Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Tục ngữ người Việt với việc phản ánh tri thức dân gian về thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.28 KB, 100 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






THÁI PHƢƠNG THẢO








TỤC NGỮ NGƢỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI
THỨC DÂN GIAN VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI







LUẬN VĂN THẠC SĨ







Hà Nội, 2013



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




THÁI PHƢƠNG THẢO





TỤC NGỮ NGƢỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC
DÂN GIAN VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI

Chuyên ngành : Văn học dân gian
Mã số : 60 22 36





LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS .TS Nguyễn Xuân Kính








Hà Nội, 2013



MỤC LỤC

MỤC LỤC 1
QUY ƢỚC TRèNH BÀY 5
1. Kớ hiệu viết tắt 5
2. Về xuất xứ tài liệu 5
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Lịch sử nghiờn cứu vấn đề 7
3. Giới thuyết một số khỏi niệm 9
4. Mục đớch và nhiệm vụ nghiờn cứu 10
5. Đối tƣợng nghiờn cứu 10
6. Phƣơng phỏp nghiờn cứu 11
7. Bố cục của luận văn 11
Chƣơng 1. 12

TỤC NGỮ NGƢỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC DÂN GIAN VỀ THẾ
GIỚI TỰ NHIấN 12
1.1. Dự đoỏn thời tiết 12
1.1.1. Dự đoỏn thời tiết qua việc chiờm nghiệm những triệu chứng bỏo trƣớc của
thiờn nhiờn 12
1.1.2. Dự đoỏn thời tiết qua việc quan sỏt động vật 19
1.1.3. Dự đoỏn thời tiết qua việc quan sỏt thực vật 21
1.2. Ứng dụng trong việc canh tỏc nụng nghiệp 23
1.2.1. Ứng dụng trong trồng lỳa 23
1.2.2. Kinh nghiệm trồng một số loại cõy khỏc 31
1.3. Ứng dụng trong chăn nuụi 34
1.3.1. Kinh nghiệm đỏnh bắt cỏ 34
1.3.2. Kinh nghiệm chăn thả gia sỳc gia cầm 36
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 39
Chƣơng 2. 40
TỤC NGỮ NGƢỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC DÂN GIAN VỀ CÁC
MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI 40
2.1. Mối quan hệ trong gia đỡnh 40
2.1.1. Mối quan hệ giữa ụng bà - chỏu, cha mẹ - con: 40
2.1.2. Mối quan hệ vợ chồng 45
2.1.3. Mối quan hệ mẹ chồng – nàng dõu, bố mẹ vợ – con rể, dỡ ghẻ – con chồng, bố
dƣợng – con vợ: 49
2.1.4. Mối quan hệ giữa anh chị em ruột trong gia đỡnh: 52
2.1.5. Mối quan hệ họ hàng 55
2.2. Tục ngữ phản ỏnh mối quan hệ ngoài xó hội. 58
2.2.1. Mối quan hệ bạn bố, thầy trũ trong tục ngữ 58
2.2.2. Mối quan hệ đồng bào, hàng xúm lỏng giềng: 62
2.2.3. Mối quan hệ giữa chủ và ngƣời làm thuờ 64
2.2.4. Mối quan hệ vua quan và dõn trong tục ngữ 65
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 69

Chƣơng 3. 70


SO SÁNH CÁC BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN QUA MẢNG ĐỀ TÀI VỀ THẾ
GIỚI TỰ NHIấN VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI 70
3.1. Xột về mặt nghĩa. 70
3.1.1. Nghĩa của những cõu tục ngữ phản ỏnh tri thức về thế giới tự nhiờn 71
3.1.2. Nghĩa của những cõu tục ngữ phản ỏnh tri thức về cỏc mối quan hệ xó hội 73
3.2. Xột về mặt cấu trỳc 77
3.2.1. Cấu trỳc của những cõu tục ngữ phản ỏnh thế giới tự nhiờn 78
3.2.2. Cấu trỳc của những cõu tục ngữ phản ỏnh cỏc mối quan hệ xó hội 80
3.3. Xột về cỏch gieo vần và nhịp điệu 82
3.3.1. Về cỏch gieo vần : 82
3.3.2. Nhịp điệu : 85
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 92
KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
























QUY ƢỚC TRÌNH BÀY
1. Kí hiệu viết tắt
GS: giáo sƣ
TS: Tiến sĩ
Nxb: Nhà xuất bản
Tr: Trang
2. Về xuất xứ tài liệu
Các yếu tố xuất xứ tài liệu (tác giả, năm, tên tài liệu, nhà xuất bản, nơi
xuất bản (hoặc tên tạp chí, nơi xuất bản…)).

















MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tục ngữ đƣợc coi là cái “túi khôn” hay hơn thế, là kho báu trí tuệ của
nhân dân. Túi khôn hay kho báu trí tuệ ấy mang tính thực hành, biết để làm,
biết để sửa đổi những sai lầm, những lệch lạc mắc phải.
Tục ngữ đƣợc chia làm 3 loại cơ bản đó là: kinh nghiệm giúp cho ngƣời ta
làm theo, biết định hƣớng công việc và dạy cho con ngƣời biết phân biệt thiệt
hơn, phải trái để sống tốt hơn giữa ngƣời với ngƣời. Đọc tục ngữ ta thấy
muôn mặt của cuộc sống đƣợc phản ánh một cách sinh động, đầy đủ, tỉ mỉ.
1.2. Tục ngữ Việt phản ánh đời sống của các giai cấp và các tầng lớp nhân
dân khác nhau chủ yếu là nhân dân lao động và tình hình đấu tranh giai cấp,
đấu tranh chống áp bức bóc lột của nhân dân trong xã hội phong kiến [5,
tr.250]. Tục ngữ đúc rút mọi kinh nghiệm của nhân dân trong mọi lĩnh vực
của đời sống vật chất cũng nhƣ tinh thần. Nó mang những yếu tố tƣ tƣởng
triết học của cha ông. Giá trị lớn nhất của tục ngữ là những kinh nghiệm sống,
cách sống giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội cũng nhƣ cách ứng dụng của con
ngƣời với thế giới xung quanh. Ngƣời nông dân xét đoán con ngƣời qua cách
ứng xử, thái độ ăn ở trong gia đình, bạn bè cũng nhƣ ngoài xã hội nhằm giữ
gìn những truyền thống văn hoá quý giá của dân tộc. Nó phản ánh đầy đủ
những đức tính của con ngƣời Việt với lòng nhân ái, tính vị tha và tinh thần
đấu tranh chung.
Ngƣời nông dân ấy còn biết trông trời, trông đất, dự đoán thời tiết để tìm
cách ứng phó kịp thời với sự thay đổi bất thƣờng của thiên nhiên và từ đó
chinh phục thiên nhiên và vũ trụ. Tất cả những điều ấy đã góp phần giải thích
sức mạnh của ngƣời Việt và những thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh



bền bỉ với thiên nhiên và kiên dũng với giai cấp thống trị cũng nhƣ kẻ thù
xâm lƣợc.
1.3. Đã từ lâu, ngƣời Việt đã có ý thức giáo dục, hình thành và phát triển
con ngƣời không những có đủ phẩm chất nhân cách cao đẹp: trí, dũng, chân,
thiện, mỹ… mà còn hƣớng ngƣời ta tới một cái nhìn đầy đủ hơn về xã hội và
thiên nhiên. Tìm hiểu sự phản ánh về thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã
hội trong tục ngữ Việt sẽ giúp ngƣời nghiên cứu nhận diện những giá trị giáo
dục đạo lý cổ truyền của cha ông mà nền giáo dục hiện đại nay cần đƣợc kế
thừa và phát huy một cách đầy đủ và nghiêm túc hơn.
Trong xã hội ồn ào của một cuộc sống đang trên đà phát triển không ít
ngƣời đã xem thƣờng những giá trị vô cùng to lớn ấy. Vì thế, đề cao và bảo vệ
những giá trị văn hoá ấy là việc làm cần thiết: nó khẳng định giá trị và tác
dụng của tục ngữ trong kho tàng văn hoá quý giá folklore và nền văn học của
mọi thời đại.
Với lý do đó, chúng tôi chọn đề tài: “Tục ngữ ngƣời Việt với việc phản
ánh tri thức dân gian về thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tục ngữ của ngƣời Việt trong đó có
thể kể đến:
Giáo trình “Lịch sử văn học Việt Nam” (Tập 1), Bùi Văn Nguyên, Nguyễn
Ngọc Côn, Nguyễn Nghĩa Dân…. (1961 – 1978) (5lần in) đã đề cập tới những
vấn đề của đời sống tự nhiên và xã hội đồng thời cũng đề cập tới giá trị về nội
dung và nghệ thuật của tục ngữ.
Trong cuốn “Văn học dân gian”, do Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ
Quang Nhơn (in lần đầu năm 1972 và tái bản lần thứ 13 năm 2010) đã phác
hoạ quá trình lao động sản xuất đƣợc nảy sinh trong việc dự báo thời tiết và



quá trình đấu tranh với tự nhiên của nhân dân lao động cũng nhƣ cách ứng xử
của con ngƣời trong xã hội cũ.
Năm 1973, Hoàng Hữu Triết trong bài “Bƣớc đầu tìm hiểu về khí tƣợng
dân gian Việt Nam đã nghiên cứu ca dao tục ngữ nói về khí hậu, thời tiết
trong năm ở nƣớc ta qua các mùa.
Năm 1975, nhóm tác giả Chu Xuân Diên, Lƣơng Văn Đang, Phƣơng Tri
trong cuốn “Tục ngữ Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội đã đề cập đến một số
vấn đề quan hệ xã hội, gia đình trong tục ngữ và việc quan sát tự nhiên. Tác
giả đã khẳng định tục ngữ Việt biểu hiện lối sống thời đại và lối nghĩ của
nhân dân cũng nhƣ khẳng định và phản ánh các mối quan hệ với thiên nhiên
và quan hệ xã hội đƣợc điểm xuyết một cách sơ lƣợc.
Trong bài viết “Đạo lý và thi pháp dân gian trong tục ngữ Việt Nam” của
tác giả Hồ Tôn Trinh trên tạp chí Văn hoá dân gian, số 2 năm 1985 đã chỉ ra
kinh nghiệm thu thập trong cuộc sống đƣợc tổng kết và khái quát hoá bằng
một số từ theo quy tắc nhằm khẳng định và phủ định từ đó để truyền bá và răn
dạy một điều gì đó.
Năm 1987, trên tạp chí văn học số 5, Nguyễn Đức Dân đã nghiên cứu
“Đạo lý trong tục ngữ” đã đƣa ra những phƣơng pháp nghiên cứu tục ngữ để
xác định đạo lý nhân sinh quan của ngƣời Việt thể hiện trong tục ngữ.
Năm 2002, phần sƣu tầm trong công trình “Kho tàng tục ngữ ngƣời Việt”
do tác giả Nguyễn Xuân Kính chủ biên cùng nhóm biên soạn, nhà xuất bản
Văn hoá thông tin, trong đó, vấn đề tục ngữ phản ánh thế giới tự nhiên và các
mối quan hệ xã hội đƣợc thể hiện đầy đủ và rõ ràng.
Ngô Thị Thanh Quý trong cuốn “Tìm trong tục ngữ nét văn hoá Việt” in
năm 2010 đã chỉ ra nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của bộ phận cƣ dân lúa
nƣớc nhiều nhất trên đất Việt đƣợc đặt ra trong những mối liên hệ hệ thống.


Nhìn chung, đã có một số công trình, tài liệu nghiên cứu về sự phản ánh
quan hệ tự nhiên và xã hội trong tục ngữ ngƣời Việt, song chƣa có ai dành

những trang viết dày dặn, tập trung và có hệ thống trong vấn đề này. Trên cơ
sở đó, trong thời gian và phạm vi của luận văn chúng tôi muốn tiếp tục tìm
hiểm và hoàn thiện dần những vấn đề mà đề tài đặt ra.
3. Giới thuyết một số khái niệm
3.1. Khái niệm tục ngữ
Khái niệm tục ngữ với tƣ cách là một thể loại văn học dân gian.
Tục ngữ là những câu nói hoàn chỉnh, đúc kết kinh nghiệm của nhân dân
về thiên nhiên và lao động sản xuất, về con ngƣời và xã hội. Tục ngữ thiên về
trí tuệ nên thƣờng đƣợc ví von là “trí khôn dân gian”. Trí khôn đó rất phong
phú mà cũng rất đa dạng nhƣng lại đƣợc diễn đạt bằng ngôn từ ngắn gọn, súc
tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữ là văn học nói dân
gian nên thƣờng đƣợc nhân dân vận dụng trong đời sống sinh hoạt, giao tiếp
cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn nhƣ lời ăn tiếng nói và khuyên răn.
Tục ngữ là những câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa, hàm súc, do nhân dân lao
động sáng tạo nên và lƣu truyền qua nhiều thế kỉ. [21, tr.245]
3.2. Khái niệm ngƣời Việt
Là bộ phận dân tộc Việt (hay còn gọi là ngƣời Kinh) trong 54 dân tộc anh
em sinh sống trên đất nƣớc Việt Nam. Dân tộc Việt chiếm đại đa số trong
tổng số dân cƣ sinh sống trên đất nƣớc ta.
3.3. Khái niệm tri thức dân gian
Là những kinh nghiệm lâu đời của nhân dân đƣợc đúc kết từ thực tiễn
bằng lời nói hoặc không bằng lời nói. Tri thức dân gian thƣờng đƣợc trình bày
bằng ngôn ngữ nghệ thuật vì thế hấp dẫn ngƣời đọc, ngƣời nghe, dễ phổ biến,
dễ tiếp thu và có sức sống lâu bền với thời gian. Tri thức dân gian thể hiện


quan điểm và nhận thức của ngƣời dân, vì thế có sự khác biệt với nhận thức
của giai cấp thống trị cùng thời, đặc biệt là các vấn đề lịch sử và xã hội.
3.4. Thế giới tự nhiên
Là toàn bộ những gì tồn tại xung quanh con ngƣời. Đó là toàn bộ hệ

thống phƣơng pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống giá trị để con
ngƣời đánh giá và điều chỉnh hành vi trong hoạt động của mình.
3.5. Mối quan hệ xã hội
Quan hệ xã hội là những quan hệ giữa ngƣời với ngƣời đƣợc hình thành
trong quá trình hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật, tƣ tƣởng, đạo
đức, văn hóa, v.v…
Quan hệ xã hội đƣợc hình thành từ tƣơng tác xã hội. Những tƣơng tác này
không phải là ngẫu nhiên, mà thƣờng phải có mục đích, có hoạch định.
Những tƣơng tác này phải có xu hƣớng lặp lại, ổn định và tạo lập ra một mô
hình tƣơng tác.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu việc phản ánh tri thức dân gian về thế giới tự nhiên và mối
quan hệ xã hội trong tục ngữ.
- Thống kê, so sánh và đƣa ra nhận xét các biện pháp nghệ thuật thể
hiện qua hai bộ phận tục ngữ phản ánh thế giới tự nhiên và phản ánh các mối
quan hệ xã hội.
5. Đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi sử dụng tƣ liệu
Cuốn “Tục ngữ Việt Nam” do nhóm tác giả Chu Xuân Diên, Lƣơng Văn
Đang, Phƣơng Tri biên soạn năm 1975, Nhà xuất bản khoa học Xã hội.
- Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Thế giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội đƣợc phản ánh trong tục ngữ.


6. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ:
- Thống kê
- Diễn dịch
- Quy nạp
- So sánh

- Phân tích tổng hợp
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận cùng với tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Tục ngữ ngƣời Việt với việc phản ánh tri thức dân gian về thế
giới tự nhiên.
Chƣơng 2. Tục ngữ ngƣời Việt với việc phản ánh tri thức dân gian về các
mối quan hệ xã hội.
Chƣơng 3. So sánh biện pháp nghệ thuật đƣợc thể hiện qua hai bộ phận
của tục ngữ phản ánh tri thức về giới tự nhiên và các mối quan hệ xã hội.







Chƣơng 1.
TỤC NGỮ NGƢỜI VIỆT VỚI VIỆC PHẢN ÁNH TRI THỨC DÂN
GIAN VỀ THẾ GIỚI TỰ NHIÊN
Bằng những câu nói ngắn gọn, súc tích tục ngữ đã “Diễn đạt rất hoàn hảo
toàn bộ kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm xã hội, lịch sử của nhân dân lao
động” (Gorki). Những kinh nghiệm ấy đƣợc rút ra trong lịch sử đấu tranh tự
nhiên và đấu tranh xã hội, đƣợc thể nghiệm nhiều lần trong nhận thức, đã trở
nên thành những chân lý có tính chất phổ biến và đƣợc toàn nhân dân lao
động công nhận và sử dụng.
Đó là những kinh nghiệm lâu đời và có tính chất tập thể đƣợc rút ra trong
quá trình quan sát các hiện tƣợng tự nhiên, quá trình dùng sức ngƣời biến cải
thiên nhiên, hiện tƣợng tự nhiên, quá trình xây dựng kinh tế sản xuất.
1.1. Dự đoán thời tiết

Tục ngữ nói về hiện tƣợng thời tiết thể hiện óc nhận xét tinh tế của nhân
dân Việt Nam. Từ đó có một cái nhìn đầy đủ về thế giới tự nhiên và tìm cách
ứng phó kịp thời, cải tạo và chinh phục thiên nhiên
1.1.1. Dự đoán thời tiết qua việc chiêm nghiệm những triệu chứng báo
trước của thiên nhiên
Đã từ lâu thiên nhiên là đối tƣợng không thể tách rời với cuộc sống lao
động và sinh hoạt của con ngƣời. Việc sản xuất nông nghiệp luôn gắn chặt với
từng sự thay đổi của thiên nhiên. Vì vậy, việc khám phá và tìm hiểu một cách
cụ thể, chính xác tự nhiên để từ đó con ngƣời có những cách ứng xử, biến đổi
và cải tạo thiên nhiên nhằm phát triển cuộc sống của mình ở mức cao hơn.
Ngƣời Việt từ đó có thể cùng chung sống với thiên nhiên mà không hề bị lệ
thuộc vào nó, thông qua những công việc hàng ngày con ngƣời đã quan sát,


đúc kết cho mình và những thế hệ đời sau những kinh nghiệm và bài học vô
cùng quý báu để con ngƣời có thể ứng dụng một cách linh hoạt và sáng tạo
trong cuộc sống của mình ở từng thời kỳ và thời điểm khác nhau.
Thời tiết luôn là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến năng
suất và sản lƣợng cây trồng và vật nuôi. Nếu không nắm bắt đƣợc những quy
luật của thời tiết thì dù ngƣời lao động có bỏ ra công sức bao nhiêu cũng
không thể thu về lợi ích cho mình. Và vì thế, từ buổi bình minh của loài
ngƣời, ngƣời Việt đã đúc kết ra những kinh nghiệm dự báo thời tiết cho mình
dựa trên những yếu tố nhƣ chiêm nghiệm bằng thời gian, những triệu chứng
báo trƣớc của thiên nhiên, qua việc quan sát động thực vật để từ đó ứng dụng
và ứng phó với tự thay đổi của thiên nhiên để canh tác nông nghiệp, phát triển
sản xuất.
Trƣớc hết, những câu nói ấy ban đầu là câu nói của một cá nhân trong
cộng đồng. Rồi từ đó, nó đƣợc đúc kết kiếm chứng rồi chuyển từ ngƣời này
sang ngƣời khác, nó đã trở thành câu nói của cả cộng đồng ngƣời, là tri thức
không thể thiếu trong đời sống lao động của con ngƣời Việt.

Dự đoán thời tiết qua thời gian trong một năm
Thời gian nông lịch của ngƣời Việt từ ngàn xƣa cho đến nay đƣợc chia
thành mƣời hai tháng, từ tháng một đến tháng mƣời hai hay còn đƣợc chia
thành bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.
Căn cứ vào thời gian này mà ngƣời dân Việt đã xem xét chiêm nghiệm
thời tiết. Theo đó, các hiện tƣợng của thiên nhiên nhƣ mƣa, nắng, bão, gió đều
đƣợc đề cập một cách tƣơng đối đầy đủ. Ngƣời dân Việt đã đúc kết đƣợc
rằng:
“Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng”.
Hết tháng giêng (tháng 1) thì thời gian của một năm trôi qua rất nhanh, qua
rằm (qua ngày 15 hàng tháng) thì thời gian của một tháng cũng nhanh chóng


trôi qua. Kinh nghiệm này dùng để chỉ thời gian trong năm và trong tháng,
theo đó quy định các hiện tƣợng thời tiết trong năm và trong ngày.
“Đêm tháng năm chƣa nằm đã sáng, ngày tháng mƣời chƣa cƣời đã tối”.
Tháng năm là tháng mùa hè, hiện tƣợng ngày lớn hơn đêm và ngƣợc lại ở
tháng mƣời, tháng mùa đông. Hiện tƣợng này là hiện tƣợng thƣờng thấy ở
khu vực bắc bán cầu. Ngƣời dân Việt từ xa xƣa đã quan sát và nhận thấy rõ
điều này. Kèm theo hiện tƣợng ngày đêm, họ còn có nhận xét tinh tế trƣớc sự
biến đổi của thời tiết. Không những có sự khác biệt giữa mùa này, mùa kia mà
còn có sự thay đổi rõ nét trong một mùa.
“Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân”.
Ba tháng trong mùa xuân thời tiết rét nhƣng cái rét ở mỗi tháng cũng có sự
khác nhau. Trong ba tháng ấy, cái rét tháng ba đƣợc ngƣời dân chú ý và đề
cập nhiều hơn cả, đó là cái rét gắn liền với truyền thuyết của ngƣời Việt, là cái
rét cuối cùng trong một năm nhƣng cũng là cái rét ghê gớm nhất.
“Tháng ba bà già chết cóng (chết rét).”
“Tháng ba chó già lè lƣỡi.”
Nói về sự khác biệt giữa thời tiết trong một năm ngƣời dân đã đƣa ra

những bài học kinh nghiệm đúc rút từ muôn đời mà cho đến nay điều đó vẫn
hoàn toàn đúng và có giá trị. Bốn mùa trong năm ứng với những hiện tƣợng
thời tiết khác nhau.
“Đầu năm sƣơng muối, cuối năm gió bấc (nồm, đông).”
Hay:
“Mùa đông mƣa dầm gió bắc, mùa hè mƣa to gió lớn,
mùa thu sƣơng sa nắng gắt.”
Mùa đông gắn liền với hiện tƣợng giá rét, mùa hè oi nóng nắng và
thƣờng có mƣa nhiều.
“Mùa đông chết se, mùa hè chết lụt.”


Hiện tƣợng thời tiết mƣa cũng thƣờng xuất hiện và khác nhau ở mỗi
mùa.
“Tháng ba mƣa đám, tháng tám mƣa cơn.”
Các hiện tƣợng thiên nhiên còn thay đổi theo thời gian trong một ngày.
“Sáng ƣớt áo, trƣa ráo thóc.”
Hay:
“Sáng mƣa, trƣa tạnh.”
Các hiện tƣợng thời tiết nhƣ thế thƣờng là kiểu hiện tƣờng thời tiết
thƣờng thấy ở khu vực miền bắc nƣớc ta đặc biệt là ở khu vực đồng bằng
sông Hồng và sông Thái Bình.
Hiện tƣợng mƣa là kiểu thời tiết đƣợc nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong
tục ngữ và gần nhƣ mỗi tháng, mỗi mùa, kiểu hiện tƣợng thời tiết này lại có
sự biến đổi dễ nhận thấy.
“Mùa đông mƣa dầm gió bắc, mùa hè mƣa to gió lớn,
mùa thu sƣơng sa nắng gắt.”
Dựa vào các tháng:
“Tháng ba mƣa đám, tháng tám mƣa cơn”
“Tháng chín mƣa rƣơi, tháng mƣời mƣa cũ”

“Tháng bảy nƣớc nhảy lên bờ”
Hiện tƣợng mƣa gió còn đƣợc dân gian dựa vào thời gian trong một
ngày.
“Mƣa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi.”
Với những chiêm nghiệm của mình từ cuộc sống hàng ngày ngƣời dân
đã đúc kết ra đƣợc kiểu thời tiết mƣa không kéo dài qua giờ ngọ và hiện
tƣợng gió không kéo dài qua giờ mùi. Những chiêm nghiệm nhận biết từ cuộc
sống ấy giúp cho ngƣời dân sắp xếp công việc của mình trong một ngày, một


tháng và trong cả một năm. Điều đó có lợi cho việc sản xuất, nuôi trồng của
ngƣời dân từ xa xƣa cho tới nay.
Ngoài kiểu thời tiết mƣa gió nhân dân ta còn đề cập đến hiện tƣợng
nƣớc triều dâng căn cứ theo thời gian trong năm. Tục ngữ khẳng định:
“Tháng chín đôi mƣơi, tháng mƣời mồng năm.”
Hiện tƣợng bão lụt:
“Ông tha nhƣng bà chẳng tha, hãy còn cái lụt mồng ba tháng mƣời.”
Hàng năm cứ đến hai mƣơi tháng chín và mồng năm tháng mƣời là hai
ngày con nƣớc dâng. Vì chỉ ra đƣợc đặc điểm này nên ngƣời dân đã đƣa ra
đƣợc các phƣơng án phòng chống thiên tai xảy ra trong năm.
Ngoài ra, ông cha ta còn dự đoán các hiện tƣợng thời tiết dựa vào các
triệu chứng báo trƣớc của thiên nhiên. Điều này, cho thấy óc nhận xét tinh tế
của nhân dân ta. Họ không chỉ dừng lại ở việc trông trời trông đất, khả năng
quan sát mà còn trông mây trông mƣa để có thể phòng chống và tránh đƣợc
những ảnh hƣởng nặng nề của thiên tai.
Tục ngữ phản ánh tất cả những kiểu thời tiết, hiện tƣợng của thiên
nhiên nhƣng xét trong tổng số những câu tục ngữ nói về các hiện tƣợng tự
nhiên thời tiết trong Tục ngữ Việt Nam, số câu tục ngữ nói về mƣa và nắng là
nhiều nhất. Bởi lẽ mƣa nắng quyết định việc đƣợc mất trong sản xuất nông
nghiệp. ngƣời dân chú trọng hai kiểu thời tiết này dƣới nhiều góc độ và quan

sát chúng, dự báo dựa vào những triệu chứng báo trƣớc của thiên nhiên.
Trƣớc tiên đó là kiểu thời tiết mƣa. Hiện tƣợng này đƣợc ngƣời bình
dân đề cập bởi nó là yếu tố quyết định đến đƣợc mùa hay mất mùa của sản
xuất. Có mƣa mới có nƣớc cày bừa, cấy hái, chăm bón. Nhƣng mƣa quá nhiều
sẽ dẫn tới lũ lụt, sản xuất mất trắng mà mƣa quá ít sẽ dẫn tới hạn hán, ruộng
đồng khô nứt không canh tác đƣợc.


Những hiện tƣợng báo hiệu trời mƣa đƣợc quan sát qua các kiểu hiện
tƣợng báo trƣớc nhƣ: mống, ráng, sấm, chớp, thâm, gió….
Hiện tƣợng “mống” đƣợc nhân dân quan sát với nhiều trạng thái và vị
trí. Kinh nghiệm cho thấy: hễ khi nào có mống thì nhất định sẽ có mƣa thậm
chí có lụt.
“Mống cao gió táp, mống rạp mƣa dầm.”
“Mống cao gió táp, mống áp mƣa rào.”
Khi trời có mống vàng và trắng thì kiểu thời tiết khác nhau. Mống trắng
thì có mƣa còn mống vàng thì không thể.
“Mống vàng trời nắng, mống trắng trời mƣa”.
Ngay cả việc mống xuất hiện ở vị trí nào cũng là đặc điểm để báo trƣớc
cơn mƣa và sự nặng nhẹ của nó
“Mống đông vồng tây, chẳng mƣa dây cũng bão giật.”
Khẳng định khả năng quan sát và óc nhận xét tinh tế của ngƣời bình
dân còn cho ta biết đƣợc khi nào có lũ lụt còn khi nào có mƣa bình thƣờng
dựa vào việc quan sát mống.
“Mống dài thời lụt, mống cụt trời mƣa.”
Rõ ràng, bằng việc quan sát ấy đã giúp cho việc cày cấy, chăm sóc và
phát triển sản xuất của ngƣời dân một cách thuận lợi và dễ dàng hơn. Ngƣời
dân từ đó cũng biết cách đề phòng phản ứng trƣớc những thay đổi thất thƣờng
của thời tiết.
Ngoài hiện tƣợng mống thì hiện tƣợng “ráng” cũng báo trƣớc những

cơn mƣa hoặc không. Hiện tƣợng này cũng dựa vào màu sắc là chủ yếu.
“Ráng vàng thời nắng, ráng trắng thời mƣa.”
Hay:
“Ráng mỡ gà thời gió, ráng mỡ chó thời mƣa.”
“Ráng mỡ gà ai có nhà thì chống.”


Nhân dân ta đã quan sát các triệu trứng báo trƣớc của thiên nhiên và
đặc biệt đã chú ý đến hai hiện tƣợng của trời đó là sấm, chớp.
“Sấm trƣớc, chƣớc sau.”
“Sấm kêu, rêu mọc.”
Sau tiếng sấm thƣờng là những cơn mƣa thƣờng kéo theo những tia
chớp. hiện tƣợng chớp cũng là một trong những hiện tƣợng đƣợc nhân dân ta
đề cập đến nhiều trong tục ngữ.
“Chớp thừng chớp chão chẳng bão thì mƣa.”
“Chớp đằng đông mua dây mà tát.”
“Chớp đông nhay nháy gà gáy thì mƣa.”
Theo quan niệm của dân gian, thông thƣờng cứ có chớp thì trời sẽ đổ
mƣa, đặc biệt là khi có chớp đằng đông. Những cơn mƣa này thƣờng là mƣa
lớn thậm chí còn có thể gây bão.
Dự báo thời tiết mƣa ngƣời bình dân còn dựa vào thâm, sầm hay màu
sắc của bầu trời.
“Thâm đông, trống bắc hễ nực thì mƣa.”
Hay:
“Sầm đông thời mƣa, sầm dƣa thời khú, sầm nhũ thời chửa.”
“Sầm đông sang bắc, tía tây, chó đen ăn cỏ trời này thì mƣa.”
Ngoài ra, quan sát mặt trời, mặt trăng, mây, sao… để dự báo thời tiết,
đó là:
“Mặt trời có quầng thì hạn, trăng tán thì mƣa.”
“Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mƣa.”

Hay:
“Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mƣa.”
“Vàng mây thời gió, mây đỏ thời mƣa.”
Dựa vào các ngôi sao:


“Mau sao thì nắng, vắng sao thì mƣa.”
“Một ngôi sao, một ao nƣớc.”
Rõ ràng rằng, theo kinh nghiệm của dân gian, khi mặt trăng có quầng
thì trời sẽ hạn hán, có tán tản ra bên ngoài thì trời sẽ có mƣa. Hay khi có mây
xanh thì trời nắng, mây trắng thì trời sẽ đổ mƣa. Cũng căn cứ vào kiểu thời
tiết này thì cứ trời có ít sao thì sẽ có mƣa lớn, nhiều sao thì không mƣa mà có
nắng to. Dựa theo đó mà ngƣời dân sẽ biết phải phòng chống thiên tai, lũ lụt,
hạn hán nhƣ thế nào và nhắc nhở mọi ngƣời trong việc trồng cây, hoa màu và
con giống để có thể có đƣợc năng suất cao khi gặp phải những thay đổi bất
thƣờng. Từ những kinh nghiệm trông trời, trông đất này mà ngƣời dân đã có
đƣợc những kinh nghiệm trong gieo trồng, chăn nuôi, giúp họ biết trƣớc đƣợc
sẽ đƣợc hay mất mùa.
Ngay từ buổi bình minh con ngƣời đã khẳng định đƣợc khả năng về trí
tuệ của mình. Những kinh nghiệm ấy xét trên lĩnh vực khoa học thì nó chỉ là
việc dự báo thời tiết một cách đơn thuần nhƣng xét trên một góc độ khác thì
đó là cả cách nhìn, nhận xét, đánh giá, nhận xét tinh tƣờng của thế hệ trƣớc
mà cho tới ngày nay nó vẫn còn nguyên vẹn giá trị. Nó thể hiện cách nhìn,
cách cảm, cách nhận biết của ngƣời nông dân về hiện tƣợng diễn ra quanh
mình.
1.1.2. Dự đoán thời tiết qua việc quan sát động vật
Ngƣời xƣa đã có câu
“Kiến dọn tổ, trời mƣa.”
Hay:
“Cóc nghiến răng đang nắng thì mƣa.”

Hiện tƣợng mƣa nắng tiếp tục đƣợc ngƣời dân Việt đề cập thông qua việc
quan sát động vật và thực vật. Ngƣời dân chú ý đến các loại động vật nhƣ


kiến, cóc, ếch, én, quạ, chuồn chuồn. Trong đó có thể nói rằng con kiến đƣợc
ngƣời dân Việt chú ý hơn cả:
“Tháng bảy kiến bò chỉ lo lại lụt.”
“Tháng bảy kiến đàn đại hàn hồng thủy.”
Dân gian thƣờng đề cập đến kiến để báo hiệu trời mƣa hoặc báo hiệu
những cơn mƣa lớn, gây lụt lội. Con kiến là con vật nhỏ bé, thƣờng rất nhạy
cảm với sự thay đổi của thời tiết. Nếu nó xuất hiện theo đàn thì thời tiết nhất
định sẽ có mƣa thậm chí có thể gây ra lụt lội.
Không những trong tục ngữ Việt Nam xuất hiện những chi tiết, hình ảnh
này mà ở trong tục ngữ của những dân tộc khác cũng đƣợc đề cập đến. Cùng
với loài kiến, tục ngữ vẫn thƣờng nhắc nhở con cháu.
“Cóc nghiến răng đang nắng thì mƣa.”
Và vì thế, ngƣời đời vẫn truyền nhau rằng “Con cóc là cậu ông trời” và cứ
mỗi khi cóc nghiến răng là trời đổ mƣa. Theo kinh nghiệm của cha ông thì
câu tục ngữ này lý giải bằng một câu chuyện “Cóc kiện trời”. điều này cho ta
thấy ngƣời dân Việt không chỉ quan sát bằng thị giác mà còn quan sát bằng
thính giác. Mọi quan sát ấy đều rất tinh vi, tinh tế.
Ngoài ra con ếch cũng là một hình ảnh của những cơn mƣa đầy nƣớc.
“Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nƣớc.”
Đó là những quan sát của ngƣời dân Việt với những âm thanh, hình ảnh
hàng ngày có thể nhìn thấy, nghe thấy, trông thấy đƣợc. Trong tục ngữ Việt
còn có bộ phận những câu tục ngữ đuợc quan sát qua hình ảnh những con
chim, trong đó hình ảnh của những con chim én, con quạ, con sáo đƣợc nhân
dân ta chú ý và đề cập đến nhƣ là những biểu tƣợng báo trƣớc kiểu thời tiết
mƣa nắng.
“Ác lắm thì ráo, sáo lắm thì mƣa.”

“Quạ tắm thì nắng, sáo tắm thì mƣa.”


Hay:
“Én bay thấp, mƣa ngập cầu ao.”
“Én bay cao mƣa rào lại tạnh.”
Ngƣời nông dân trong quá trình làm việc đã rút ra đƣợc những kinh
nghiệm quý báu cho mình. Khi làm việc trên đồng ruộng họ nhìn thấy những
hiện tƣợng thƣờng xuyên diễn ra và đúc rút đƣợc những kinh nghiệm quý báu
ấy. Loài vật có mối quan hệ mật thiết với việc sản xuất của ngƣời dân. Từ đó,
họ dựa vào những loài vật ấy để dự báo thời tiết nhằm sản xuất cho kịp thời
vụ tránh đƣợc những thiệt hại cho việc chăm bón và nuôi trồng. Kinh nghiệm
ấy là những bài học không thể nào thiếu đƣợc trong việc sản xuất của ngƣời
dân.
1.1.3. Dự đoán thời tiết qua việc quan sát thực vật
Ngoài một số loài vật đƣợc nhân dân quan sát nhƣ là một đối tƣợng để
dự báo thời tiết, ngƣời nông dân còn căn cứ vào một số loài thực vật, cây cỏ.
Ngƣời nông dân ấy nhận biết một cách sâu sắc cần chú ý đến thời tiết, hiện
tƣợng mƣa nắng để có biện pháp ứng phó kịp thời trong sản xuất. Trong khi
không có các dụng cụ chuyên nghiệp để dự báo thì ngƣời nông dân chỉ có
biện pháp là căn cứ vào những dấu hiệu xung quanh mình.
Nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, rất thuận lợi cho
việc sinh trƣởng và phát triển của những loại động thực vật vì thế ngoài việc
căn cứ vào những loài động vật ngƣời dân còn dựa vào những loài thực vật có
những thay đổi nhạy cảm với các loại hiện tƣợng thời tiết. Một số loài thực
vật đƣợc nhân dân để ý đến nhiều có thể kể đến nhƣ cỏ gà, rễ si, lá tre ….
Trong đó, cây cỏ gà đƣợc nhắc đến nhiều hơn cả
“Trời đƣơng nắng cỏ gà trắng thì mƣa.”
“Cỏ gà màu trắng điềm nắng đã hết.”



“Mùa hè đƣơng nắng, cỏ gà trắng thì mƣa.”
Cây cỏ gà có hiện tƣợng đổi sang màu trắng là điềm báo trƣớc những
cơn mƣa. Mỗi khi nhìn thấy cỏ gà có màu trắng thì ngƣời dân chắc chắn sau
đó sẽ có mƣa to, ngay cả khi trời đƣơng nắng.
Ngoài hiện tƣợng cỏ gà trắng, ngƣời dân còn thấy hiện tƣợng rễ si mỗi
lần đâm ra trắng xóa thì khi ấy trời sẽ có gió lớn, mƣa to.
“Rễ si đâm ra trắng xóa, mƣa to gió lớn hẳn là tới nơi.”
Trái với việc dự báo thời tiết mƣa nắng, báo trƣớc mùa rét tới, ngƣời
dân lại căn cứ vào sự thay đổi của những lá tre.
“Lá tre trôi lộc, mùa rét xộc tới.”
Rõ ràng với những cây cỏ, thực vật vô cùng nhỏ bé mà gũi với đời sống
hàng ngày của ngƣời dân mà nhân dân ta đã đƣa ra những kinh nghiệm vô
cùng quý báu, dự báo thời tiết, dự đoán trƣớc đƣợc sự thay đổi bất ngờ bất
thƣờng của thiên nhiên. Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy đƣợc sự gắn bó của
nhân dân với công việc lao động mà từ đó mới nảy sinh và quan sát đƣợc
những mối liên hệ mật thiết giữa những cây cỏ thực vật với thời tiết.
Tục ngữ nói về thiên nhiên, thời tiết ra đời và phát triển trong thực tiễn đấu
tranh và chinh phục thiên nhiên của ngƣời Việt. Nó phản ánh mối quan hệ
tích cực của con ngƣời đối với tự nhiên – tích cực vì nó nhằm tìm hiểu, cải tạo
thế giới tự nhiên. Sự cải tạo ấy một mặt thể hiện ở khuynh hƣớng lợi dụng
những điều kiện tự nhiên sẵn có mặt khác tìm cách phát huy sự tác động của
con ngƣời vào điều kiện tự nhiên ấy để lao động sản xuất có kết quả. Từ việc
làm ấy, nhân dân ta đã tìm cách để áp dụng vào sản xuất trong công việc trồng
trọt cũng nhƣ chăn nuôi và các hình thức lao động khác.


1.2. Ứng dụng trong việc canh tác nông nghiệp
Trong cuộc sống lao động sản xuất hàng ngày, nhân dân ta luôn chú trọng
đến diễn biến của thời tiết và nhận xét các hiện tƣợng của nó. Từ đó, trải qua

nhiều thời kỳ, nhân dân ta đã tích lũy đƣợc những kinh nghiệm và tổng hợp
tƣơng đối chính xác diễn biến khí hậu trong cả năm. Những kinh nghiệm ấy
có phần phù hợp với khoa học và thực tiễn đã có những tác dụng nhất định
trong quá trình đấu tranh với thiên tai, đảm bảo sản xuất có kết quả.
1.2.1. Ứng dụng trong trồng lúa
Trong bộ phận câu tục ngữ nói về kinh nghiệm lao động thì phần lớn là
những câu tục ngữ nói về nghề trồng trọt, mà chủ yếu là nghề trồng lúa nƣớc.
Nhƣ chúng ta đã biết suốt thời kỳ phong kiến, lao động sản xuất của nhân dân
ta vẫn là sản xuất nông nghiệp. Cho tới ngày nay, nƣớc ta vẫn là một nƣớc
nông nghiệp, cƣ dân ngƣời Việt sinh sống chủ yếu trên dải đồng bằng sông và
đồng bằng ven biển. Vì thế, nghề trồng lúa nƣớc là một nghề chiếm ƣu thế.
Dựa vào các điều kiện tự nhiên sẵn có mà nhân dân ta đã biết áp dụng trong
lao động sản xuất để thu lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Điều này thể hiện rõ
ràng trong tục ngữ, nó đƣợc chứng minh bằng việc số lƣợng của những câu
tục ngữ nói về nghề trồng lúa chiếm đại đa số, trong đó mọi mặt của việc
trồng lúa nƣớc đều đƣợc đề cập một cách đầy đủ và rõ nét từ việc nhận thức
về đặc tính của những loại lúa khác nhau cho đến kinh nghiệm làm mạ, cày
bừa, cấy lúa và chăm bón… tất cả đều đƣợc thể hiện một cách đầy đủ và sinh
động trong tục ngữ của ngƣời Việt.
Trƣớc hết đó là những kinh nghiệm về nhận thức những đặc tính của
những loại lúa khác nhau ở Việt Nam.
“Lúa chiêm là lúa bất nghì, cấy trƣớc trổ trƣớc chẳng thì đợi ai.”
“Chiêm xấp xới, mùa đợi nhau.”


“Lúa ré là mẹ lúa chiêm.”
“Lúa chiêm bóc vỏ, lúa mùa xỏ tay.”
“Chiêm cứng ré mềm.”
“Chiêm hơn chiêm sít, mùa ít mùa nở.”
Kinh nghiệm làm mạ

Trƣớc hết, theo ngƣời bình dân muốn gieo mạ tốt thì phải kén đƣợc
giống tốt “Gieo mạ còn phải kén giống”. Đó là khâu đầu tiên, quan trọng
để có một mùa màng bội thu. Cây lúa không tự nhiên lên đƣợc nếu không
có sự chọn giống và bàn tay chăm chút, tỷ mỉ của con ngƣời. Điều đó đƣợc
khẳng định trong câu tục ngữ:
“Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa.”
Sau khi kén đƣợc giống tốt công việc gieo mạ cũng phải chú ý và quan
tâm đến. Trƣớc tiên đó là quan tâm đến nơi gieo mạ. Mỗi vụ chiêm, vụ
mùa công việc làm mạ cũng khác nhau. Mỗi vụ còn có yêu cầu riêng khi
cấy lúa.
“Mạ chiêm ba tháng không già, mạ mùa tháng rƣỡi ắt là không non”
Thời điểm để có thể đem mạ ra ruộng cấy ở mỗi vụ là khác nhau. Vụ
chiêm mạ trên nền ruộng thƣờng kéo dài ba tháng, mạ mùa thông thƣờng
kéo dài một tháng rƣỡi là có thể cấy đƣợc.
Trƣớc khi đem gieo mạ, ngƣời dân cũng cần chú ý đến chất lƣợng mạ
giống:
“Mùa nứt nanh, chiêm xanh đầu.”
Đó là những yêu cầu về kĩ thuật khi gieo mạ. Vào vụ mùa, hạt thóc cần
phải bật vỏ ở phía đầu, mùa chiêm thì hạt thóc cần phải bắt đầu mọc mầm
mới có thể gieo đƣợc. Bên cạnh đó, địa điểm gieo cũng cần có những yêu
cầu nhất định:
“Mạ mùa sƣớng cao, mạ chiêm ao thấp.”


Rõ ràng, với mỗi thời vụ khác nhau ngƣời dân đã tìm đƣợc những đặc
điểm riêng biệt để có thể áp dụng sao cho hợp lý. Kèm theo đó, kinh
nghiệm dân gian cũng cho thấy, mạ già bao giờ cũng dễ cấy và lên nhanh
hơn, lúa tốt hơn so với mạ non.
“Già mạ tốt lúa.”
“Mạ già ruộng ngấu.”

“Mạ úa thì lúa chóng xanh.”
Mạ đủ ngày đủ tháng cứng cây thì cấy xuống, lúa chóng bén rễ, chóng
lên. Muốn cho lúa trổ bông vào đúng thời gian thì phải gieo mạ vào thời
gian thích hợp. Việc gieo mạ cũng phải căn thời gian đúng, nếu không
cũng không thể có đƣợc mạ đẹp.
Gieo mạ phải căn vào thời gian là buổi trƣa trong ngày còn những thời
gian khác cũng không phải là thời gian tốt nhất để gieo:
“Ƣớp dƣa phải dằn đá, vãi mạ phải soạn trƣa.”
Trong vụ, thời gian xuống mạ là lúc:
“Lúa trỗ ngả mạ, vàng rạ thời mạ xuống dƣợc”
Sau khi đã xuống mạ lấy giống để cấy, ngƣời nông dân bắt đầu chăm
chút cho khu ruộng để chuẩn bị cấy lúa. Khâu cày bừa là khâu tiếp theo
nhƣng vô cùng quan trọng. Với ngƣời nông dân “Tấc đất tấc vàng” khi
khoa học còn chƣa phát triển thì ngƣời nông dân dùng chủ yếu là sức kéo
của động vật là chính để làm việc. Con vật luôn gắn liền với công việc cày
bừa của họ chính là con trâu. Hình ảnh con trâu đi vào cuộc sống lao động
nhƣ là một phần không thể thiếu đƣợc. Nó tạo nên hình ảnh biểu trƣng của
nền văn hóa lúa nƣớc nông nghiệp ở nƣớc ta. Họ quan niệm:
“Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc.”
Họ cũng cho rằng “Cày sâu tốt lúa”, “ăn kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa”

×