Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND xã đáp ứng yêu cầu thực hiện dân chủ 2 cơ sở ở Nam Định hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.51 KB, 123 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vấn đề đổi mới hệ thống chính trị phát huy quyền làm chủ của nhân
dân đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là một trong những vấn đề cơ bản
và cấp thiết. Ngay từ khi khởi xướng đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã coi việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là nội
dung thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nó còn là mục tiêu,
động lực để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để thực hiện được mục tiêu đó vấn đề đổi mới và hoàn thiện bộ máy
nhà nước nói chung và tổ chức hệ thống chính trị ở cơ sở nói riêng được
coi là một trong những nhân tố thúc đẩy nhanh hơn quá trình dân chủ hoá
và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chính quyền xã là nơi gần dân nhất, trực tiếp giải quyết các công việc cụ
thể của dân, là nơi gắn bó giữa chính quyền với người dân. HĐND xã là cơ
quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở xã, do
nhân dân xã bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân xã và cơ quan nhà nước
cấp trên. Thực tiễn cho thấy ở đâu chính quyền xã mạnh thì ở đó mọi chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, ở
đâu chính quyền xã kém thì ở đó đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nhân
dân gặp nhiều khó khăn, trật tự an ninh không được đảm bảo, quyền làm chủ
của nhân dân không được phát huy.
Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất ở cơ sở, trong suốt quá trình
phát triển HĐND xã luôn luôn được xây dựng, đổi mới và đã từng bước
trưởng thành, hoàn thiện đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong tổ
chức bộ máy nhà nước, góp phần đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Tuy
nhiên trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của HĐND xã hiện nay do nhiều
nguyên nhân vẫn còn những tồn tại nhất định, thực chất chưa tương xứng với



2
vị trí, vai trò của nó trong hệ thống quyền lực nhà nước cũng như với nhiệm
vụ mà nhân dân giao phó. Nhiều nơi hoạt động của HĐND chỉ mang tính hình
thức, tính đại diện và khả năng thay mặt nhân dân quyết định các vấn đề quan
trọng ở địa phương thấp, dẫn đến việc vi phạm quyền làm chủ của nhân dân,
cản trở quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội. Vì vậy việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của HĐND hiện nay đang được đặt ra hết sức găy gắt.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định phải:
Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính
quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý
lãnh thổ; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; tổ chức
hợp lý HĐND; kiện toàn các cơ quan chuyên môn của UBND và
bộ máy chính quyền xã, phường, thị trấn [17, tr.133].
Tại Hội nghị Trung ương 5 khoá IX, Đảng ta đã ra nghị quyết về “Đổi mới
và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, Nghị
quyết khẳng định vai trò quan trọng của hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc tổ
chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân... Nghị quyết cũng xác định những điểm căn bản,
cần thiết nhất về quan điểm, phương hướng và giải pháp để đổi mới nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở nói chung và HĐND xã nói riêng.
Trong Báo cáo chính trị của BCH TW Đảng khoá IX trình Đại hội X của
Đảng cũng nhấn mạnh: “nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND
trong việc quyết định và ban hành những chính sách trong phạm vi được phân
cấp” nhằm xây dựng và kiện toàn nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Từ những lý do trên chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Đổi mới tổ
chức và hoạt động của HĐND xã đáp ứng yêu cầu thực hiện dân chủ



3
cơ sở ở Nam Định hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên
ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Vấn đề tổ chức và hoạt động của HĐND nói chung và HĐND xã nói riêng
là đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học xã hội như: Luật học, Lý
luận và lịch sử của nhà nước và pháp luật, Hành chính học, Chính trị học... cho
nên có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này đã được công bố như:
GS,TS Hoàng Chí Bảo (Chủ biên), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông
thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Ở đây các tác
giả đã đề cập đến việc thay đổi cơ cấu HĐND xã, tăng cường số lượng đại
biểu là dân, là quần chúng ngoài Đảng, áp dụng những biện pháp tăng thẩm
quyền, quyền hạn của HĐND trong việc kiểm tra, giám sát UBND...
PGS,TS Vũ Hoàng Công, Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu
hướng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. Trong cuốn sách
tác giả bàn về hệ thống chính trị ở cơ sở, trong đó có đặt ra yêu cầu phải hoàn
thiện HĐND xã cho phù hợp với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và
việc thi hành quyền làm chủ của nhân dân.
Ths Nguyễn Hoàng Anh, “Tổ chức và hoạt động của HĐND cấp xã
trong giai đoạn hiện nay”, Dân chủ và Pháp luật, số 5/2003. Tác giả đã khái
quát thực trạng hoạt động của HĐND cấp xã thời gian qua, nguyên nhân và
đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã.
Bùi Xuân Đức, “Bàn về tổ chức của HĐND trong điều kiện cải cách bộ
máy nhà nước hiện nay”, Nhà nước và Pháp luật, số 12/2003.
Đinh Ngọc Giang, “Về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các
cấp nhiệm kì 2004 - 2009”, Quản lý nhà nước, 2/2005.
TS Phan Tuấn Khải, “Tổ chức và hoạt động của HĐND trong điều kiện
hiện nay”, Nghiên cứu lập pháp, số 6/2002.
TS Nguyễn Thị Hồi, “HĐND và UBND ở nước ta hiện nay”, Tạp chí

Luật học, số 1/2004.


4
Trương Đắc Linh, “Tổ chức và hoạt động của các ban của HĐND”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
Ths Nguyễn Quốc Tuấn, “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động của HĐND và UBND các cấp”, Tổ chức nhà nước, số 4/2004...
Vấn đề về tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và vấn đề đổi mới tổ
chức hoạt động của HĐND nói riêng được rất nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu nhưng các công trình nghiên cứu chủ yếu tiếp cận HĐND từ góc
độ Nhà nước và Pháp luật một cách khái quát, còn ở góc độ Chính trị học, khi
đặt vấn đề tổ chức và hoạt động của HĐND xã trong môi trường dân chủ và
thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay thì thực sự chưa có một tác giả
nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện. Vì vậy vấn đề Đổi mới tổ chức
và hoạt động của HĐND xã đáp ứng yêu cầu dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện
nay được chúng tôi coi là vấn đề quan trọng, cần thiết trong quá trình đổi mới
hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là đi sâu tìm hiểu thực chất của HĐND xã, đánh
giá đúng thực trạng để từ đó đưa ra những quan điểm và đề xuất các giải pháp
nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND xã đáp ứng được yêu cầu thực
hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất: Làm rõ vị trí, vai trò của HĐND xã trong tổ chức bộ máy nhà
nước và trong hệ thống chính quyền cơ sở, khẳng định vai trò của HĐND xã
trong việc đảm bảo dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của
HĐND xã hiện nay, từ thực tế khảo sát ở tỉnh Nam Định.
Thứ ba: Từ thực trạng khẳng định tính cần thiết phải đổi mới tổ chức và

hoạt động của HĐND xã, đề xuất và phân tích những giải pháp đổi mới tổ
chức và hoạt động của HĐND xã đáp ứng với yêu cầu đảm bảo dân chủ cơ sở
ở Nam Định và ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


5
Luận văn nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của HĐND xã, đặt nó
trong môi trường dân chủ hoá và đáp ứng yêu cầu thực hiện dân chủ cơ sở ở
Việt Nam hiện nay.
Trong phần thực trạng để có số liệu một cách cụ thể ngoài những đánh
giá chung tác giả lựa chọn một địa phương cụ thể là tỉnh Nam Định để khảo
sát, điều tra và đánh giá kết luận.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu Luận văn này là Chủ nghĩa Mác –
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề về Nhà nước và Pháp luật, về
dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Các tư tưởng, quan điểm mang
tính nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Luận văn còn được nghiên cứu trên cơ sở các số liệu được điều tra,
khảo sát về tổ chức và hoạt động của HĐND xã.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân
tích tổng hợp; phương pháp logic kết hợp với lịch sử; các phương pháp duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các phương pháp
điều tra xã hội học và khảo sát thực tiễn...
6. Dự kiến những đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Thông qua việc phân tích đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của
HĐND xã (từ thực tế tỉnh Nam Định) tác giả đưa ra được những giải pháp nhằm
đổi mới HĐND xã đáp ứng được với yêu cầu thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện
nay.

- Nếu đạt được yêu cầu trên, tác giả hy vọng Luận văn sẽ góp phần nhận
thức sâu hơn về HĐND xã, đặc biệt là vai trò của nó trong bộ máy nhà nước
cũng như trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo việc nghiên cứu, giảng dạy về
nhà nước, pháp luật, về quyền lực nhà nước và các cơ quan quyền lực nhà nước,
về hệ thống chính trị cơ sở... ở các trường đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước.


6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.

Chương 1
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ TRONG CƠ CẤU TỔ CHỨC
CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TA
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TA

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là sự kế thừa
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ra đời từ năm 1945, là thành quả của
cách mạng tháng 8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình hình thành và phát
triển của mình, Nhà nước ta là nhà nước đơn nhất, thống nhất của các dân tộc
sống trên lãnh thổ Việt Nam với chỉnh thể cộng hoà, dân chủ, nhân dân.
Điều 2: Hiến Pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy
định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”[26, tr.13].
Như vậy bản chất và mục đích của Nhà nước XHCN khác với các kiểu

nhà nước đã tồn tại trước đó. Cho nên nó đòi hỏi phải có một bộ máy tương
ứng phản ánh đúng bản chất của nhà nước, phù hợp với quy luật vận động
khách quan của xã hội, phù hợp với điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội và truyền thống của nước ta trong từng giai đoạn cụ thể của quá
trình xây dựng CNXH.
1.1.1 Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam


7
Bộ máy nhà nước XHCN là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung
ương xuống cơ sở, được tổ chức theo nguyên tắc chung thống nhất, tạo
thành một cơ chế chung đồng bộ để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của
Nhà nước XHCN.
Từ giác độ hệ thống, căn cứ vào trình tự hình thành, tính chất, vị trí,
chức năng của các cơ quan nhà nước thì mỗi cơ quan nhà nước là một mắt
xích không thể thiếu của bộ máy nhà nước. Hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà
nước tuỳ thuộc vào hiệu lực hiệu quả của từng cơ quan nhà nước.
1.1.1.1. Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước (còn gọi là các cơ
quan đại diện) bao gồm Quốc hội và HĐND các cấp.
+ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội do nhân dân cả nước
bầu ra theo chế độ bầu cử phổ thông, bình đẳng trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Quốc hội có các chức năng cơ bản sau:
- Lập hiến và lập pháp. Lập hiến là ban hành Hiến pháp và sửa đổi Hiến
pháp, lập pháp là ban hành luật và sửa đổi luật.
- Quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, quyết định
những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc

phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
- Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Quốc hội được quy định tại điều 84
Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức
Quốc hội năm 2001.


8
Quốc hội hoạt động thông qua các hình thức như: kỳ họp của Quốc hội;
hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban
của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội.
Lãnh đạo Quốc hội có Chủ tịch Quốc hội và các phó Chủ tịch Quốc
hội, của các đại biểu Quốc hội.
Trong Quốc hội còn có Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc
và các uỷ ban khác của Quốc hội. Các cơ quan này là những cơ quan của
Quốc hội, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số, nhiệm kỳ của
Uỷ ban dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Nhiệm kỳ của Quốc hội nước ta là 5 năm.
+ Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đại
diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên. HĐND ở địa phương được tổ chức theo ba cấp: HĐND tỉnh,
HĐND huyện, HĐND xã.
Căn cứ vào Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên,
HĐND ra Nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương, về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân
sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương, về biện pháp ổn định và nâng cao đời
sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tốt nghĩa vụ

đối với Nhà nước.
* Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội. Chủ
tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhiệm vụ


9
quyền hạn của Chủ tịch nước được quy định tại các Điều 103, 104, 105 và
Điều 106 của Hiến pháp.
Phó Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, Phó
Chủ tịch nước giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch uỷ nhiệm
thay Chủ tịch nước làm một số nhiệm vụ. Khi Chủ tịch nước không làm việc
được trong thời gian dài, thì phó Chủ tịch nước đảm nhận quyền Chủ tịch
nước. Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước, phó Chủ tịch nước đảm nhận
quyền Chủ tịch nước cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới.
Chủ tịch nước được trao nhiều nhiệm vụ, quyền hạn rộng lớn trong cả
ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy vậy về mặt tổ chức bộ máy nhà
nước Chủ tịch nước không phải là cơ quan thuộc hệ thống cơ quan quyền lực
nhà nước hoặc cơ quan quản lý hay cơ quan xét xử kiểm sát. Chủ tịch nước là
cơ quan có vị trí đặc biệt giữ vai trò quan trọng trong sự phối hợp giữa các bộ
phận của bộ máy nhà nước.
1.1.1.2. Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước (Còn gọi là các cơ
quan chấp hành, điều hành hoặc cơ quan hành chính nhà nước) bao gồm
Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp.
* Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Là cơ quan chấp hành của Quốc hội - Chính phủ phải chấp hành Hiến
pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường

vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và tổ chức thực hiện các văn
bản pháp luật đó;
- Là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ có toàn quyền giải quyết các vấn đề quản lý
nhà nước trên phạm vi toàn quốc, trừ những vấn đề thuộc quyền giải quyết
của Quốc hội và của Chủ tịch nước.


10
Với vị trí cơ quan hành chính nhà nước cao nhất “Chính phủ thống nhất
quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước”. Chính phủ chỉ đạo tập trung,
thống nhất các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cấp
chính quyền địa phương.
Chính phủ được lập ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ
chịu sự giám sát của Quốc hội trực tiếp hoặc thông qua sự giám sát của Hội
đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.
Trong các kỳ họp của Quốc hội, Thủ tướng và các thành viên của
Chính phủ phải báo cáo và trả lời chất vấn của Quốc hội.
+ Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Bộ, cơ quan ngang Bộ do Quốc hội quyết định việc thành lập, bãi bỏ
theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực trong phạm vi cả nước, quản lý
nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành lĩnh vực; thực hiện đại diện chủ sở
hữu phần vốn của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Bộ gồm hai loại: Bộ quản lý theo ngành, Bộ quản lý đối với lĩnh vực.

Bộ quản lý ngành là cơ quan của Chính phủ có chức năng quản lý
những ngành kinh tế, kỹ thuật văn hoá, xã hội nhất định. Bộ quản lý ngành có
chức năng, lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các cơ quan, đơn vị hành chính - sự
nghiệp, kinh doanh do mình quản lý về mặt nhà nước.


11
Bộ quản lý theo lĩnh vực là cơ quan của Chính phủ có chức năng quản
lý nhà nước theo từng lĩnh vực, liên quan tới hoạt động của tất cả các Bộ, các
ngành, các cấp, các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân.
Đứng đầu Bộ là Bộ trưởng. Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực, ngành do mình phụ
trách trong phạm vi cả nước, bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất, kinh
doanh của các cơ sở theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm trước Thủ
tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách; phải
trình bày vấn đề và trả lời chất vấn của Quốc hội, của các Uỷ ban của Quốc
hội, và của đại biểu Quốc hội.
Trong giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn của mình Bộ trưởng chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra UBND các cấp thực hiện các nhiệm vụ công tác thuộc
ngành, lĩnh vực theo đúng nội dung quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực;
có quyền đình chỉ việc thi hành và đề nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ
những văn bản của UBND, Chủ tịch UBND cấp tỉnh trái với các văn bản của
Bộ về ngành, lĩnh vực do Bộ, cơ quan ngang Bộ phụ trách và chịu trách
nhiệm về quyết định đình chỉ đó. Trong trường hợp UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương không nhất trí với quyết định đình chỉ thi hành của
Bộ trưởng thì vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền kiến nghị với Thủ tướng
Chính phủ đình chỉ thi hành Nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trái với các văn bản pháp luật của Nhà nước hoặc của Bộ
về ngành, lĩnh vực do Bộ phụ trách.
Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, ra quyết định, chỉ thị

thông tư, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với ngành và tất cả các địa
phương.
+ Uỷ ban nhân dân các cấp là cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương,
là cơ quan có thẩm quyền chung, thực hiện sự quản lý thống nhất mọi mặt đời
sống xã hội ở địa phương. Các sở, phòng, ban chuyên môn thuộc UBND là cơ


12
quan có thẩm quyền riêng thực hiện chức năng quản lý chuyên môn trong
phạm vi địa phương.
UBND do HĐND cùng cấp bầu ra là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp,
luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND.
UBND trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định có
quyền ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.
Chủ tịch UBND lãnh đạo điều hành hoạt động của UBND.
Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, UBND phải
thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
Chủ tịch UBND có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn
bản sai trái của cơ quan thuộc UBND và các văn bản sai trái của UBND cấp
dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái của HĐND cấp dưới, đồng thời đề
nghị HĐND cấp mình bãi bỏ những nghị quyết đó.
Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta có một số lượng
rất lớn nhiều tầng nấc, phân bố rộng khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
trên phạm vi cả nước.
1.1.1.3. Hệ thống các cơ quan xét xử và kiểm sát
Trong bộ máy Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam có hệ thống
các cơ quan thuộc thẩm quyền tư pháp đó là Toà án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân.
Hiến pháp nước ta quy định:

Toà àn nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có
nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ XHCN
và quyền làm chủ của nhân dân: bảo vệ tài sản của Nhà nước, của


13
tập thể: bảo vệ tính mạng,tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân [29, tr.71].
+ Hệ thống các cơ quan xét xử gồm: Toà án nhân dân tối cao; các Toà
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Toà án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Toà án quân sự và các Toà án
khác do luật định. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định
thành lập toà án đặc biệt.
Toà án nhân dân tối cao gồm có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm
phán, Thư ký toà án và Thẩm tra viên.
Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao gồm có: Hội đồng thẩm
phán, Toà án nhân dân tối cao; Toà án quân sự Trung ương, Toà hình sự, Toà
kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính, Toà dân sự và các toà phúc thẩm, Toà
án nhân dân tối cao; trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
quyết định thành lập các Toà chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án
Toà án nhân dân tối cao; bộ máy giúp việc.
Cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương gồm: Uỷ ban thẩm phán, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế,Toà lao
động, Toà hành chính, trong trường hợp cần thiết Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội quyết định thành lập các toà chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án
Toà án nhân dân tối cao; bộ máy giúp việc.
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Chánh án,
các Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án.
Toà án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có

Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư
ký Toà án.
Toà án nhân dân các cấp có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự,
kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, hành chính.


14
Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với Toà án các cấp,
chế độ cũ, Hội Thẩm nhân dân thực hiện đối với Toà án nhân dân tối cao và
Toà án quân sự. Chế độ bầu Hội Thẩm nhân dân được thực hiện đối với Toà
án nhân dân địa phương.
Hệ thống cơ quan xét xử là loại cơ quan nhà nước có chức năng đặc
thù, nó thể hiện trong hoạt động của mình, Toà án nhân dân các cấp chịu trách
nhiệm báo cáo công tác của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng
cấp, nhưng trong hoạt động xét xử lại độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
+ Hệ thống các cơ quan kiểm sát gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
các Viện kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, các Viện
kiểm sát quân sự.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền
địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang và công
dân, thực hành quyền công tố nhà nước. Các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan chính quyền địa
phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân, thực hành quyền
công tố trong phạm vi luật định.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung thống nhất theo ngành dọc và thực hiện chế độ thủ trưởng. Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm và phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội và trong

thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao lãnh đạo thống nhất toàn bộ hệ thống Viện kiểm sát, có
quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Viện trưởng, các Phó Viện trưởng,


15
các kiểm sát viên, các điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân địa phương,
Viện kiểm sát quân khu và khu vực.
1.1.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của bộ máy nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và
khoa học, phù hợp với bản chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành cơ sở
cho tổ chức và hoạt động các cơ quan nhà nước và toàn thể bộ máy nhà nước.
Đó là những yêu cầu khách quan thể hiện bản chất và bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta các nguyên tắc cơ bản được ghi
nhận trong Hiến pháp gồm có: Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân; nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước; nguyên tắc tập trung
dân chủ; nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc; nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc quyền lực nhà nước là tập trung
thống nhất không phân chia...
1.1.2.1. Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Xuất phát từ bản chất nhà nước của Nhà nước ta là “Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nhân dân là người tổ chức ra Nhà nước, thông
qua Nhà nước nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Nguyên tắc tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân được quy định tại Điều 1 Hiến pháp 1946, Điều
4 Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp 1980 và hiện nay tại Điều 2 Hiến pháp
1992 (sửa đổi) quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”[29, tr 13].
Thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thực chất là bảo đảm quyền
lực của nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội. Nhân dân là người tổ


16
chức ra Nhà nước, là chủ thể của quyền lực nhà nước. Toàn bộ hoạt động của
các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước chính là thực hiện quyền
lực của nhân dân giao phó.
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hai hình thức: dân chủ
đại diện và dân chủ trực tiếp.
Nội dung của dân chủ đại diện là nhân dân bầu ra Quốc hội và HĐND
các cấp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc
hội thành lập ra Chính Phủ và trao cho quyền hành pháp, Toà án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội trao cho quyền tư pháp. Ở địa phương,
Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân địa phương bầu ra, Hội đồng nhân
dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan đại biểu của nhân
dân ở địa phương. HĐND bầu ra UBND cùng cấp. HĐND giám sát đối với
hoạt động của UBND, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Nội dung của dân chủ trực tiếp là nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng
nhà nước, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và của địa phương. Nhân
dân kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức
nhà nước. Nhà nước phải xây dựng thiết chế bảo đảm cho nhân dân trực tiếp
thực hiện quyền lực nhà nước.
Để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
Nhà nước phải xây dựng và bảo đảm đầy đủ các yêu cầu sau:

- Bảo đảm xây dựng Quốc hội và HĐND các cấp thực sự là cơ quan đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, có thực quyền
và năng lực để thực hiện các chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước được
Hiến pháp và pháp luật quy định.


17
- Thể chế hoá các quyền tự do dân chủ của nhân dân và quy định cơ chế
bảo đảm thực hiện các quyền đó trên thực tế.
- Nhà nước phải quy định chế độ trách nhiệm phục vụ nhân dân của các
cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa và xử lý
nghiêm minh những biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và
các hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân của các cơ quan nhà nước, cán
bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên
chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền”[29, tr 15,16].
1.1.2.2. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước
Trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
là một bộ phận quan trọng giữ vai trò là hạt nhân của hệ thống chính trị đã
được quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1992 (sửa đổi): “Đảng Cộng sản Việt
Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ
của Hiến pháp và pháp luật”[29, tr 14]. Do vậy cần tăng cường vai trò lãnh
đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các
chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.

Nội dung của nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước được thể
hiện: Đảng định hướng sự phát triển về tổ chức bộ máy nhà nước; Đảng bồi
dưỡng, giới thiệu cán bộ ưu tú, có uy tín, có năng lực để nhân dân lựa chọn
bầu làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc các cơ quan nhà
nước bầu, bổ nhiệm giữ các chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước;


18
Đảng đề ra những đường lối, mục tiêu xây dựng Nhà nước; Đảng thực hiện sự
lãnh đạo của mình đối với Nhà nước bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của
các đảng viên, các tổ chức Đảng trong các cơ quan nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong giai đoạn hiện nay đòi
hỏi phải trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính
chủ động sáng tạo của các cơ quan nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng
không bao biện làm thay hoặc khoán trắng cho Nhà nước. Tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước phải vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên
những mặt cơ bản vừa bảo đảm phát huy vai trò chủ động của Nhà nước trong
việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong giai đoạn
hiện nay, Đảng phải khắc phục có hiệu quả các mặt yếu kém, khôi phục và
nâng cao uy tín của Đảng trong nhân dân. Đảng phải xây dựng vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, thực sự là hạt nhân trong hệ thống
chính trị.
1.1.2.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Điều 6 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân
và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ”[29, tr 15].
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong hệ thống
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa vì
nó là nguyên tắc cơ bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan

hệ giữa các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước, quy định mối quan hệ
giữa cơ quan nhà nước Trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương,
giữa cấp trên với cấp dưới, giữa thủ trưởng cơ quan nhà nước với cán bộ,
công chức trong cơ quan, quy định thẩm quyền, thủ tục ban hành văn bản
pháp luật của các cơ quan nhà nước, quy định lề lối làm việc, kiểm tra, giám
sát và xử lý các công việc trong hoạt động của bộ máy nhà nước.


19
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước được thể hiện: Phải bảo đảm sự chỉ đạo điều hành tập
trung thống nhất của các cơ quan nhà nước ở Trung ương đối với các cơ quan
nhà nước ở địa phương, của cấp trên với cấp dưới. Các cơ quan nhà nước
Trung ương có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, các cơ
quan nhà nước ở địa phương có trách nhiệm thi hành các quyết định của cơ
quan nhà nước Trung ương, đồng thời bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo và
khả năng độc lập trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
được giao của địa phương, cơ sở, của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà
nước.
Tập trung dân chủ là hai mặt của một vấn đề thống nhất. Trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước cần tránh hai khuynh hướng hoặc quá đề
cao tập trung mà coi nhẹ dân chủ làm ảnh hưởng đến quyền tự chủ, sáng tạo
của địa phương, của cấp dưới hoặc quá đề cao dân chủ, tuyệt đối hoá quyền tự
chủ của địa phương, của cơ sở mà hạ thấp vai trò chỉ đạo tập trung của Trung
ương đối với địa phương sẽ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, trật tự, kỷ cương nhà
nước lỏng lẻo, phân tán, cục bộ địa phương, vô chính phủ.
1.1.2.4. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc
Xuất phát từ đặc điểm của nước ta có nhiều dân tộc cùng sinh sống trên
một lãnh thổ và trong lịch sử dựng nước và giữ nước các dân tộc anh em đã
chung sức, đồng lòng chế ngự thiên nhân, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây

dựng Tổ quốc, vì vậy bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
phải tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc.
Điều 5 Hiến pháp 1992 (sử đổi) quy định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên
đất nước Việt Nam, Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân
tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy


20
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số”[29, tr 14]
Thực hiện nguyên tắc này, trong tổ chức bộ máy nhà nước luôn phải
bảo đảm cho các dân tộc có quyền bình đẳng trong xây dựng nhà nước, tham
gia quản lý nhà nước. Tất cả các dân tộc đều có đại biểu của mình trong các
cơ quan nhà nước nhất là Quốc hội và HĐND.
Trong hoạt động của Nhà nước luôn phải tính đến lợi ích của dân tộc,
chú ý đến lợi ích của các dân tộc ít người. Nhà nước cần có những chính sách
riêng cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các đồng bào
dân tộc nhằm nâng cao đời sống về vật chất và văn hoá của đồng bào các dân
tộc. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định “vấn đề dân tộc và
đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách
mang”. Mặt khác, Nhà nước nghiêm trị những hành vi miệt thị, chia rẽ, thù
hằn giữa các dân tộc, nhất là trong điều kiện hiện nay, bọn phản động trong
nước và nước ngoài đang thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình gây chia rẽ
tôn giáo, dân tộc gây mất ổn định chính trị - xã hội hòng lật đổ chính quyền
nhà nước.
1.1.2.5. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Sự ra đời của pháp luật gắn liền với sự ra đời của Nhà nước, Nhà nước

ban hành ra pháp luật để quản lý xã hội. Điều 12 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy
định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa”[29, tr 17].
Thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có nghĩa là mọi cơ quan nhà
nước, mọi cán bộ, công chức nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân
thủ pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật.


21
Thực hiện đúng đắn nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là bảo đảm sự thống nhất về kỷ
cương trật tự, hiệu lực quản lý trong hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo
đảm dân chủ và công bằng xã hội, tránh được khuynh hướng cục bộ, tuỳ tiện,
vô chính phủ, đấu tranh có hiệu quả để ngăn chặn tệ quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước.
1.1.2.6. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất
không phân chia
Ngay tại điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) đã khẳng định mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta và xác định một nguyên tắc mới trong
tổ chức và hoạt động của Nhà nước, đó là “quyền lực Nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[29, tr 13].
Các cơ quan trong bộ máy Nhà nước đều nằm trong một cơ chế phân
công và phối hợp thực hiện quyền lực thống nhất đó. Do đó không có sự phân
chia một cách tuyệt đối các cơ quan nhà nước thành cơ quan độc lập, cơ quan
lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp theo tư tưởng “tam quyền phân
lập” như một số nước phương Tây. Vì ở nước ta “Mọi quyền hành và lực
lượng đều ở nhân dân” nên “Các cơ quan nhà nước không tự quyền, mà chỉ có

thẩm quyền do nhân dân uỷ nhiệm cho theo quy định của pháp luật”.
1.2. VỊ TRÍ CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
XÃ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA

Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta là một thể thống nhất, bao gồm
ba tổ chức: Đảng, Chính quyền. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Mỗi tổ
chức có vai trò, chức năng riêng nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Trong
hệ thống chính trị thống nhất ấy, Đảng là hạt nhân giữ vai trò lãnh đạo hệ
thống, Chính quyền giữ vai trò điều hành, quản lý và nó quyết định chất


22
lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở. Còn các đoàn thể nhân dân là tổ chức
đại diện quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân ở địa phương.
1.2.1. Chính quyền xã đặc điểm, vị trí, vai trò
1.2.1.1. Đặc điểm của chính quyền xã ở nông thôn nước ta hiện nay
Chính quyền cấp xã là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp của
nước ta, là nền tảng của hệ thống chính trị, là cơ sở thực tiễn hình thành chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cấp xã là
cấp cuối cùng, gần dân nhất, sát dân nhất nên được gọi là cấp cơ sở.
Cấu trúc hành chính của làng xã Việt Nam được hình thành từ rất xa
xưa và vẫn tồn tại đến ngày nay không mấy thay đổi, kể cả ngày nay khi nền
kinh tế thị trường phát triển, các cơ sở hạ tầng nông thôn như: điện, đường,
trường, trạm được xây dựng, phát triển, các phương tiện hiện đại cũng được
trang bị để phục vụ đời sống dân cư, nhưng những nét đặc trưng của làng xã
như tổ chức sản xuất, tình làng nghĩa xóm, hình tượng nông thôn và các
phong tục tập quán đến hương ước lệ làng vẫn được bảo tồn và trở thành nét
văn hoá đặc trưng của làng xã Việt Nam.
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra đời, chính quyền cấp xã cũng được thành lập theo

đơn vị thôn làng. Hiến pháp năm 1946 ghi rõ chức năng nhiệm vụ và tổ chức
bộ máy chính quyền cấp xã gồm HĐND và Uỷ ban hành chính. Từ đó cho
đến nay, chính quyền xã dù có thay đổi ít nhiều nhưng vẫn giữ được những
đặc điểm và vị trí của nó trong bộ máy chính quyền nhà nước.
Hiện nay các tổ chức hành chính - lãnh thổ nhà nước, làng xã ở nước ta
có những đặc điểm sau:
- Về cơ cấu hành chính lãnh thổ và dân cư các làng xã ở nước ta hiện
nay chiếm khoảng 80% dân số với khoảng 80% diện tích của cả nước. Được
phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi lên miền núi, đến các hải


23
đảo. Tổ chức dân cư ở làng xã nước ta mang tính quần cư hơn là hỗn cư. So
với các thành phố, thị xã trong các thôn, làng thường có quan hệ họ hàng,
dòng tộc, có nhiều làng chỉ có một dòng tộc, mặt khác với diện tích kéo dài
địa hình núi non, sông ngòi phức tạp đã chia lãnh thổ Việt Nam thành những
vùng đất nhỏ hẹp khác nhau, vì vậy mật độ dân cư của các làng xã cũng khác
nhau. Xã đông dân cư chủ yếu tập trung ở các diện tích đồng bằng Bắc bộ, xã
có dân cư ít nhưng lại sống trên một diện tích đất đai rộng lớn chủ yếu là các
xã miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Với một tỷ lệ dân số đông được phân bố rộng khắp trên phạm vi cả
nước là một lợi thế để huy động nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội,
phát triển nông nghiệp, nông thôn, bảo vệ và giữ vững an ninh quốc phòng
của đất nước, nhưng nó cũng gây nhiều khó khăn cho việc quản lý dân cư,
giải quyết công ăn việc làm, đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội.
- Về phát triển kinh tế xã hội, nếu như ở các thành phố, nhất là các
thành phố lớn, việc phát triển kinh tế chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ, thương mại. Còn ở nông thôn kinh tế chủ đạo vẫn là sản xuất
nông nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt, tiểu thủ công nghiệp.
Nếu trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây sản xuất nông

nghiệp chủ yếu là thuần nông, tự cấp, tự túc thì trong cơ chế chuyển đổi cơ
cấu kinh tế hiện nay của Đảng và Nhà nước, kinh tế nông nghiệp đã có bước
tiến mới, đã xoá bỏ độc canh đối với cây lúa, phát triển những ngành nghề
mới như cung ứng, dịch vụ, khôi phục những ngành nghề truyền thống,
chuyển kinh tế nông nghiệp nông thôn từ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng
hoá theo đặc điểm và lợi thế so sánh từng vùng.
Ở các xã miền núi trước đây chủ yếu là sản xuất du canh, du cư thì nay
với chính sách giao đất, giao rừng, vay vốn ngân hàng ưu đãi đã chuyển sang
định canh, định cư, xây dựng kinh tế trang trại, phát triển kinh tế hàng hoá.
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách để phát triển kinh tế - xã hội


24
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nghị quyết 22/BTC tháng 11-1989 của Bộ
Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội đồng bào dân tộc và tiếp đó là Quyết
định 72/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) về phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Tiếp đó là chương
trình 327, chương trình 135 của Chính Phủ là cơ sở để phát triển kinh tế - xã
hội của đồng bào dân tộc.
Nhìn chung kinh tế - xã hội ở làng xã hiện nay đã có nhiều thay đổi nhưng
vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu, lao động thủ công vẫn chiếm
đa số, thu nhập thấp. Tất cả thực trạng đó đòi hỏi chính quyền cần phải quan
tâm, giải quyết kịp thời để bảo đảm sự phát triển kinh tế ở địa phương.
- Về văn hoá, xuất phát từ đặc điểm của dân tộc Việt Nam, trải qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam vẫn phải đấu tranh
chống lại thiên tai, địch hoạ vừa xây dựng đất nước. Do đó tạo cho dân tộc
Việt Nam một nền văn hoá đa dạng, phong phú, giàu bản sắc, một trong
những nét đặc trưng của văn hoá làng xã Việt Nam và Hương ước, lệ làng.
Hương ước, lệ làng Việt Nam có quá trình hình thành, tồn tại và phát
triển trong nhiều thế kỷ nay. Gắn liền với mọi biến cố thăng trầm về kinh tế,

chính trị, văn hoá, xã hội, Hương ước là sản phẩm pháp lý do dân làng sáng
tạo ra. Các cộng đồng làng xã đã sử dụng nó làm thước đo chuẩn mực để phân
biệt đúng sai trong quan hệ giao tiếp, ứng xử. Điều có ý nghĩa hơn là Hương
ước, lệ làng được sử dụng vào mục đích bảo vệ sản xuất, bảo vệ thuần phong
mỹ tục, bảo đảm an ninh của cộng đồng làng xã, chống lại mọi hiểm hoạ từ
bên ngoài. Mọi người trong làng xã đều tự nguyện, nghiêm chỉnh tuân thủ nó
có thể nói là hơn cả tuân thủ pháp luật. Trong công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay, thực hiện chủ trương khuyến khích nghiên cứu để kế thừa và phát
huy những truyền thống tốt đẹp thể hiện bản sắc dân tộc, nhiều địa phương
trong cả nước đã soạn thảo, ban hành các Hương ước, quy ước để phục vụ sự
nghiệp cách mạng hiện nay ở làng xã.


25
Ngày nay với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây
dựng, bảo tồn và phát triển nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, nhiều loại
hình văn hoá truyền thống được bảo tồn và phát triển, đồng thời với sự phát
triển của công tác văn hoá thông tin người dân đã có các phương tiện nghe
nhìn hiện đại. Ở phần lớn các xã đã có nhà bưu điện văn hoá. Sự tồn tại và
phát triển phong phú của các loại hình văn hoá nghệ thuật ở nông thôn góp
phần đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hoá, nâng cao dân trí của nhân dân,
tạo điều kiện tinh thần cho người lao động tích cực tham gia lao động sản
xuất để xây dựng quê hương đất nước. Tuy nhiên trong cơ chế thị trường, các
hoạt động nghệ thuật cũng dễ trở thành hàng hoá thương mại cùng với việc du
nhập trái phép và lưu hành các ấn phẩm mang nội dung không phù hợp với
nếp nghĩ, lối sống, phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam đang lưu hành
trên địa bàn làng xã cũng gây sự phức tạp cho hoạt động quản lý văn hoá nghệ
thuật của chính quyền ở xã.
Từ những đặc điểm, tình hình thực tế về cơ cấu hành chính - lãnh thổ
và dân cư, kinh tế, văn hoá vừa nêu trên cho thấy sự khác biệt của cấp xã so

với các cấp hành chính khác trong tổ chức hành chính - lãnh thổ ở nước ta. Từ
đó yêu cầu phải tổ chức được mô hình chính quyền có cơ cấu tổ chức hợp lý,
khoa học với cơ chế quản lý thích hợp để bảo đảm tổ chức quyền lực nhà
nước ở cơ sở đồng thời phát huy quyền dân chủ của nhân dân trên địa bàn xã.
1.2.1.2. Vị trí, vai trò của chính quyền xã trong bộ máy nhà nước.
Chính quyền xã (cấp xã gồm: xã, phường, thị trấn), là một cấp trong hệ
thống hành chính bốn cấp trong bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, là nền tảng của hệ thống chính trị. Là cơ sở thực tiễn để hình thành
cũng như thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, chính quyền xã có HĐND và UBND.
Đánh giá về vấn đề này GS.TS Hoàng Chí Bảo trong cuốn Hệ thống
chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay đã khẳng định:


×