, thị trấn được công nhận đạt chuẩn quốc
gia về phổ cập trung học cơ sở .
Huyện có một bệnh viện trung tâm, 3 phân viện – phòng khám khu vực
(Thác Bà, Cẩm Nhân và Cẩm Ân) và 26 trạm y tế cơ sở xã, thị trấn, bình quân
1 vạn dân có 3,2 bác sỹ.
Về tình hình kết cấu hạ tầng nông thôn, toàn huyện có 422 công trình
thuỷ lợi lớn nhỏ đang sử dụng khai thác, trong đó có 107 công trình kiên cố,
35 công trình tạm hàng năm đáp ứng khoảng 75% nhu cầu tưới tiêu. Trên địa

22


bàn có 56 km đường quốc lộ, 93,5 km đường tỉnh lộ và gần 400km đường liên

xã, liên thôn. 100% số xã đều đã có đường ô tô đến trung tâm xã.
Ngoài ra, trên địa bàn còn có các tuyến đường thuỷ quan trọng trên
lòng hồ Thác bà, nối liền các xã, thị trấn ven hồ. Mạng lưới điện quốc gia đã
được phủ hầu hết 26/26 xã, thị trấn. Về thông tin liên lạc, hiện tại trên địa bàn
huyện đã có 26/26 xã có điện thoại, 26/26 xã đã xây dựng được điểm bưu
điện văn hoá. Bình quân 10 máy điện thoại cố định/100 người dân.Toàn
huyện có trên 99 % số dân được sử dụng điện; 96% diện tích được phủ sóng
phát thanh truyền hình. Tỷ lệ hộ nghèo còn 17%.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế
xã hội, song huyện còn nhiều khó khăn: Kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém,
giao thông đi lại khó khăn do bị chia cắt bởi Hồ Thác Bà. Diện tích đất canh
tác nông nghiệp có ít, công nghiệp địa phương phát triển chưa mạnh. Trình
độ dân trí còn thấp không đồng đều giữa các dân tộc, tập quán canh tác, tập
quán sinh hoạt vẫn còn lạc hậu, đời sống của một bộ phân nhân dân còn gặp
nhiều khó khăn.
2.2. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên.
Huyện Yên Bình -Tỉnh Yên Bái từ năm 2009 đến nay.
2.2.1. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên Huyện
Yên Bình -Tỉnh Yên Bái trong ngững năm qua.
Về thực trạng đạo đức ở Huyện Yên Bình -Tỉnh Yên Bái trong những
năm qua, giáo dục rèn luyện đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên trong
thời kỳ CNH, HĐH, hội nhập kinh tế thế giới là góp phần đào tạo, giáo dục
thế hệ thanh niên vừa "hồng", vừa "chuyên", chủ nhân tương lai đưa nước nhà
vững bước tiến cùng các dân tộc tiên tiến, xứng đáng với mong ước của Bác
Hồ kính yêu.
Phần lớn thanh niên trên địa bàn đều ý thức rõ trách nhiệm và nghĩa vụ
của minh phải học tập rèn luyện để trở thành công dân tốt có ích cho gia đình

23



xã hội và được thể hiện qua các hoạt động: tình nguyện, đền ơn đáp nghĩa,
giúp đỡ người già, người neo đơn, người tàn tật…
Tất cả các đoàn viên thanh niên đều ý thức trách nhiệm cao tinh thần tư
giác và biết nhận thức và tham gia mọi hoạt đông, thông qua các phong trào
thi đua như: thanh niên làm kinh tế giỏi, thanh niên lập thân lập nghiệp…đa
số thanh niên đã có ý thức tốt trong quan hệ bạn bè, có tinh thần giúp đỡ mọi
người, có lòng nhân ái, xây dựng được nhiều mối quan hệ bạn bè tốt, trong
sáng lành mạnh.
Bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế cần sớm khắc phục: Một bộ phận
nhỏ thanh niên chưa có ý thức phấn đấu rèn luyện, còn vi phạm nhiều nội quy
định của pháp luật: như đánh nhau, vô lễ, hút thuốc, uống rượu, uống bia, nói
tục, trộm cắp tài sản, bỏ nhà đi lang thang, vi phạm luật giao thông, và một số
vi phạm khác...một số thanh niên vi phạm khuyết điểm có khi bao che cho
nhau thiếu thành khẩn, lực lượng thanh niên chậm tiến về đạo đức cần thiết
phải rèn luyện lại.
* Các hoạt động ngoại khóa
Huyện Đoàn đã tổ chức cho thanh niên tham gia tích cực các hoạt động
giáo dục theo quy định của biên chế các năm 2008 – 2011do sở giáo dục và
đào tạo hướng dẫn:
Giáo dục an toàn giao thông hàng tháng trong năm, đã mời được đội
cảnh sát giao thông công an Huyện Yên Bình đến tuyên truyền và được đông
đảo thanh niên cán bộ tham dự.
Giáo dục phòng chống ma túy, tệ nạn xã hội thông qua các buổi
sinh hoạt,buổi nói chuyện chuyên đề của các báo cáo viên do phòng tư
pháp, và công an Huyện Yên Bình. Đa số đoàn viên thanh niên của huyện
tham gia đầy đủ.
Giáo dục bảo vệ môi trường và phòng chống cháy rừng thông qua hoạt
động ngoại khóa của huyện kết hợp cùng ban kiểm lâm huyện Đông Lý thực
hiện.


24


Tổ chức được các hội thi hái hoa dân chủ về chủ đề giáo dục môi
trường, giáo dục giới tính, sinh sản sức khỏe vị thành niên giáo dục rèn luyện
đạo đức tìm hiểu về luật giao thông, tìm hiểu về truyền thống yêu nước. Tổ
chức sinh hoạt dưới dạng tuyên truyền, phát động các phong trào thi đua theo
từng chủ đề, đợt thi đua có liên quan đến các phong trào giáo dục như hoạt
động chào mừng các ngày lễ lớn: 26/3, 19/5, 22/12...nêu gương người tốt việc
tốt, vượt khó, thanh niên làm kinh tế giỏi, thông qua đó giáo dục ý thức đạo
đức và ý thức kỷ luật cho thanh niên...
Hàng tuần Huyện Đoàn thường tổ chức sinh hoạt đoàn vào ngày thứ 7
nhằm giáo dục các đoàn viên học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, trở thành người công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội trở thành
đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Trong các năm 2009 đến nay
các hoạt động ngoại khóa của Huyện phong phú và nhiều hình thức lôi quấn
thanh niên có tác dụng giáo dục, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt cho
thanh niên, xây dựng lối sống tập thể, tinh thần hợp tác, tương trợ và ý thức
chấp hành nội quy, quy định của pháp luạt và xã hội.
* Các hoạt động giáo dục lao động, hướng nghiệp.
Giáo dục lao động: Huyện Đoàn tổ chức cho thanh niên lao động hang
tuần, thu dọn vệ sinh môi trường, cải tạo quang
Giáo dục hướng nghiệp: cảnh xung quanh, thông qua các buổi lao động
giáo dục cho thanh niên tinh thần kỷ luật biết thương yêu và kính trọng người
lao động.
Huyện Đoàn chỉ dạy hướng nghiệp cho đoàn viên theo chương trình
quy định của bộ giáo dục và đào tạo lồng ghép vào các thông tin qua đó giáo
dục cho thanh niên nghề nghiệp, biết tự chọn được nghề nghiệp của mình
hướng cho thanh niên biết và lựa chọn đúng.

Giáo dục thẩm mỹ: Thông qua các mỹ thật giáo dục cho thanh niên biết
cảm nhận được cái đẹp chân chính của cuộc sống lành mạnh.

25


×