Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Bình luận tội giết người trong bộ luật hình sự năm 1999

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.61 KB, 13 trang )

Bình luận " tội giết người" trong bộ luật hình sự năm 1999
LỜI MỞ ĐẦU
Ngành luật học có một vị trí và vai trò to lớn trong hệ thống pháp luật nên
luật hình sự luôn được nhà nước quan tâm đặc biệt. Sự phát triển của luật hình
sự Việt Nam gắn chặt với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Ngay từ
những ngày đầu khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, nhà nước đã ban
hành các văn bản pháp luật hình sự quan trọng để chống các hành vi tội phạm,
bảo vệ chính quền nhân dân non trẻ, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội ... Qua 14 năm
thi hành bộ luật hình sự năm 1985 là bộ luật hình sự đầu tiên nhà nước ta cũng
đã tiến hành bốn lần bổ sung và sửa đổi. Bộ luật hình sự năm 1999 được coi là
bộ luật hình sự mới của nước Việt Nam.
Luật hình sự là ngành luật trong hệ thống pháp lụât của nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống những qui phạm pháp luật do nhà
nước ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm
đồng thời qui định hình phạt đi đôi với những tội phạm ấy.
Luật hình sự của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vũ khí sắc
bén của nhân dân Việt Nam trong quá trình xấy dựng nước Việt Nam độc lập,
giầu mạnh và có chủ quyền. Ra đời sau thắng lợi cách mạng tháng 8 năm 1945,
luật hình sự Việt Nam là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống phong kiến,
chống thực dân, đế quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là ngành luật mang
bản chất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
Luật hình sự của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây
dựng, phát triển trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh phù hợp với đặc điểm Xã hội Việt Nam. Đó là ngành luật luôn luôn lấy
việc bảo vệ lợi ích của người lao động làm mục tiêu phát triển của mình.
Vì lẽ đó nhiệm vụ của lụât hình sự Việt Nam là: bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các


dân tộc, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời


giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm.
Nhiệm vụ của luật hình sự Việt Nam xuất phát từ các nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam, các nhiệm vụ cơ bản của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Khi nói đến nhiệm vụ của luật
hình sự người ta thường nghĩ đến mặt trừng trị của nó. Nhưng trên thực tế, nhà
nước khi ban hành luật hình sự không chỉ nhằm mục đích áp dụng luật để trừng
trị những người phạm tội mà nhà nước muốn sử dụng luật hình sự như là công
cụ và phương tiện để phòng ngừa tội phạm có hiệu quả nhưng song song với nó
là bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
góp phần duy trì trật tự, an toàn Xã hội , trật tự quản lí kinh tế, bảo đảm cho mọi
người được sống trong một môi trường Xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh,
mang tính nhân văn cao. đồng thời, pháp luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ
những yếu tố gây ra cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, Xã hội công bằng
văn minh.
Trong giai đoạn hiện nay nhiệm vụ chính của luật hình sự Việt Nam là:
bảo vệ vững chắc nhà nước xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị và trật
tự an toàn Xã hội, tạo điều kiện để nhà nước ta thực hiện thành công sự nghiệp
đổi mới.
Trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, luật hình sự luôn luôn phải chú
trọng đến nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chống mọi hành vi chia rẽ dân tộc, phá hoại khối đoàn
kết toàn dân, bảo vệ vững chắc những thành quả của sự nghiệp đổi mới.
Bộ luật hình sự năm 1999 được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát huy
những nguyên tắc, chế định pháp luật hình sự của nước ta, nhất là của bộ luật
hình sự năm 1985, cũng như những bài học kinh nghịêm từ thực tiễm đấu tranh

2



phòng ngừa tội phạm trong nhiều thập kỉ qua của quá trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Bộ luật hình sự thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu
tranh chống tội phạm và thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hóa, cải
tạo người phạm tội trở thành người lương thiện, qua đó bồi dưỡng cho mọi công
dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham
gia phòng ngừa và chống tội phạm.
Căn cứ vào điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 quyết định: Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 có hiệu lực
ngày 01 tháng 07 năm 2000. Bộ luật hính sự này thay thế bộ luật hình sự được
quốc hội thông qua ngày 27 tháng 06 năm 1985 và các luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua 28/12/1989 và 12/8/1991,
ngày 22/12/1992 và 10/5/1997. Bộ luật hình sự 1999 được quốc hội thông qua
01/07/2000 có XXIV chương gồm 344 điều. Chương XII của bộ luật hình sự có
điều 93 quy định về tội giết người. Bộ luật hình sự 1985 chưa có văn bản pháp
luật hình sự nào quy định một cách có hệ thống và đầy đủ về tội giết người này.
Tuy nhiên bộ luật hình sự cũng đã quy định nhưng vẫn còn những hạn chế nhất
định và bộ luật hình sự 1999 đã khắc phục được phần nào những hạn chế đó.
Mặc dù nó chưa hoàn hảo bởi xã hội ngày càng phát triển, mối quan hệ của con
người ngày càng phức tạp. Đó là cơ sở nảy sinh những mâu thuẫn mới. Như triết
học Mác Lênin nói rằng: cái sau bao giờ cũng tiễn bộ hơn cái trước. Mặc dù nó
chỉ ở mức tương đối mà thôi. Em là công dân của một nước tự do, khi đọc bộ
luật hình sự của nước ta ban hành 1999 và có hiệu lực 01/7/2000 với khả năng
nhân biết của em thì em thấy bộ luật này có rất nhiều ưu việt nhưng song song
với nó thì không tránh khỏi hạn chế. Bộ luật hình sự ra đời để đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, góp phần vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn ven lãnh thổ của tổ quốc, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội , trật

tự quản lí kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã
3


hội và trạng thái an toàn, lành mạnh mang tính nhân văn cao. Là một công dân
tự do của một nước tự do khi nghiên cứu bộ luật hình sự này em thấy bộ luật
hình sự 1999 quy định tội giết người với những hình phạt trong cung tăng nặng
có 16 hành vi được lịêt kê. Trong khung cơ bản có khoản hai của điều 93 và
hình phạt bổ sung. Em thấy rất hợp lý và mang tính nhân văn cao. Vì trong luật
pháp không chỉ có lý cứng rắc mà pháp luật quy định mà còn có cả tình. Khi lý
tình song hành cùng nhau thì sẽ làm cho phạm nhân khâm phục khẩu phục hơn.
Chịu khó cải tạo để sớm được trở về cộng đồng. Qua đó pháp luật đã giáo dục
họ, họ hiểu về hành vi sai trái của mình, chứ không phải pháp luật là cưỡng
bức, là đánh đập làm cho họ đi vào con đường cùng không còn lỗi thoát. Thì lúc
đó, pháp luật chỉ đem lại cho con người ta những bất hạnh mà thôi. Nhưng thật
may mắn cho chúng ta được sống trong một Xã hội công bằng được pháp luật
bảo vệ một cách công bằng, mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật

4


PHẦN NỘI DUNG
Điều 93 trong bộ luật hình sự của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ban hành và có hiệu lực 01/7/2000 quy định tội giết người có 3 khoản ,
trong khoản 1 có 16 hành vi nhưng không miêu tả cụ thể những dấu hiệu của tội
này mà chỉ nêu tội danh. Từ thực tiễm xét sử đó đã được thừa nhận. Vậy tội giết
người là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác. Từ định
nghĩa này, có thể rút ra những dấu hiệu pháp lý của tội giết người.
1. Dấu hiệu pháp lý
1.1. Mặt khách quan của tội phạm

- Hành vi khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp lụât
tính mạng của người khác.
Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được hiểu là hành vi có khả
năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Những hành vi
không có khả năng này không thể là hành vi khách quan của tội giết người.
Hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người có thể là hành động bắn,
đâm, chém... hành vi khách quan của tội giết người cũng còn có thể là không
hành động. Đó là những trường hợp chủ thể có nghĩa vụ phải hành động, phải
làm những việc nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính mạng của người khác
nhưng họ đã không hành động, không thực hiện những việc làm đó. Không hành
động của họ trong những trương hợp này cũng có khả năng gây ra cái chết cho
con người.
Đối tượng của hành vi tước đoạt tính mạng chỉ có thể là con người đang
sống. Thời điểm bắt đầu của con người đang sống được tính từ thời điểm được
sinh ra và kết thúc khi sự sống thực sự chấm dứt.
Hành vi tước đoạt tính mạng được coi là hành vi khách quan của tội giết
người phải là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác.
5


Hành vi tự tước đoạt tính mạng của chính mình không thuộc hành vi
khách quan của tội giết người. Những hành vi gây ra cái chết cho người khác
được pháp luật cho phép cũng không phải là hành vi khách quan của tội giết
người. Ví dụ: hành vi tước đoạt tính mạng người khác trong trường hợp phòng
vệ chính đáng ( điều 15 BLHS ).
Trong thực tiễm xét xử còn gặp những trường hợp tước đoạt tính mạng
người khác do được sự đồng ý của nạn nhân. động cơ của những hành vi này có
thể khác nhau. Trong đó có những động cơ mang tính nhân đạo. Ví dụ: Tước
đoạt tính mạng người bị mắc bệnh hiểm nghèo, nhằm tránh đau khổ kéo dài cho

họ... Theo luật hình sự Việt Nam , những trường hợp này cũng bị coi là trái pháp
luật.
- Hậu quả của tội phạm
Hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP tội giết người là
hậu quả chết người. Như vậy, tội giết người chỉ được coi là tội phạm hoàn thành
khi có hậu quả chết người. Nếu hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân
khách quan thì hành vi phạm tội bị coi là tội giết người chưa đạt hoặc là tội cố ý
gây thương tích, tuỳ thuộc vào lỗi của người phạm tội.
- QHNQ giữa hành vi khách quan và hậu quả giết người
Về nguyên tắc, người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy
hiểm cho Xã hội do chính hành vi của mình gây ra. Nguyên tắc này đòi hỏi phải
xác định hậu quả chết người có QHNQ với hành vi khách quan của người bị
buộc phải chịu TNHS về tội giết người.
Như vậy, việc xác định mối QHNQ là điều kiện cần thiết để có thể buộc
người có hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác phải chịu trách
nhiệm về hậu quả chết người đã xảy ra đó. Việc xác định này trong nhiều trường
hợp cũng hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của giám định pháp y.
1.2. Mặt chủ quan của tội phạm
- Lỗi của người phạm tội
Lỗi của người phạm tội giết người là lỗi cố ý. Lỗi cố ý ở đây có thể là lỗi
cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Trong trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, người
6


phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra nhưng vì mong muốn hậu
quả đó nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp lỗi cố ý gián tiếp,
người phạm tội nhận thức hành vi của mình có khả năng nguy hiểm đến tính
mạng người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra nhưng để đạt
được mục đích của mình người phạm tội có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra
hay nói cách khác, họ có ý chấp nhận hậu quả đó ( nếu xảy ra).

Ở đây cần chú ý: chỉ có thể có lỗi cố ý gián tiếp nếu người phạm tội thấy
trước hậu quả chết người có thể xảy ra. Nếu đã thấy trước hậu quả chết người
tất nhiên xảy ra thì chỉ có thể là cố ý trực tiếp.
Trong trường hợp hậu quả chết người đã xảy ra việc xác định lỗi là cố ý
trực tiếp hay cố ý gián tiếp không có ý nghĩa trong việc định tội, nhưng việc xác
định này sẽ có ý nghĩa rất quan trọng nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi
khách quan nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra. Cụ thể:
+ Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là cố ý
trực tiếp thì người phạm tội phải chịu TNHS về tội giết người chưa đạt.
+ Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là cố ý
gián tiếp thì người phạm tội thì phải chịu TNHS về tội cố ý gây thương tích mà
không phải chịu TNHS về tôih giết người chưa đạt.
trong thực tiễm áp dụng luật hình sự, việc xác định lỗi cố ý trực tiếp hay
cố ý gián tiếp không phải luôn luôn đơn giản mà trong nhiều trường hợp hết sức
phức tạp. việc xác định lỗi còn đặc biêth phức tạp hơn trong những trường hợp
xác định lỗi cố ý gián tiếp hay chỉ là lỗi vô ý quá tự tin đối với hậu quả chết
người.
- Mục đích động cơ phạm tội
Mục đích, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP
tội giết người. Hành vi giết người có mục đích chống chính quyền nhân dân cấu
thành tội khủng bố theo điều 84 BLHS. động cơ phạm tội tuy không có ý nghĩa
trong định tội nhưng một số động cơ phạm tội được quy định là tình tiết định
khung tăng nặng.
2. Hình phạt
7


Điều 93 bộ luật hình sự quy định hai khung hình phạt.
* Khung cơ bản được quy định tại khoản 2 điều 93 trong bộ luật hình sự
có mức phạt tù từ 7 đến 15 năm. khung hình phạt này chỉ được áp dụng trong

trường hợp giết người không có tình tiết trong khung tăng nặng được quy định
tại khoản 1 điều 93 trong bộ luật hình sự.
* Khung tăng nặng có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân,
tử hình được áp dụng cho trường hợp giết người có một trong những tình tiết
định khung tăng nặng sau.
- Giết nhiều người
Như chúng ta cũng biết, con người là tài sản của quốc gia, là đối tượng
được pháp luật bảo vệ mọi mặt mà kẻ giết người vì lý do gì đó đã tước đi tính
mạng của con người. Mà không chỉ một người mà từ hai người trở lên. khi đứng
trước vành móng ngựa, để bảo vệ người bị hại, và để trả lại sự công bằng cho
mọi người và để cho kẻ gây ra tội ác đó khâm phục khẩu phục thì cơ quan điều
tra phải tìm ra nguyên cớ vì sao mà gây ra hành vi đó để định tội cho kẻ gây ra
hành vi đó một cách công bằng và cho họ thấy rằng: kể cả kẻ gây ra tội và người
bị hại luôn luôn được pháp luật bảo vệ. Sự định tội của pháp luật đối với kẻ gây
hại đó là các hình phạt để giáo dục, cải tạo họ. Bằng mọi phương pháp giúp họ
hiểu ra hành vi sai trái của mình, và đưa họ về với cuộc sống cộng đồng
- Giết phụ nữ mà biết có thai
Phụ nữ là đối tượng được pháp luật và cộng đồng bảo vệ mọi mặt và với
sự ưu ái đặc biệt của nhà nước. kẻ gây hại đã liền một lúc giết hại hai tính mạng
mà chúng biết rõ điều đó . Trường hợp giết người này được coi là trường hợp
tăng nặng TNHS vì hành vi phạm tội xâm phạm đối tượng cần được xã hội quan
tâm và bảo vệ đặc biệt. Hành vi giết phụ nữ mang thai thể hiện tính vô nhân đạo
cao độ, rất khác so với trường hợp phạm tội giết người thông thường. Hành vi
phạm tội không chỉ xâm phạm đến tính mạng của người mẹ mà còn xâm phạm
đến sự sống trong tương lai của đưa con- đây là mầm mống tương lai của đất
nước, là đối tượng mà được pháp luật và cộng đồng bảo vệ. đây là hành vi mà

8



trời không dung đất không tha cho những kẻ mặt người dạ sói. đứa trẻ mới đang
hình thành nó có tội tình gì mà chưa ra đời đã bị giết. Thật là đáng thương!
- Giết trẻ em
Ở đây chúng ta hiểu trẻ em là dưới 16 tuổi, là tương lai của đất nước. Đây
là đối tượng được pháp luật và Xã hội quan tâm và bảo vệ đặc biệt. kẻ giết
người vì nguyên nhân nào đó giết những chủ nhân tương lai của đất nước. đây là
những kẻ không còn lương tri của một con người nữa. chúng đã hạ tay giết hại
những đứa trẻ chưa đến tuổi vị thành niên, mà trong mắt các em nhìn cả thế giới
là một mầu hồng đẹp đẽ,tâm tưởng các em là một trang giấy trắng. vậy mà
chúng đã không lương tay trước những cặp mắt tròn đẹp đẽ đó vì những mưu lợi
của riêng mình, hay vì thù oán cá nhân với những kẻ khác mà chúng đổ cơn giận
và thù oán lên các em. Đây là những đứa trẻ vô tội, pháp luật hãy trả lại cho các
em những gì mà các em sứng đáng được nhận và trừng trị những kẻ đã gây ra
những tội ác đó thật đích đáng và cho đúng người đúng tội.
- Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
Giết người đang thi hành công vụ là trường hợp giết người mà nạn nhân
là người đang thi hành công vụ.
Giết người vì lý do công vụ của nạn nhân là trường hợp giết người mà
động cơ của hành vi giết người gắn liền với việc thi hành công vụ của nạn nhân:
Giết nạn nhân để không cho nạn nhân thi hành công vụ hay giết nạn nhân để trả
thù việc nạn nhân đã thi hành công vụ.
Công vụ ở đây được hiểu là những vì lợi ích chung mà việc thực hiện
công việc đó đòi hỏi người thi hành đó phải có những quyền hành nhất định với
những công dân khác. Ví dụ: Công việc giữ gìn trật tự công cộng hay an toàn
giao thông của công an.... Tính nguy hiểm của những trường hợp giết người này
là ở chỗ nó không chỉ xâm phạm đến tính mạng con người mà đồng thời còn
xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự công cộng, cản trở hoạt động chung của xã
hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an.
- Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuồi dưỡng, thầy giáo, cô giáo, của mình


9


Đây là trương hợp giết người mà nạn nhân là người có quan hệ đặc biệt
với người phạm tội. Trong mối quan hệ này người phạm tội phải là người hơn ai
hết biết ơn và kính trọng nạn nhân. những con người đã sinh thành và nuôi
dưỡng mình. Nếu là một con người biết nghĩ thì đây là những con người mà cả
cuộc đời ta phải mang ơn họ, cả cuộc đời ta dù làm được vô vàn điều tốt cũng
không bao giờ trả hết tình nghĩa đó. Vậy mà lương tri ở đâu, nhân phẩm ở đâu,
mà kẻ đã không biết nâng lưu những cái gì quý báu rất của cuộc đời họ mà chính
bàn tay bẩn thỉu của chúng đã huỷ hoại. với hành vi phạm tội này, người phạm
tội không chỉ vi phạm pháp luật mà còn vi phạm nghiêm trọng đạo lý làm
người- đây là truyền thống đạo lý lâu đời của dân tộc ta đã được lưu truyền từ
đời này qua đời khác. pháp luật hãy trừng trị những kẻ không chỉ vi phạm pháp
luật mà còn vi phạm đạo đức nghiêm trọng này để răn đe cho những trường hợp
sau.ở đây còn mang tính giáo dục tinh nhân văn rất cao của con người.
Và còn rấtd nhiều trường hợp vi phạm khác thuộc khung tăng nặng này
như : giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm
khác, để lấy bộ phận thi thể của nạn nhân, thực hiện tội phạm một cách man rợ,
thực hiện tội phạm bằng cách lợi dụng nghề nghiệp, thực hiện tội phạm bằng
phương pháp có khả năng làm chết nhiều người, thuê giết người hoặc giết người
thuê, phạm tội có tính chất côn đồ, phạm tội có tổ chức, phạm tội trong trường
hợp tái phạm nguy hiểm, vì động cơ đê hèn. Đây là những trường hợp phạm tội
thuộc trong khung tăng nặng mà pháp luật đã quy định tại khoản 1 điều 93 trong
BLHS của nhà nứơc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 ban hành.
Bộ luật hình sự Việt Nam ra đời là để bảo vệ quyền con người, bảo vệ sự
bình đẳng cho con người.... Trước những hành vi vi phạm pháp luật của kẻ
phạm tội, cơ quan điều tra có thẩm quyền hãy làm sáng tỏ những nguyên nhân
gây ra động cơ giết người đó, cái lỗi vi phạm đó là vô tình hay cố ý, điều tra

xem hành vi vi phạm pháp luật đó ở trong trạng thái nào của con người, trong
lúc tinh thần có tỉnh táo hay trong tinh thần không ổn định.... Đây là một điều
kiện rất quan trọng để định tội cho hành vi giết người đó, để không oan, và kẻ
10


gây tội phải khâm phục khẩu phục trước pháp luật. Và trong quá trình, cải tạo
của tội nhân, pháp luật phải làm sao cho họ thấy rõ hành vi phạm pháp của
mình, mà cải tạo tốt để sớm được trở về với cộng đồng. Chứ không phải là cho
họ vào con đường cùng của cuộc sống. Mà phải làm cho họ thấy được rằng nặc
dù vậy họ luôn luôn được pháp luật bảo vệ và họ thấy được giá trị nhân văn của
pháp luật.
* Hình phạt bổ sung
Khoản 3 điều 93 BLHS quy định các hình phạt bổ sung có thể áp dụng
cho người phạm tội. Đó là:
- Cấm đảm nhiệm chức vụ , cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
từ 1 đến 5 năm:
- Quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 đến5 năm.

11


PHẦN KẾT LUẬN
Điều 93 BLHS năm 1999 quy định hình phạt về tội giết người. Đây là
một trong những tội vô nhân đạo nhất, thiếu tính người và pháp luật đã quy
định hình phạt đối với từng tội danh của từng động cơ giết người một của tội
phạm. Tuỳ vào hoàn cảnh gây án mà pháp luật định tội danh cho từng hành vi
một để cho kẻ gây an cúi đầu nhận tội mà không một lời nào oán trách, đồng
thời để răn đe cho con người, giữ gìn trật tự xã hội, an ninh quốc phòng tạo cho
con người có một môi trường sống lành mạnh hơn, và tốt đẹp hơn, đây là mục

đích cao cả của pháp luật, chứ không phải như mọi người nghĩ là pháp luật là
trừng phạt,... .Các hình phạt của pháp luật tùy từng tội danh một để giáo dục cải
tạo họ trở thành những công dân tôt sau này của xã hội, để đưa họ ra khỏi môi
trường cũ và họ nhận ra lỗi lầm của mình. Đây là một môi trường vừa hướng
con người vào cuộc sống nhân văn. Nhưng cái gì nó cũng có mặt trái của nó,
bên cạch những ưu việt của BLHS nó còn có những mặt hạn chế của nó. Vì Xã
hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ của con người ngày càng phức tạp,
đây là cơ sở làm nảy sinh những mâu thuẫn mới vì vậy pháp luật không ngừng
năng động để ngày càng thích nghi với cuộc sống hiện đại của con người. Sự
nghiêm minh của pháp luật là vậy, nhưng nó luôn có lỗ hỏng của thời đại, những
lỗ hỏng này con người biết mà không bao giơ sửa được vì đó gần như là quy luật
Xã hội rồi!
Điều 93 BLHS quy định những tội danh cho những kẻ gây an, tuỳ từng tội
mà tuyên an, đúng người đúng tội. Em thấy sự tuyên phat của pháp luật về
những tội ấy dù ở mức tăng nặng hay cơ bản hoặc bổ sung đều rất thoả mãn.
Phạt nhưng để giáo dục con người, hướng họ vào một cuộc sống tôt đẹp hơn.
Nhưng đôi khi trong một số trường hợp rất ít, cái môi trường đó đã không giáo
dục được con người mà làm cho họ lại trở cuộc sống cũ. Đó là do đâu? Có phải
12


chăng do chính con người đó không chịu quay về với cuộc sống của chính họ
trước kia, hay phải chăng đây chính là "lỗ hỏng " của pháp luật?. Mặc dù nó là
một số phần tử nhỏ, nhưng chúng ta hãy có gắng hạn chế nó đi. Làm cho môt
trường sống của những người dân trong sạch hơn , an toàn hơn và pháp luật
vững mạnh hơn.
Vì vậy,chúng ta hãy sống cho một xã hội tốt đẹp hơn, và hãy sống và làm
việc theo hiến pháp và pháp luật để cho pháp luật ta ngày càng trong sạch và tạo
được niềm tin cho con người hơn. Chúng ta hãy cùng nhau cố gắng để những "lỗ
hỏng" của pháp luật không to ra nữa, tạo niềm tin vững chắc trong nhân dân ta

và trong mối quan hệ với quốc tế.

MỤC LỤC

13



×