Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

lý luận chung về Nhà nước, Pháp luật và Nhà nước quản lý xã hội bằng Pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.19 KB, 12 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, Nhà nước và Pháp luật là hai hiện tượng thuộc kiến
trúc thượng tầng, xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại, tồn tại, phát triển đến
ngày này và vẫn còn tiếp tục tồn tại đến chừng nào mà xã hội còn có sự phân
chia giai cấp. Mọi Nhà nước đều sử dụng Pháp luật làm công cụ để quản lý xã
hội, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Ở Việt Nam, Điều 12, Hiến pháp
1992, sửa đổi bổ sung năm 2001 nêu rõ “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Trong khuôn khổ
Tiểu luận này, chúng tôi xin phân tích một vài ví dụ điển hình tại Việt Nam để
chứng minh: Tại sao Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật?
I. Những vấn đề lý luận chung về Nhà nước, Pháp luật và Nhà nước quản lý
xã hội bằng Pháp luật
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1.Nhà nước và sự ra đời của Nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Nhà nước xuất hiện khi xã
hội đã phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Lịch
sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ chưa có giai cấp. Xã hội cộng sản nguyên thủy không
có Nhà nước và giai cấp. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, để tồn tại và phát
triển, con người phải không ngừng lao động. Qua lao động và cùng với lao động
của con người, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, của cải dư thừa ngày
càng nhiều, phân công lao động tự nhiên được thay thế bằng phân công lao động
xã hội. Trải qua ba lần phân công lao động xã hội lớn (Chăn nuôi tách khỏi trồng
trọt, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, thương nghiệp xuất hiện), xã hội
1


dần xuất hiện chế độ tư hữu, từ đó, trong xã hội xuất hiện các giai cấp đối kháng
nhau, luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai
cấp mình. Điều này đòi hỏi phải có một tổ chức đủ sức mạnh để giải quyết mâu
thuẫn, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội theo một chiều hướng nhất


định. Tổ chức ấy chính là Nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt
nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp
thống trị trong xã hội.
1.1.2.Pháp luật và sự ra đời của pháp luật
Những nguyên nhân làm phát sinh Nhà nước cũng là những nguyên nhân dẫn
đến sự ra đời của Pháp luật. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, những tập quán
và tín điều tôn giáo là những quy phạm xã hội phù hợp để điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội lúc bấy giờ. Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội phân chia
thành giai cấp thì những tập quán đó không còn phù hợp nữa, cần thiết phải có
một loại quy phạm mới để thiết lập cho xã hội một “trật tự”, một loại quy phạm
thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, đó là quy phạm pháp luật.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm
thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố để điều
chỉnh các quan hệ trong xã hội.
1.2.

Mối quan hệ giữa Nhà nước và Pháp luật

2


Nhà nước và Pháp luật đều là hai thành tố thuộc kiến trúc thượng tầng, có
mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời nhau. Cả hai hiện tượng Nhà nước và
Pháp luật đều có chung nguồn gốc phát sinh và phát triển. Nhà nước là một tổ
chức đặc biệt của quyền lực chính trị. Nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển
khai và phát huy có hiệu lực trên cơ sở của Pháp luật. Pháp luật là hệ thống các
quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, luôn phản ánh những quan điểm, đường lối
chính trị của lực lượng nắm quyền lực Nhà nước và bảo đảm cho quyền lực đó

được triển khai nhanh, rộng trên quy mô toàn xã hội. Với ý nghĩa đó, Nhà nước
không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu Pháp luật; và ngược lại, Pháp
luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền
lực Nhà nước.
Do đó, không thể nói Pháp luật đứng trên Nhà nước hay Nhà nước đứng
trên Pháp luật. Đồng thời khi xem xét các vấn đề Nhà nước và Pháp luật phải đặt
chúng trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau.
Khi xem xét mối quan hệ giữa Nhà nước và Pháp luật phải xét đến một
khía cạnh thứ hai, đó là cần xuất phát từ tính chất đặc thù về giá trị xã hội của
mỗi hiện tượng để luận giải. Pháp luật mặc dù do Nhà nước ban hành nhưng khi
đã công bố thì nó trở thành một hiện tượng có sức mạnh công khai, bắt buộc đối
với mọi chủ thể, trong đó có Nhà nước. Nhà nước nói chung và mỗi cơ quan của
nó nói riêng đều phải tôn trọng Pháp luật, không thể coi nhẹ, càng không thể chà
đạp lên nó. Nhà nước có quyền ban hành Pháp luật, nhưng Pháp luật bên cạnh
việc thể hiện bản chất giai cấp, còn phản ánh những nhu cầu khách quan, phổ
biến của các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, Nhà nước cũng không thể ban bố Pháp
luật một cách chủ quan, duy ý chí, không tính đến những nhu cầu và tâm lý xã
3


hội. Khi Pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn nữa thì Nhà nước phải tiến
hành sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ để ban hành Pháp luật mới.
1.3.

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật

Như đã nói ở trên, Pháp luật ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát
triển của Nhà nước. Pháp luật là công cụ để giai cấp thống trị thực hiện quyền
lực thống trị của mình đối với các giai cấp khác, bảo vệ lợi ích cho giai cấp
thống trị và duy trì sự ổn định, phát trỉển của xã hội theo một trật tự nhất định.

Nhà nước phải quản lý xã hội bằng Pháp luật xuất phát từ vai trò quan
trọng của Pháp luật đối với Nhà nước. Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và
tăng cường quyền lực Nhà nước. Nhà nước không thể tồn tại thiếu Pháp luật và
Pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có bộ máy Nhà nước.
Thực tiễn cho thấy, khi chưa có một hệ thống quy phạm Pháp luật về tổ chức đầy
đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện
bộ máy Nhà nước thì dễ dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thực hiện
không đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan Nhà nước, bộ máy sẽ
cồng kềnh và kém hiệu quả. Pháp luật cũng có vai trò quan trọng trong việc quy
định nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm của cán bộ, công chức làm việc trong cơ
quan Nhà nước. Nhờ có Pháp luật, hiện tượng lạm quyền, bao biện, vô trách
nhiệm …của đội ngũ viên chức Nhà nước dễ dàng được phát hiện và loại trừ.
Đồng thời, Nhà nước sử dụng Pháp luật làm phương tiện để quản lý kinh
tế, giải quyết các vấn đề xã hội. Pháp luật cũng là công cụ quan trọng để kiểm
soát quyền lực Nhà nước có hiệu quả, bảo vệ quyền lợi chính đáng của công dân,
góp phần bảo đảm dân chủ và nâng cao tính tự quản cộng đồng, tạo ra môi
4


trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia,
thúc đẩy sự phát triển của mỗi đất nước.
II. Thực tế Quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước ta – Một vài ví dụ
điển hình
Quản lý xã hội bằng Pháp luật chính là nhu cầu và cũng là nguyên tắc hoạt
động của mỗi Nhà nước và Nhà nước Việt Nam không phải là ngoại lệ. Để quản
lý toàn xã hội, Nhà nước dùng nhiều phương tiện, biện pháp, nhưng Pháp luật là
phương tiện quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có
khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách nhanh
nhất, đồng bộ và hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có Pháp
luật, Nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm soát

các hoạt động của các tổ chức, các cơ quan, các nhân viên Nhà nước và mọi
công dân. Thiếu sự quản lý bằng Pháp luật, Nhà nước sẽ thiếu đi một công cụ
đắc lực có tính chất cưỡng chế, việc duy trì trật tự xã hội sẽ vô cùng khó khăn,
ổn định xã hội khó được đảm bảo, quyền lợi của người dân cũng sẽ dễ dàng bị
xâm phạm, từ đó niềm tin của nhân dân vào Nhà nước sẽ bị giảm sút, sự tồn tại
của Nhà nước có nguy cơ bị đe dọa
Trong phạm vi Tiểu luận này, chúng tôi xin phân tích một ví dụ thực tế
điển hình diễn ra tại Việt Nam trong thời gian qua để chứng minh vai trò quan
trọng của việc Nhà nước phải quản lý xã hội bằng Pháp luật, đó là Vụ việc
cưỡng chế, thu hồi đất trái pháp luật của UBND huyện Tiên Lãng, Hải Phòng đối
với gia đình ông Đoàn Văn Vươn diễn ra vào tháng 01/2012.

5


Đầu năm 2012, dư luận cả nước bức xúc vì vụ án cưỡng chế đất của
UBND huyện Tiên Lãng, Tp.Hải Phòng đối với gia đình ông Đoàn Văn Vươn,
tại xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, Tp. Hải phòng. Vụ án thu hút đông đảo dư
luận vì đây được coi là đỉnh điểm về xung đột về đất đai, của những bất cập về
cả pháp luật đất đai, việc thực thi pháp luật ở các cấp địa phương và là một tổn
thất chính trị to lớn.
Ông Đoàn Văn Vươn, sinh năm 1963, quê huyện Tiên Lãng - Hải Phòng,
là kỹ sư nông nghiệp, ông đã bỏ tiền của và công sức trong hàng chục năm trời
để quai đê, lấn biển biến khu cống Rộc, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng thành
vùng nước lợ để nuôi trồng thủy sản. Diện tích canh tác của gia đình ông Vươn
là 40,3 ha, trong đó 21 ha được UBND huyện Tiên Lãng giao vào năm 1993; 19
ha được ông quai đê lấn thêm, đến năm 1997 thì được chính quyền địa phương
cho hợp thức hóa. Mườn bốn năm sau kể từ năm 1997, UBND huyện Tiên Lãng
ra quyết định thu hồi toàn bộ diện tích đất nói trên, trong khi theo Luật Đất đai
1993, thời hạn giao đất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản phải là 20 năm.

Sáng 5 tháng 1 năm 2012, huyện Tiên Lãng đã tiến hành cưỡng chế với
lực lượng đông đảo hơn 100 người bao gồm cả lực lượng công an và quân đội do
phó chủ tịch huyện Nguyễn Văn Khanh làm trưởng ban cưỡng chế nhưng đã bị
gia đình ông Đoàn Văn Vươn chống trả bằng mìn tự chế và đạn hoa cải. Kết quả
là 4 công an và 2 người thuộc ngành quân đội bị thương. Một ngày sau, ngôi nhà
của gia đình ông Đoàn Văn Vươn bị phá hủy.
Sau vụ cưỡng chế bất thành ngày 05 tháng 01, Cơ quan công an Hải
Phòng ra quyết định khởi tố vụ án giết người và chống người thi hành công vụ
đối với Đoàn Văn Vươn và các đối tượng tham gia liên quan. Tuy nhiên trước sự
6


bức xúc, bất bình của nhân dân và dư luận đối với hành động của UBND huyện
Tiên Láng, Thủ tướng chính phủ đã vào cuộc, trực tiếp chỉ đạo giải quyết vụ
việc, và kết luận “Chính quyền đã sai toàn diện trong vụ Tiên Lãng”. Kết quả,
việc thu hồi đất đã bị hủy bỏ, Chủ tịch UBND và Bí thư Đảng ủy xã Vinh Quang
cũng bị đình chỉ chức vụ. Ngày 10 tháng 2, thủ tướng chính phủ đã yêu cầu
chính quyền địa phương thi hành các thủ tục cho phép gia đình ông Vươn tiếp
tục được sử dụng đất đã giao. Chiều ngày 23 tháng 2 năm 2012, Chủ tịch và Phó
Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng bị cách chức. Đến ngày 25/3/2012 đã có 50
cán bộ, đảng viên, nhân viên và 25 tổ chức có liên quan tiến hành kiểm điểm, xử
lý.
Vụ án tại Tiên Lãng đã phơi bày nhiều mặt trái và bất cập trong quản lý
đất đai của Nhà nước ta. Từ trước đến nay, pháp luật của nước ta chưa bao giờ
cho phép cấp huyện tự định ra thời hạn sử dụng đất và hạn mức diện tích sử
dụng đất. Như vậy, huyện Tiên Lãng tự làm việc này là một sai phạm pháp luật
rất lớn. Từ trước đến nay, thời hạn và hạn mức diện tích sử dụng đất được quy
định trong luật khung, tức là luật đã được Quốc hội thông qua. Cũng có một số
trường hợp giao cho cấp tỉnh có thể định chứ không bao giờ cấp huyện có thẩm
quyền làm việc này.

Đây cũng là một hồi chuông để cho chúng ta thấy một thực tế đầy gai góc
trong việc xây dựng và thực thi pháp luật đất đai. Gần 20 năm qua, kể từ luật Đất
đai 1993, người nông dân vẫn tin rằng sau khi hết thời hạn giao đất, họ sẽ tiếp
tục được quyền sử dụng đất đó và tài sản trên đất là tài sản thuộc quyền sở hữu
của riêng mình được pháp luật bảo vệ.

7


Thực ra, với những người nông dân bình thường, những ao đầm nuôi trồng
thuỷ sản ấy là sinh mệnh của họ. Ở đó, ý chí, mồ hôi và cả nợ nần đã kết tinh vào
đất đai thành ý niệm về quyền sở hữu tài sản của họ. Với họ, một nền tảng luật
pháp tiến bộ, một đường lối chính trị đúng đắn là phải thừa nhận và bảo hộ cho
cái quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm ấy. Kể từ luật Đất đai 1993 ban hành,
người nông dân tin tưởng vào công cuộc đổi mới bởi họ nhất quyết rằng, sau khi
hết thời hạn giao đất, họ sẽ tiếp tục được quyền sử dụng đất đó làm tư liệu sản
xuất nông nghiệp nếu có nhu cầu, tài sản trên đất là tài sản thuộc quyền sở hữu
của riêng họ được pháp luật bảo vệ. Đó là cơ sở chính trị để người dân tiếp tục
tin Đảng, theo Đảng.
Trong khi đó chính quyền địa phương hiểu luật Đất đai 1993 rằng, đất đai
vốn là tài sản thuộc sở hữu toàn dân giao cho Nhà nước quản lý, Nhà nước có
quyền thu hồi khi hết thời hiệu giao đất. Và vì là luật chỉ cho anh canh tác trong
thời hạn giao đất, nên khi "lấy lại" đất, chính quyền không cần phải đền bù. Nôm
na là, đất đai của nhà nước giao cho anh sử dụng trong 20 năm, tài sản trên đất
ấy tính toán thế nào là chuyện của anh, hết hạn thì nhà nước lấy lại đất không
cần quan tâm gì đến tài sản hình thành trên ấy.
Cách hiểu ấy không phải là không phổ biến, nhất là khi cả các cơ quan
hướng dẫn thi hành luật cũng chưa có một tín hiệu xác quyết sẽ xử lý thời hạn
giao đất 20 năm (hết hạn vào 2013) như thế nào.
Như vậy, Vụ việc ở Tiên Lãng đã phản ánh thực tế về một số hạn chế

hiện nay trong pháp luật đất đai ở nước ta. Luật đất đai nhiều lần sửa đổi bổ
sung, kèm theo đó là hàng trăm văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện. Hệ thống
văn bản quá đồ sộ, có nhiều văn bản nhưng vẫn chồng chéo, mâu thuẫn; công tác
8


quản lý nhà nước về đất đai vẫn còn nhiều bất cập; các quy định về quản lý, sử
dụng đất đai chưa phù hợp với yêu cầu phát triển. Điều này đã đặt ra yêu cầu cấp
bách đối với Nhà nước nước ta trong việc phải hoàn thiện hệ thống pháp luật với
các quy định minh bạch, rõ ràng, thống nhất, phù hợp với thực tiễn, có khả năng
bảo vệ quyền lợi chính đáng của công dân, bảo đảm ổn định trật tự xã hội.
III. Một số định hướng và giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công
tác quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước ta trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XÃ HộICN)
Để phát huy vị trí, vai trò của pháp luật, nâng cao hiệu lực và hiệt quả hoạt
động nhà nước, thì việc quan trọng hàng đầu ở nước ta hiện nay là tập trung xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XÃ HộICN Việt Nam. “ Đẩy nhanh
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XNCN trên các mặt: hệ thống thể
chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức; phương thức hoạt
động. Định rõ những việc Nhà nước phải làm và bảo đảm các điều kiện để làm
tốt…” . Muốn vậy, cần tập trun vào một số nội dung cơ bản sau đây:
-

Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XNHC trên cơ sở

hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thực sự đều thuộc về nhân dân, bảo đảm sự phân công, phối hợp chặt chẽ, hợp lý
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
-


Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tăng tính cụ thể, tính khả thi

của các quy định pháp luật. Không ngừng nâng cao chất lượng và giá trị của
pháp luật. Các quy định pháp luật được ban hành phải phù hợp với quy luật
khách quan, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
9


hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập của đất nước; nhu cầu cái cách bộ máy nhà nước,
vì lợi ích của nhân dân; tạo lập một hệ thống pháp luật toàn diện, đồng bộ, phù
hợp với một trình độ kỹ thuật pháp lý cao.
-

Xây dựng và thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy

nhà nước, trong đó chú trọng việc quy định chặt chẽ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan nhà nước, cương quyết thực hiện nguyên tắc “các cơ quan,
nhân viên chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”. Xây dựng và hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền, xử lý kiên quyết và nghiêm
minh mọi vi phạm pháp luật, nhất là đối với những vi phạm của các cán bộ, công
chức nhà nước.
-

Từng bước chuyên nghiệp hóa các hoạt động pháp luật, coi các hoạt động

pháp luật là hoạt động nghề nghiệp. Nâng cao hiệu quả hoạt động ban hành luật,
tăng số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, hạn chế việc kiêm chức của đại
biểu Quốc hội; đối với hoạt động áp dụng pháp luật, ngoài việc tiêu chuẩn hóa,

chúng ta đang tiến hành chuyên nghiệp hóa, nâng cao kỹ năng của những người
trực tiếp áp dụng pháp luật, nhất là đối với cán bộ, công chức ngành tư pháp. Đề
cao trách nhiệm cán bộ, công chức nhà nước, chú trọng hơn tới trách nhiệm cá
nhân của những người trực tiếp ban hành ra các quyết định áp dụng pháp luật.
Nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị đối với hoạt động công
vụ của nhân viên và những người dưới quyền. Xây dựng xã hội Việt Nam là xã
hội dân sự theo tinh thần mọi tổ chức và cá nhân đều sống, làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật.

10


KẾT LUẬN
Trong bất kỳ xã hội có giai cấp nào, Nhà nước luôn sử dụng Pháp luật như
một công cụ có vai trò hết sức đắc lực trong việc bảo vệ quyền lợi, địa vị của giai
cấp thống trị, duy trì sự ổn định, trật tự và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Tuy
nhiên, việc ban hành và sử dụng như thế nào để Pháp luật phát huy tối đa sức
mạnh của nó, trở thành cán cân công lý cho xã hội là một vấn đề mà các Nhà
nước đều phải quan tâm, trong đó có Việt Nam. Điều này đòi hỏi chúng ta phải
khẩn trương hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật hiện, có các biện pháp hữu
hiệu trong tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luât vào trong cuộc sống. Đây
là một quá trình gắn liền với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XÃ
HộICN ở nước ta, đòi hỏi sự tham gia của tất cả các cơ quan chức năng, cán bộ,
công chức và của toàn xã hội.

11


MỤC LỤC


12



×