Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo " Một số ý kiến về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy môn lí luận chung về nhà nước và pháp luật" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.31 KB, 5 trang )



Đào tạo
Tạp chí luật học số 1/2003
67





heo quan niệm của chúng tôi, nội dung
giảng dạy và phơng pháp giảng dạy luôn
luôn là hai vấn đề trọng yếu nhất trong giáo dục,
đào tạo nói chung, hoạt động giảng dạy của
ngời thầy nói riêng. Cả hai vấn đề này đều do
tính chất, mục tiêu, các nguyên tắc của nền giáo
dục, đào tạo quy định và chúng quan hệ, gắn bó
chặt chẽ với nhau, tác động, ảnh hởng lẫn
nhau. Do đó, muốn nâng cao hơn nữa chất lợng
giảng dạy thì đồng thời cần đổi mới cả nội dung
giảng dạy lẫn phơng pháp giảng dạy. Tuy vậy,
mỗi vấn đề đó cũng có tính độc lập tơng đối.
Nội dung giảng dạy chủ yếu xuất phát từ mục
tiêu giảng dạy, còn phơng pháp giảng dạy
không chỉ do nội dung giảng dạy quy định mà
còn xuất phát từ đối tợng giảng dạy. Từ đây
hình thành mối quan hệ giữa bốn thành tố: Mục
tiêu giảng dạy; nội dung giảng dạy; phơng
pháp giảng dạy; đối tợng giảng dạy.
Từ nhận thức ở trên, chúng tôi đề cập sau
đây một số ý kiến về đổi mới nội dung giảng


dạy và phơng pháp giảng dạy môn học lí luận
chung về nhà nớc và pháp luật.
1. Vị trí, tính chất, mục đích, yêu cầu của
môn học và đối tợng học
Trớc hết, cần xác định rõ và đúng vị trí,
tính chất, mục đích, yêu cầu của môn học và đối
tợng học. Theo chúng tôi, đây là việc làm có ý
nghĩa quyết định đối với việc đổi mới nội dung
và phơng pháp giảng dạy của ngời thầy.
a. Vị trí, tính chất, mục đích, yêu cầu của
môn học
Lí luận chung về nhà nớc và pháp luật là
môn khoa học pháp lí cơ sở, nền tảng, có tính
chất phơng pháp luận cho các khoa học pháp lí
khác, bao gồm hệ thống các tri thức khoa học cơ
bản về nhà nớc và pháp luật; là khoa học lí
luận, trong đó, t duy lí luận và t duy trừu
tợng luôn luôn đợc vận dụng để tiếp cận,
phân tích, giải quyết các vấn đề cơ bản của nhà
nớc và pháp luật nhằm đa ra những kết luận,
luận điểm khoa học có tính nguyên tắc, định
hớng, chỉ đạo việc nghiên cứu các vấn đề cụ
thể của nhà nớc và pháp luật. Lí luận chung về
nhà nớc và pháp luật còn là môn học, bao gồm
hệ thống các khái niệm, phạm trù cơ bản và
những vấn đề chủ yếu, quan trọng nhất của nhà
nớc và pháp luật nhằm trang bị cho ngời học
những kiến thức chung, cơ bản, sâu sắc, toàn
diện về nhà nớc và pháp luật, giúp họ hình
thành phơng pháp t duy khoa học và phơng

pháp nhận thức đúng đắn về nhà nớc, pháp
luật, trên cơ sở đó mới có thể tiếp tục học tập
các môn học pháp lí khác có kết quả. Là môn
học mang tính lí luận sâu sắc và là môn học đầu
tiên, mở đầu cho các môn học khác thuộc khoa
học pháp lí, môn Lí luận chung về nhà nớc và
pháp luật đòi hỏi ngời học phải luôn luôn có t
duy lí luận và t duy trừu tợng để tiếp cận,
T

TS. Nguyễn Văn Động *

* Giảng viên chính Khoa hành chính - nhà nớc
Trờng đại học luật Hà Nội


đào tạo
68

tạp chí luật học số 1/2003

phân tích, đánh giá, tổng hợp, lĩnh hội đợc các
khái niệm, phạm trù cơ bản và những vấn đề chủ
yếu của nhà nớc và pháp luật.
b. Đối tợng học
Xác định đúng đối tợng học cũng là điều
kiện, tiền đề để đổi mới nội dung và phơng
pháp giảng dạy môn học. Đa số đối tợng học là
sinh viên năm thứ nhất, tuổi còn trẻ, nhận thức
x hội còn thiếu, cha khi nào (hoặc rất ít khi )

tiếp cận những vấn đề về nhà nớc và pháp luật,
khả năng t duy lí luận và t duy trừu tợng để
tiếp cận, phân tích, đánh giá, lĩnh hội đợc
những tri thức của khoa học lí luận còn hạn chế,
cha quen với phơng pháp nghe, ghi một cách
khoa học ở bậc đại học Ngoài ra, đối tợng
học còn là những ngời vừa học vừa làm - sinh
viên hệ tại chức. Tuy họ có một số thuận lợi hơn
sinh viên hệ chính quy nh đ từng trải và đang
công tác nên có nhiều vốn sống và kinh nghiệm
thực tế nhng họ cũng gặp không ít khó khăn
nh nhiều tuổi, thiếu thời gian học
Từ nhận thức trên, chúng tôi cho rằng, phải
luôn luôn đổi mới cả nội dung lẫn phơng pháp
giảng dạy và phơng pháp học tập cho phù hợp
với vị trí, tính chất, mục đích, yêu cầu của môn
học và với đối tợng học. ở đây, chúng tôi chỉ
đề cập vấn đề đổi mới nội dung và phơng pháp
giảng dạy.
2. Đổi mới nội dung và phơng pháp
giảng dạy
a. Đổi mới nội dung giảng dạy
Về nội dung giảng dạy (đợc thể hiện trong
giáo trình), cần chọn lọc đa vào các khái niệm,
phạm trù cơ bản, tiêu biểu và những vấn đề chủ
yếu, quan trọng nhất của nhà nớc và pháp luật.
Bên cạnh đó, cần bổ sung những vấn đề mới,
các thành tựu nghiên cứu của khoa học pháp lí ở
trong và ngoài nớc đ đợc thừa nhận và đa
vào áp dụng trên thực tiễn, ví dụ, nhà nớc pháp

quyền, quan hệ giữa nhà nớc với cá nhân, sự
hội nhập của pháp luật Việt Nam với pháp luật
quốc tế, Đối với mỗi khái niệm, phạm trù và
từng vấn đề đó nên trình bày một cách khái
quát, ngắn gọn, cô đọng, súc tích, dễ hiểu với
lợng kiến thức cần thiết, vừa đủ để ngời học
có đợc cách nhìn nhận khoa học, đúng đắn,
toàn diện về nhà nớc và pháp luật. Đồng thời,
phải sửa đổi, thậm chí thay thế một số quan
niệm đ lạc hậu, lỗi thời hoặc trình bày lại
những vấn đề trên cơ sở t duy đổi mới, nhận
thức mới, cách nhìn mới. Nhìn lại các giáo trình
hiện nay của môn lí luận chung về nhà nớc và
pháp luật, chúng tôi nhận thấy về cơ bản, đ
thâu tóm đợc những khái niệm, phạm trù cần
thiết và các vấn đề cốt yếu nhất của nhà nớc và
pháp luật nhng vẫn còn dài, có chỗ quá trừu
tợng, khó hiểu, có nơi còn chung chung và
thiếu dẫn chứng thực tế cần thiết, thậm chí có
vấn đề đợc tác giả trình bày sang các khoa học
pháp lí khác nh lịch sử t tởng chính trị -
pháp lí, lịch sử nhà nớc và pháp luật, luật hiến
pháp, luật hành chính Đặc biệt, một số nội
dung đợc trình bày vẫn theo cách nhìn cũ, t
duy cũ.
Ngoài ra, cũng nên cơ cấu lại nội dung
chơng trình giảng dạy (cũng là nội dung
chơng trình học) cho hợp lí và khoa học hơn để
vừa tiện cho thầy, vừa tiện cho trò. Theo chúng
tôi, có hai cách bố trí, sắp xếp. Cách thứ nhất,

đặt bài nhập môn lên đầu tiên, sau đó chia nội
dung chơng trình thành hai phần lớn. Phần một
về nhà nớc, gồm hai mục: Mục một: "Những
khái niệm cơ bản về nhà nớc"; mục hai: "Các
kiểu nhà nớc trong lịch sử". Phần hai về pháp
luật, cũng gồm hai mục: Mục một: "Những khái
niệm chung, cơ bản về pháp luật"; mục hai:
"Các kiểu pháp luật trong lịch sử ". Việc phân
bố này vừa bảo đảm đợc các tính chất: Logic,
hợp lí, khoa học, tuần tự của các vấn đề cần dạy
và học vừa thuận tiện cho giảng dạy và học tập,
nhất là khi cần đối chiếu, so sánh giữa các khái
niệm, các kiểu nhà nớc và pháp luật với nhau.


Đào tạo
Tạp chí luật học số 1/2003
69

Cách thứ hai, cũng đa bài nhập môn lên đầu,
rồi chia nội dung chơng trình thành ba phần.
Phần một gồm những khái niệm cơ bản về nhà
nớc và pháp luật. Phần hai về các kiểu nhà
nớc trong lịch sử. Phần ba về các kiểu pháp
luật trong lịch sử.
b. Đổi mới phơng pháp giảng dạy
Đối với phơng pháp giảng dạy, cần đổi mới
về căn bản vì đây là vấn đề cấp bách nhng
cũng khó khăn, do nhiều nguyên nhân. Việc
ngời học hiện nay kêu ca, phàn nàn khá nhiều về

môn học nh trừu tợng, khó hiểu, khô khan
phần lớn do thầy cha chịu cải tiến phơng
pháp giảng dạy. Theo chúng tôi, phơng pháp
giảng dạy bao gồm phơng pháp thuyết trình
bài giảng và phơng pháp hớng dẫn sinh viên
thảo luận bài giảng.
- Về phơng pháp thuyết trình bài giảng
Chúng tôi có một số ý kiến bớc đầu nh sau:
Một là, cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn hơn
nữa về vị trí, tính chất, mục đích, yêu cầu của
môn học và đối tợng học. Nếu không có nhận
thức nh vậy thì sẽ dẫn đến tình trạng: Hoặc
giảng bài một cách hời hợt, qua loa, đại khái
làm cho các vấn đề cần đợc làm sáng tỏ chỉ
dừng lại ở mức độ lờ mờ, chung chung; hoặc
giảng giải một hay một vài vấn đề nào đó quá cụ
thể, quá rộng, còn các vấn đề khác trong bài
giảng chỉ đợc trình bày qua loa (làm nh vậy
dễ tự dẫn thầy đi lan man hay lệch sang các
khoa học khác); hoặc giảng không bám sát nội
dung chơng trình học (cách giảng này cũng tự
đẩy thầy chệch khỏi mục tiêu bài giảng, còn
ngời học không thu nhận đợc gì bổ ích)
Hai là, cần hiểu rõ, đúng nghĩa của hai từ
"giảng" và "dạy". Không phải ngẫu nhiên mà cổ
nhân ghép hai từ này với nhau. Theo cách hiểu
nôm na thì "giảng" có nghĩa là làm rõ nghĩa của
từng chữ, từng từ, từng câu, từng bài, từ đó
"dạy" cho ngời ta cách nghĩ, cách làm đúng
đắn, hợp lí, hợp tình. Còn nói theo cách nói hiện

đại thì đó là việc dạy chữ, dạy ngời. Vận dụng
nguyên lí ấy vào việc giảng dạy môn lí luận
chung về nhà nớc và pháp luật thì trớc hết
phải giảng giải cho ngời học hiểu đợc nội
dung, ý nghĩa của từng khái niệm, phạm trù, vấn
đề cơ bản của nhà nớc và pháp luật, trên cơ sở
đó dạy cho họ phơng pháp t duy khoa học,
đúng đắn để tiếp cận và giải quyết các vấn đề cụ
thể về nhà nớc, pháp luật trong thực tiễn. Hiện
nay, có tình trạng một số thầy, cô nói chuyện
chuyên đề trên bục giảng chứ không phải là
giảng bài, làm cho sinh viên và ngời học nói
chung có thể thu nhận đợc lợng thông tin nhất
định, thậm chí nghe một cách chăm chú nhng
rốt cuộc thì không nắm đợc nội dung và ý
nghĩa của bài học.
Muốn giảng giải cho ngời học hiểu bài
ngay trên lớp thì phải kết hợp giữa nói và viết
những ý chính trên bảng, đặc biệt cần coi trọng
việc tổng hợp, tổng kết sau mỗi bài giảng và nếu
có thể thì mô hình hoá những vấn đề phức tạp.
Làm nh vậy để cho sinh viên vừa nghe, vừa
ghi, vừa nhìn đợc và chắc chắn hiệu quả giảng
dạy và hiệu quả thu nhận kiến thức mà thầy
truyền đạt sẽ cao. Qua thăm dò ý kiến của sinh
viên, chúng tôi thấy nhiều em muốn thầy viết
những khái niệm cơ bản và các ý chính cần phải
nắm trên bảng, rồi sau đó bằng lời nói phân tích,
giảng giải cặn kẽ, làm nh vậy vừa nhanh hiểu
vừa nhanh nhớ, chứ thầy chỉ nói không thì

không biết cái gì, ý gì là cơ bản cần phải nắm.
Còn việc tự học, tự nghiên cứu qua mô hình mà
thầy tổng hợp đa ra, theo các em, vừa dễ hiểu
mà hiểu sâu, vừa dễ nhớ mà nhớ lâu.
Ba là, cần kết hợp giữa truyền đạt kiến thức
với việc phát huy tinh thần chủ động t duy của
ngời học để họ nắm bắt kiến thức một cách
nhanh, nhạy, thoải mái ở trên lớp, tạo tiền đề
cho việc tự học, tự tìm hiểu và nghiên cứu ở nhà.
Có ý kiến cho rằng để khắc phục cách truyền
đạt kiến thức mang tính áp đặt, khiên cỡng,


đào tạo
70

tạp chí luật học số 1/2003

buồn tẻ, khô khan nh hiện nay thì nên chuyển
từ độc thoại của thầy thành hội thoại giữa thầy
và trò. Theo chúng tôi, nếu cả mấy tiết giảng bài
ngắn ngủi đều làm nh vậy thì đ biến buổi
giảng của thầy thành cuộc "tọa đàm, hội thảo"
giữa thầy với trò, trong khi đ có buổi thảo luận
riêng. Tuy nhiên, thầy vẫn có thể nêu câu hỏi,
đặt những vấn đề liên quan tới nội dung bài
giảng để trò suy nghĩ, trả lời, còn thầy đánh giá,
bình phẩm sự trả lời đó.
Chúng tôi nghĩ rằng trong buổi giảng bài,
mặc dù tinh thần chủ động có từ hai phía: Thầy

chủ động truyền đạt kiến thức cho trò, còn trò
chủ động lĩnh hội kiến thức của thầy nhng vai
trò chính vẫn luôn luôn thuộc về ngời thầy.
Nếu thầy vững vàng về kiến thức, biết cách cuốn
hút trò, làm cho họ chăm chú nghe, ghi và say
sa với lời giảng của mình mà lại không ồn ào
thì bài giảng thật sự trở nên sinh động và sẽ
thành công. Chẳng hạn, thầy không chỉ phân
tích kĩ, giảng giải cụ thể, cặn kẽ các vấn đề
chính thuộc nội dung bài giảng bằng cách nói
đơn giản, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu mà còn
cung cấp những ý kiến khác nhau của các nhà
khoa học (nếu có) hay quan điểm mới nhất hiện
nay về từng vấn đề; không chỉ lấy dẫn chứng
thực tế và cung cấp thông tin ở trong nớc mà
còn đa dẫn chứng thực tế và thông tin của nớc
ngoài; kết hợp vừa giảng giải từng vấn đề cụ thể,
vừa đặt ra câu hỏi có liên quan để trò suy nghĩ
và trả lời, rồi thầy đánh giá kết quả trả lời hoặc
uốn nắn cách hiểu sai lệch; vừa nêu rõ thành tựu
nghiên cứu khoa học đ đạt đợc liên quan tới
các vấn đề đợc trình bày vừa chỉ ra đợc những
vấn đề còn cha đợc giải quyết hay cha đợc
nghiên cứu hoặc hớng nghiên cứu mới hiện
nay; biết lồng ghép vào lúc giảng những câu
chuyện thực tế sinh động, hóm hỉnh để không
khí buổi nghe giảng bớt căng thẳng và xoá đi sự
ngăn cách giữa thầy với trò
Một buổi giảng bài lí luận thành công và có
chất lợng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với

ngời thầy, theo chúng tôi nghĩ, cần có hai điều
kiện: Chung và riêng. Điều kiện chung là phải
thờng xuyên trau dồi, bổ sung, nâng cao kiến
thức chuyên môn và cải tiến kĩ năng s phạm để
có đợc phẩm chất tốt đẹp của ngời thầy, trong
đó có mấy yếu tố quan trọng nhất là vững vàng
về chính trị, trong sáng về đạo đức và lối sống,
chắc chắn và phong phú về kiến thức chuyên
môn, hấp dẫn về cách truyền đạt kiến thức
làm sao để trong mỗi ngời thầy đều hội tụ
đồng thời cả ba tính cách gắn bó hữu cơ và
thống nhất với nhau - vừa là ngời dạy chữ dạy
ngời, vừa là nhà khoa học và đồng thời là
ngời nghệ sĩ trên bục giảng. Đối với điều kiện
riêng: Phải soạn kĩ giáo án trớc khi lên lớp, nếu
có giáo án rồi thì phải đọc lại xem có cần chỉnh
sửa, bổ sung gì không, trong đó đặc biệt chú ý
tới cơ cấu bài giảng, lợng kiến thức cần truyền
đạt và chất lợng thông tin.
- Về phơng pháp hớng dẫn sinh viên thảo
luận bài giảng
Cần nhận thức lại ý nghĩa, tầm quan trọng
của việc thảo luận của sinh viên về những vấn
đề đ học, từ đó mới có cách bố trí giáo viên
hợp lí và cải tiến phơng pháp hớng dẫn của
thầy. Có ý kiến rằng nên tiến hành thảo luận
ngay trong buổi thuyết trình bài giảng, nh vậy
sẽ làm cho sinh viên nắm bài giảng của thầy kịp
thời nhất và nhanh nhất. Chúng tôi e rằng, nếu
làm nh vậy sẽ khó cho cả thầy và trò. Đối với

thầy, sẽ không còn thời gian truyền đạt hết kiến
thức cần truyền đạt và sẽ làm đứt mạch giảng
đang gây hứng thú cho sinh viên. Còn đối với
sinh viên, dù thầy có giảng hay và dễ hiểu đến
mấy đi nữa thì thì họ vẫn còn cha đợc chuẩn
bị thật sự chu đáo về mặt kiến thức, hơn nữa lại
bị chuyển đổi trạng thái làm việc quá nhanh nên
về mặt tâm lí, cha sẵn sàng trả lời câu hỏi của
thầy và đối thoại với thầy. Bởi thế cho nên, trớc
mắt, biện pháp hợp lí nhất vẫn là dành buổi


Đào tạo
Tạp chí luật học số 1/2003
71

riêng cho thảo luận những bài đ học để sinh
viên có thời gian tự học, tự nghiên cứu và chuẩn
bị bài tốt ở nhà trớc khi lên lớp thảo luận.
Muốn vậy, bên cạnh việc công khai hoá thời
khoá biểu chung trong tuần thì cũng phải dán
lịch nghe thuyết trình và thảo luận của môn học
ở nơi mà sinh viên dễ theo dõi để họ chuẩn bị
tốt về kiến thức và tâm lí nghe giảng hoặc thảo
luận, đặc biệt là thảo luận. Hiện nay, lịch
chuyên môn trong tuần phần lớn là để trong
khoa chuyên môn dành cho thầy mà sinh viên
rất ngại vào khoa của các thầy.
Cho tới nay, vẫn còn một số ngời quan
niệm buổi thảo luận chỉ là phụ còn buổi giảng

bài mới là chính, cho nên các giáo viên "cứng
cỏi" hầu nh đợc phân công đứng giảng, còn
những giáo viên hơi "non" một chút thì dành
cho hớng dẫn thảo luận. Quan niệm nh vậy và
cách làm này là sai. Chúng tôi cho rằng giảng
bài và hớng dẫn thảo luận đều quan trọng nh
nhau, thậm chí việc hớng dẫn sinh viên thảo
luận lại càng cần thầy giỏi. Mục đích, ý nghĩa
của buổi thảo luận là nhằm giúp sinh viên củng
cố lại kiến thức đ đợc nghe, ghi trong buổi
nghe giảng đồng thời mở rộng kiến thức đó
cùng với việc liên hệ thực tế; kịp thời uốn nắn
phơng pháp t duy không đúng đắn và nhận
thức lệch lạc của họ; khơi dậy ở họ tính độc lập
tự học hỏi, tự nghiên cứu và tinh thần sáng tạo
khoa học; rèn luyện cho sinh viên cách nghĩ,
cách nói đúng đắn, rõ ràng, mạch lạc, biết trình
bày một vấn đề khoa học một cách khoa học.
Chính vì vậy thầy hớng dẫn thảo luận càng giỏi
càng tốt.
Nội dung thảo luận, trớc hết, là những vấn
đề cơ bản thuộc bài giảng lần trớc của thầy và
các vấn đề mới hoặc câu hỏi mới liên quan trực
tiếp tới bài giảng ấy do thầy và tập thể lớp nêu
ra hoặc các bài tập của thầy đợc đa ra để trò
cùng nhau suy nghĩ, giải đáp.
Về phơng pháp hớng dẫn. Cần khắc phục
tình trạng từ đầu đến cuối buổi thảo luận, thầy
nói lại cho sinh viên những vấn đề mà họ đ
đợc nghe, ghi trong buổi thuyết trình của thầy

hoặc thầy quá nghiêm khắc, nạt nộ trò cha
chuẩn bị bài chu đáo, làm cho không khí buổi
thảo luận căng thẳng, trò bị ức chế mạnh nên
không còn hứng thú và thiếu tập trung suy nghĩ
để thảo luận, tranh luận. Có thể mỗi thầy có một
phơng pháp riêng trong việc hớng dẫn sinh
viên thảo luận nhằm đạt đợc mục tiêu chung
của buổi thảo luận. Chúng tôi xin đa ra phơng
pháp sau đây:
Trớc hết, thầy giúp trò xây dựng đề cơng
thảo luận, trong đó lồng ghép những vấn đề cơ
bản thuộc nội dung bài giảng trớc của thầy và
các vấn đề mới hay câu hỏi mới nhng có liên
quan tới chủ đề thảo luận. Tiếp đến, sinh viên
lên bục trình bày từng vấn đề theo thứ tự trong
đề cơng (trớc hết lấy tinh thần xung phong
của sinh viên, nếu không có ai xung phong thì
phải gọi tên hoặc chỉ định). Sau khi ngời trình
bày trình bày xong, mọi ngời đặt câu hỏi hoặc
đề nghị ngời trình bày giải thích, làm rõ hơn
nữa những vấn đề đợc trình bày hoặc trực tiếp
tranh luận với ngời trình bày trên tinh thần dân
chủ, xây dựng, cởi mở, có văn hoá tranh luận.
Ngời trình bày có quyền tranh luận với bạn để
bảo vệ quan điểm của mình. Trong khi thảo
luận, trò có thể đề nghị thầy giải thích, làm rõ
thêm những vấn đề vớng mắc. Xuất phát từ ý
thức tôn trọng trò, đặc biệt là ý kiến riêng của
trò, thầy có thể cho phép trò tranh luận thẳng
thắn với mình mà vẫn giữ đợc quan hệ tình

cảm thầy - trò. ở đây, vai trò của ngời thầy rất
lớn: Vừa là ngời hớng dẫn sinh viên thảo luận
một cách có trọng tâm, có chất lợng trong
không khí thẳng thắn, dân chủ, cởi mở, khoa
học, có văn hoá vừa là ngời phản biện những ý
kiến của sinh viên và giải đáp những thắc mắc,
vấn đề mà họ còn cha hiểu. Cuối buổi thảo
luận, thầy tổng kết, đánh giá và định hớng để
sinh viên tiếp tục tự nghiên cứu./.

×