Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 20 trang )

SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Mục lục

Trang
Tài liệu tham khảo

2

A. Phần mở đầu

3

I. Lí do chọn đề tài

3

II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu đề tài

4

III. Giới hạn của đề tài

5

IV. Kế hoạch thực hiện

6

B. Phần nội dung



6

I. Cơ sở lí luận

6

II. Cơ sở thực tiễn

7

III. Thực trạng

8

IV. Các giải pháp

8

1. Đảm bảo các nguyên tắc khi sử dung ĐDDH trong dạy Mĩ thuật

8

2 Sưu tầm và làm ĐDDH tự tạo:

9

3. Sử dụng ĐDDH trong từng phân môn cụ thể

9


4. Sử dụng kĩ thuật dạy – học

12

V. Kết quả đạt được

13

C. Kết luận

14

Kiến nghị đề xuất

14

Phụ lục

15-19

1
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Tài liệu Tham khảo
1. Sách giáo viên 6,7,8,9 môn Mỹ Thuật.

2. Đổi mới Phương pháp dạy học ở Trung học cơ sở - NXB Giáo dục.
3. Mĩ thuật và phương pháp dạy học Mĩ thuật ở Trung học cơ sở ( Tài liệu
đào tạo Giáo viên) - NXB Giáo dục.
4. Tài liệu tập huấn của Bộ GD&ĐT_Dự án phát triển Giáo viên năm 2007.
5. Trang web: />
Các chữ viết tắt
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
ĐDDH: Đồ dùng dạy học
PPDH: Phương pháp dạy học
MT: Mĩ thuật

2
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Đề tài:
SỬ DỤNG VÀ KẾT HỢP LINH HOẠT GIỬA ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
VÀ KĨ THUẬT DẠY HỌC NHẰM TẠO HỨNG THÚ
HỌC TẬP MÔN MĨ THUẬT Ở HỌC SINH THCS
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
Mục đích của nền giáo dục chúng ta là đào tạo những con người phát triển
nhiều mặt (Đức – Trí – Thể - Mỹ - Lao động) hài hòa cân đối ở các mặt. Nếu thiếu
một trong các mặt đó thì việc đào tạo đó sẽ mất cân đối.
Thực hiện nhiệm vụ giáo dục cái đẹp phải thông qua nhiều hoạt động,

nhiều môn học, trong đó môn Mỹ thuật có một vị trí quan trọng. Nó là môn cơ sở
của Mỹ dục – môn Mĩ thuật chỉ ra những quan điểm, những tiêu chuẩn của cái
đẹp. Vì vậy, môn Mĩ thuật từ lâu đã là một môn học chính thức trong chương trình
giảng dạy ở các trường phổ thông, nó gắn bó chặt chẽ với các môn học khác để
đào tạo chất lượng giáo dục.
Giáo dục thẩm mĩ chính là giáo dục cho HS biết cách vận dụng cái đẹp
vào trong học tập và cuộc sống, nhằm khơi dậy khiếu thẩm mĩ vốn có ở tuổi thơ.
Từ đó bồi dưỡng cho các em niềm say mê, hứng thú tìm cái hay, cái đẹp trong
nghệ thuật tạo hình. Mĩ thuật còn giúp các em làm quen với các ngôn ngữ,
phương tiện của tạo hình như: đường nét, hình khối, màu sắc, bố cục...Qua đó HS
có thêm những kĩ năng để vận dụng những kiến thức giúp các em học các môn
học khác và trong cuộc sống hằng ngày. Theo qui luật phát triển của tự nhiên thì
một khi đời sống vật chất của xã hội được nâng cao thì nhu cầu về mặt thẩm mỹ
cũng phát triển, chính vì thế trong chương trình giáo dục mới thì mục tiêu giáo
dục đặt ra đó là phải làm sao để học sinh biết cảm nhận, biết tạo ra cái đẹp đã
được đưa lên ngang hàng với các mục tiêu khác.
Môn Mĩ thuật lấy hoạt động thực hành phát triển năng lực cảm thụ, thông
qua đó nhằm phát huy khả năng tư duy, tính độc lập, sáng tạo giúp HS thực hành
được theo cách nhìn, cách nghĩ bằng cảm xúc riêng.
Hầu hết tất cả các HS đều thích học Mĩ thuật, tuy nhiên để khơi gợi cảm
xúc ban đầu của các em là một việc không dễ dàng, vì nếu không có cảm xúc,
không có sự hình dung về đề tài thì HS sẽ không thể thể hiện hết được tính sáng
tạo của mình cũng như sự nhận biết đầy đủ về các hình ảnh mà mình sẽ thể hiện.
Chính vì vậy mà thực tế đã đặt ra phải làm sao HS có được kiến thức, hình
3
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS


ảnh một cách trực quan và sinh động nhất. Qua đó giáo viên khơi gợi được cảm
xúc về đề tài cho HS. Và làm sao để HS có thể khai thác hết được các yếu tố thẩm
mĩ của đối tượng về bố cục (cách sắp xếp), hình thể (hình dáng, kích thước, tỉ lệ,
đậm nhạt...) để HS cảm nhận và thể hiện theo khả năng và sở thích riêng.
2. Cơ sở thực tiễn:
Trường THCS Nguyễn Văn Đừng là một trường vùng sâu của Huyện Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Trong những năm gần đây trường đã tham gia thi học sinh
giỏi khéo tay Mĩ Thuật – Kỹ thuật và điều đạt được các giải ở cấp huyện và cấp
tỉnh, nhưng tỉ lệ học sinh giỏi và tham gia được trong hội thi thì chưa cao.
Trong nhà trường, hầu hết các em HS đều rất thích học môn học Mĩ thuật.
Tuy nhiên, sự quan tâm đến môn học này ở các bậc phụ huynh còn nhiều hạn chế,
nhiều em còn thiếu sách Mĩ thuật, màu vẽ, viết chì.... Các bậc phụ huynh chủ yếu
yêu cầu các em chú trọng vào những môn như Toán, Tiếng Anh,... nên nhiều khi
môn Mĩ thuật bị coi nhẹ. Chính vì vậy các yếu tố trên đã ảnh hưởng rất nhiều đến
việc tiếp thu bài của các em.
Việc sử dụng ĐDDH thiếu thẩm mĩ, chưa hệ thống, chưa khoa học, không
phù hợp với từng phân môn, trong dạy học tiết có sử dụng đồ dùng tiết không sử
dụng nên làm HS tiếp nhận kiến thức không sâu và không khơi gợi được đề tài
cho HS qua đó HS sẽ không có hứng thú làm bài, tiết học sẽ không đạt hiệu quả.
Môn Mĩ thuật trung học cơ sở có 4 phân môn: phân môn Vẽ tranh, phân
môn Vẽ trang trí, phân môn Vẽ theo mẫu và phân môn Thường thức mĩ thuật. Với
mỗi một phân môn lại có những nét đặc trưng riêng biệt cho nên việc sử dụng
ĐDDH cũng phải linh hoạt theo từng phân môn và nội dung của từng bài học cụ
thể.
Chính vì vậy mà thực tiễn đòi hỏi người GV làm sao phải tìm ra một
phương pháp sử dụng ĐDDH một cách hợp lí và hiệu quả với từng phân môn cụ
thể trong giảng dạy mĩ thuật.
Với tư cách là một giáo viên dạy Mĩ thuật, tôi không thể làm ngơ trước
thực trạng trên. Tôi nghĩ rằng đây là đề tài nghiên cứu rất chính đáng góp phần

nhỏ cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Mỹ thuật.
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
1 . Mục đích - ý nghĩa
Môn Mĩ thuật ở chương trình giáo dục phổ thông không nhằm đào tạo học
sinh thành những người chuyên làm công tác mĩ thuật, mà mục đích chủ yếu là
hướng dẫn và tạo điều kiện cho các em được tiếp xúc với môi trường của các hoạt
động nghệ thuật (Hội họa). Để các em có hiểu biết về những yếu tố làm ra vẻ đẹp
và những tiêu chuẩn về cái đẹp.
Để góp phần nâng cao chất lượng Dạy và học môn Mĩ thuật trong trường
Trung học cơ sở. Giúp các em HS phát huy tối đa tính sáng tạo của bản thân cũng
4
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

như khả năng cảm thụ thẩm mĩ của HS đối với các phân môn Mĩ thuật.
Bồi dưỡng thị hiếu và tình cảm thẩm mỹ, giúp các em có thể cảm thụ được
vẻ đẹp của một tác phẩm hội họa, vẻ đẹp của thiên nhiên, của quê hương, biết lựa
chọn và biểu hiện vẻ đẹp trong đời sống, trong cách ứng xử, biết yêu cái đẹp và
bảo vệ cái đẹp.
Sử dụng ĐDDH một cách khoa học và hiệu quả trong dạy Mĩ thuật. Giúp
HS tiếp thu nội dung bài học một cách sinh động và đầy đủ qua đó khơi gợi cảm
hứng, tính sáng tạo trong HS, đồng thời bồi dưỡng cho học sinh có năng khiếu
những kiến thức về chuyên môn, khả năng sáng tạo nghệ thuật để các em có thể thi
vào các trường chuyên ngành Mỹ thuật.
Góp phần thực hiện mục tiêu của ngành giáo dục đặt ra cho mỗi ngành học
học, môn học.
2. Nhiệm vụ:

* Giáo dục thẩm mỹ cho học sinh, bồi dưỡng, nâng cao thị hiếu thẩm mỹ,
năng lực nhận thức cái đẹp.
* Thông qua thực hành các em nắm được phương pháp vẽ phải đi từ bao
quát đến chi tiết, biết cách quan sát, so sánh, phân tích và tổng hợp. Có nhận thức
đúng về đối tượng và có khả năng thể hiện đối tượng.
* Biết vẽ, giúp học sinh có điều kiện học tập các môn học khác như: Toán,
Văn, Sử, Địa, Thể dục,…
* Bồi dưỡng năng khiếu nghệ thuật cho học sinh, giúp học sinh có năng
khiếu có thể theo học các trường chuyên nghiệp.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Khảo sát.
- Quan sát, phân tích rồi tổng hợp.
- So sánh và đối chiếu.
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI.
1. Lịch sử đề tài.
Trước đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề nâng cao chất
lượng học sinh. Nhưng những đề tài này chưa chi tiết, khó hiểu và khó áp dụng
cho nhiều địa phương.
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu khá chi tiết về cách sử dụng đồ
dùng dạy học và kĩ thuật dạy học cho các phân môn trong chương trình Mỹ thuật.
2. Đối tượng
* Đối tuợng: Học sinh khối 6, 7, 8, 9.
* Địa điểm: Trường THCS Nguyễn Văn Đừng.
* Thời gian: năm học 2011 – 2012.
3. Cơ sở nghiên cứu:
- Học sinh Trường THCS Nguyễn Văn Đừng.
5
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng



SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:
- Tất cả các khối lớp trong trường THCS Nguyễn Văn Đừng năm học 20112012.
- Nghiên cứu và làm đồ dùng dạy học đặc thù cho các phân môn.
- Sử dụng các phương pháp dạy học mang tính vừa chơi vừa học phát huy
tính tích cực vai trò tự tìm tòi học hỏi của học sinh.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Mỹ thuật là môn học đòi hỏi sự sáng tạo, luôn luôn sáng tạo: Từ cái thực có
thật nên bài vẽ, bức tranh đẹp, phản ánh cái thực (cái tinh túy, cốt lõi) mà vẫn
không nệ thực, không giống 100% như nguyên thể. Tề Bạch Thạch đã nói” Tranh
vẽ phải vừa thực vừa hư, thực quá là mị đời, hư hóa là dối đời. Tranh phải lưng
chừng giữa thực và hư”. Muốn được như vậy, học Mỹ thuật phải suy nghĩ, độc lập
suy nghĩ và dám nghĩ để tạo ra cái mới, cái riêng của mình.
Mỹ thuật là môn học tạo ra cái đẹp. Muốn có cái đẹp phải có kiến thức, phải
nghĩ, phải thích thú vì không gò ép được, không phải chỉ có nhớ mà làm được,
không phải đúng, chính xác mà đẹp,…Vì vậy, dạy Mỹ thuật hay phương pháp dạy
Mỹ thuật cần phải làm cho học sinh phấn khởi, hồ hởi, mong muốn vẽ đẹp, chứ
không đơn thuần là truyền đạt kiến thức. Như Chi-Xchia-Kốp – Họa sĩ, nhà giáo
Nga đã nói:”Họa sĩ giỏi chưa chắc đã là thầy giáo giỏi”. Ở đây, ông nhấn mạnh
đến phương pháp truyền thụ của giáo viên. Thầy giáo có kiến thức uyên thâm
nhưng không biết các truyền đạt, học sinh không lĩnh hội được hay lĩnh hội kém
hiệu quả thì rõ ràng chưa phải là thầy giáo giỏi. Như vậy cần có nghệ thuật truyền
đạt, hay nói cách khác là nghệ thuật dạy học. Dạy Mỹ thuật làm cho học sinh tự
giác học tập, vui vẻ tiếp nhận, chờ đón những điều mới mẻ.
Mỹ thuật là môn học mà kiến thức của nó vừa cụ thể rõ ràng vừa chung
chung, trừu tượng, khó thấy, khó nhìn, và loại kiến thức có ở xung quanh ta.
..Điều đó đòi hỏi giáo viên phải nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn và kiến

thức của môn khác có liên quan, đó là kiến thức của khoa học xã hội và khoa học
tư nhiên. Đồng thời, giáo viên phải liên hệ được với thực tiễn sinh động xung
quanh khi bài giảng cần tới. Đây không đơn giản là thầy cô giáo dạy Mỹ thuật
phải hiểu biết rộng, mà là vấn đề của phương pháp. Biết cách dạy như thế nào cho
có hiệu quả là tâm huyết nghề nghiệp của giáo viên.
Mỹ thuật là môn học thực hành, lấy thực hành làm hoạt động chủ yếu, học
sinh phải luyện tập, làm đi làm lại nhiều lần, mỗi lần thử nghiệm là một lần tìm
được những cái mới, cái khác, là một lần nhận thức rồi lại nhận thức thêm. Vì thế,
những lúc học sinh làm bài, giáo viên cần có mặt để theo dõi, giúp đỡ, gợi ý, điều
chỉnh hay bổ sung những gì cần thiết để mỗi học sinh tự hoàn thiện bài làm theo
6
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

cách của mình. Giáo viên phải phát huy tính hồn nhiên của học sinh trong tranh
vẽ.
Cha ông ta có câu “Trăm nghe không bằng một thấy”. Vì vậy cho dù GV có
giảng hay thế nào, mô tả đối tượng cụ thể như thế nào đi chăng nữa thì tất cả HS
cũng đều không thể hình dung ra hoàn toàn về đối tượng đó. Như vậy, HS có thể
hình dung chưa đúng về đối tượng dẫn tới có thể hiểu sai về đối tượng, hiểu sai
kiến thức.
Mĩ thuật là môn học của thị giác, thông qua thị giác HS có thể nhìn thấy cái
đẹp, cái chưa đẹp từ đó có thể tiếp thu kiến thức của bài học.
Học mĩ thuật chủ yếu là học bằng ĐDDH vì ĐDDH chính là sự hiện diện
của kiến thức: Các khái niệm, thuật ngữ mĩ thuật.... được thể hiện một cách rõ
ràng thông qua ĐDDH.
Việc sử dụng ĐDDH một cách có hệ thống sẽ giúp HS tiếp thu kiến thức

một cách đầy đủ và khoa học. Qua đó HS biết tập trung vào đúng nội dung cần
thể hiện và tính sáng tạo của HS đối với bài vẽ sẽ đuợc phát huy tối đa. Việc sử
dụng ĐDDH còn giúp HS có nhiều lựa chọn cho mình khi thể hiện trên một đề tài
cụ thể.
Dạy học Mĩ thuật là người GV truyền cảm hứng cho HS giúp HS biết cảm
thụ cái đẹp thông qua những hình ảnh cụ thể, sinh động qua đó giúp các em biết
thổi hồn cho những bài vẽ của mình cũng như là biết cảm nhận cái đẹp của một
tác phẩm một cách chân thực nhất.
Với tâm lí lứa tuổi của HS trung học cơ sở là kiểu tư duy “trực quan sinh
động”, các em quan sát, nhìn, học tập, bắt chước... Vì vậy việc sử dụng ĐDDH sé
giúp các em hiểu ngay về nội dung kiến thức mà không phải hình dung hay tưởng
tượng lệch lạc với kiến thức bài học.
II. CƠ SỞ THỰC TIỂN:
Mĩ thuật là một trong những môn học đặc trưng không nhằm đào tạo hoạ
sĩ tương lai hay tạo ra những người chuyên làm về công tác mĩ thuật mà nhằm
trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về cái đẹp để các em tiếp xúc và làm
quen với cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, biết vận dụng vào trong cuộc sống hàng ngày.
Hỗ trợ các em ở các môn học khác giúp các em phát triển toàn hiện, lâu dài về
đức - trí - thể - mĩ.
Mĩ thuật là một môn học năng khiếu, đòi hỏi các em phải có sự yêu thích
đam mê, tính sáng tạo. Bên cạnh nhìn chung đa số học sinh không có năng khiếu –
vẽ bài thấy khó khăn dẫn đến ngán ngạy đi đến không hứng thú học môn học này;
thêm vào đó việc dạy học còn mang nặng tính cổ điển, thiếu linh hoạt, thiếu sáng
tạo từ đó làm cho người học không yêu thích môn học – học mang tính đối phó.
Chính vì thế việc sử dụng triệt để và vận dụng linh hoạt, sáng tạo đồ dùng
dạy học, có sự kết hợp các kĩ thuật dạy học trong mỗi tiết học là vô cùng quan
trọng và cần thiết.
7
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng



SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Để dựt vậy sự yêu thích môn học ở học sinh là: Làm thay đổi suy nghĩ xem
thường bộ môn đối với các bậc phụ huynh mà đặc biệt là các em học sinh; phải
tìm cách dạy học tạo hứng thú trong bộ môn, cho người học thấy được cái hay,
cái bổ ích của môn học…
III.THỰC TRẠNG:
1. Thuận lợi:
Được sự quan tâm hỗ trợ nhiệt tình của lãnh đạo ngành, đặc biệt là thủ
trưởng đơn vị.
Môi trường sư phạm khá khang trang, trường đạt chuẩn “xanh - sạch - đẹp”
cơ sở vật chất khá đầy đủ, có phòng học bộ môn, phòng máy vi tính,…
Tập thể giáo viên nhà trường luôn đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi GV
là một tấm gương sáng cho HS noi theo với tinh thần ”Dân chủ, kỷ cương, tình
thương, trách nhiệm”.
Sự giúp đỡ nhiệt tình của của chủ tịch PHHS nhà trường.
Các bộ phận làm việc có kế hoạch đúng qui chế.
2. Khó khăn:
Là trường ở vùng ven, phần lớn học sinh đều thuộc gia đình nghèo nên
việc trang bị dụng cụ học tập còn khó khăn.
Bản thân các em cũng phải làm rất nhiều việc để phụ giúp gia đình nên
việc quan tâm đến học tập còn nhiều hạn chế.
Một bộ phận học sinh chưa có ý thức học tâp, có học sinh nghỉ học nhiều
ngày được vận động trở lại lớp học tập do đó chất lượng không cao, năm sau lại
tiếp tục nghỉ học nên ảnh hưởng đến chẩt lượng chuyên môn.
Một số phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của
con em mình, chụa thật sự tiếp tay với nhà trường để giáo dục con em nhất là việc
giáo dục đạo đức.

IV. CÁC GIẢI PHÁP.
1. Đảm bảo các nguyên tắc khi sử dung ĐDDH trong dạy Mĩ thuật
a. Tính chính xác:
ĐDDH dạy học phải đảm bảo phù hợp với nội dung bài dạy. Mang trong
nó kiến thức của bài dạy. Tránh đưa ĐDDH không đúng hoặc khó hiểu với nội
dung bài học sẽ làm HS hiểu sai kiến thức hoặc hiểu kiến thức một cách chung
chung không rõ ràng.
Phải phân biệt được đâu là tranh vẽ, đâu là ảnh chụp.
b. Tính hệ thống:
Quá trình dạy học được coi là một hệ thống, nó bao gồm nhiều thành tố và
các thành tố này có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng qua lại với nhau,
quyết định chất lượng của nhau...Chính vì vậy khi sử dụng ĐDDH cần phải đưa
ra hợp lí, phù hợp với nội dung, hướng HS quan sát theo cấu trúc: từ đơn giản đến
phức tạp, từ bao quát đến chi tiết.
8
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

c. Tính thẩm mĩ:
Học Mĩ thuật là học về cái đẹp, học cách cảm thụ cái đẹp nên yếu tố đầu tiên phải
quan tâm đến đó là “Cái đẹp”. Chính vì vậy mà ĐDDH khi GV sử dụng phải đẹp
và mang tính thẩm mĩ, qua đó mới có thể khơi gợi cho HS sự sáng tạo và xúc cảm
với cái đẹp.
d. Tính cập nhât:
GV nên sử dụng ĐDDH mang hình ảnh của địa phương và những hình ảnh
mang tính thời sự như: lễ hội, môi trường , giao thông... để qua đó HS nắm được
nội dung bài một cách đa dạng những vẫn gần gũi với mình.

e. Tính phù hợp:
ĐDDH nên phù hợp với trình độ của HS vì khi GV đưa ra những bức
tranh rất đẹp nhưng lại khó đối với HS khi cho HS quan sát các em sẽ rất thích
nhưng các em cũng sẽ nản lòng vì không vẽ được như vậy. Qua đó sẽ làm mất
hứng thú của HS, vì vậy khi đưa ĐDDH GV nên tìm những bức tranh phù hợp
với trình độ và sở thích của HS mình.
2. Sưu tầm và làm ĐDDH tự tạo:
Mĩ thuật là môn học của “thị giác”. Thông qua “thị giác” sẽ giúp HS “tri
giác” được đối tượng một cách toàn vẹn nhất. Chính vì vậy trong tất cả các bài
học trong chương trình mĩ thuật đều phải cần đến các giáo cụ trực quan như:
tranh, ảnh, vật mẫu, máy chiếu...và có khi là cả khung cảnh xung quanh các em
(vẽ ngoài trời).
Do vậy việc sử dụng ĐDDH trong từng phân môn rất phong phú và đa
dạng, với mỗi một bài học để đạt hiệu quả cao thì người GV phải sử dụng rất
nhiều tranh ảnh và đồ dùng khác nhau. Việc sưu tầm và làm đồ dùng tự tạo sẽ làm
phong phú thêm kho đồ dùng của mỗi GV, qua đó tiết dạy sẽ trở nên trực quan và
sinh động hơn, gợi cho HS nhiều cảm xúc cũng như các lựa chọn nội dung thể
hiện cho mình.
3. Sử dụng ĐDDH trong từng phân môn cụ thể:
a. phân môn vẽ tranh
Với phân môn này GV chủ yếu là gợi mở nội dung đề tài cho HS. Vì vậy
ĐDDH chủ yếu mang tính giới thiệu về các hình ảnh, nội dung của chủ đề cần thể
hiện. Do đó GV sử dụng ĐDDH cần nhấn mạnh khai thác về chủ đề, tư tưởng
cách thể hiện các chủ đê khác nhau trong cùng một đề tài. Mối liên quan giữa
hình ảnh nhóm chính, nhóm phụm. Màu sắc đậm nhạt trên tổng thể bức tranh.
Khi sử dụng ĐDDH với phân môn này GV nên giới thiệu một số chủ đề
trọng tâm, tránh giới thiệu tràn lan nhiều chủ đề sẽ làm cho HS khó khăn trong
việc lựa chọn chủ đề cho mình. Nên hướng HS vào những chủ đề gần gũi với HS,
địa phương mình.
9

GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

* Dạy các bài lý thuyết, giáo viên cần chú ý:
Cần có minh họa đẹp, phong phú để làm rõ lý luận về bố cục, các hình
thức bố cục, các hình thức bố cục. Giới thiệu cho học sinh nhiều tranh đẹp của các
họa sĩ, của thiếu nhi.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ ở phần tìm và chọn nội dung đề tài, để
tránh có những học sinh vẽ lạc đề tài.
Giáo viên cần có những tranh, ảnh đặc trưng về đề tài nào đó để học sinh
cảm nhận và hiểu được cách tìm hình ảnh khi áp dụng vào bài vẽ tranh.
VD: Khi vẽ tranh về ĐỀ TÀI NGÀY TẾT MÙA XUÂN. Cần có những
hình ảnh đặc trưng từng vùng miền như: Miền Nam phải có hoa mai, miền Bắc
phải có hình ảnh hoa mai. Nếu không có những hình ảnh này thì tranh vẽ có thể là
đề tài khác chưa chắc là đề tài NGÀY TẾT MÙA XUÂN…..
Cố gắng giới thiệu các chất liệu, cách sử dụng và vẻ đẹp của chúng qua
các tác phẩm tiêu biểu.
* Dạy các bài thực hành:
Nghiên cứu kỹ chương trình để có kế hoạch hướng dẫn, đánh giá (có trọng
tâm). Từng nội dung ở một thời gian nhất định. Ví dụ: thời gian này chú ý hơn về
bố cục mảng, sau đến cách xây dựng hình tượng, cuối cùng là cách vẽ màu.
Không hướng dẫn chung chung cho tất cả, cần có ý định về từng loại học
sinh: Giỏi, khá, trung bình, yếu, kém.
* Hướng dẫn học sinh làm bài theo quy định:
Hướng dẫn học sinh khai thác đề tài, giúp các em hiểu sâu hơn về đề tài,
tìm ra được các cách thể hiện (cách vẽ) khác nhau, tìm ra những ý hay, dí dỏm cho
mình. Cố gắng tìm được tranh đẹp, điển hình cho đề tài để minh họa.

Hướng dẫn học sinh cách vẽ, cố gắng chỉ ra những tranh minh họa về:
cách vẽ khác nhau ở một đề tài, cách sắp xếp các mảng chính, phụ. Dựa vào tranh,
giáo viên nên vẽ phác ra giấy hay lên bảng để học sinh nhận ra các mảng chính
(bố cục ban đầu của tranh). Sau đó mới xây dựng hình tượng theo mảng, cuối
cùng là cách vẽ màu. Tách từng “công đoạn” ở một bức tranh đã hoàn thành ra
như trên giúp học sinh hiểu được cách vẽ tranh. Nếu như giới thiệu nội dung rồi
mới chỉ vào tranh, e rằng học sinh không tập trung chú ý, không nhận ra cách tiến
hành bài vẽ tranh đề tài (đâu là mảng, đâu là hình trong mảng).
Hướng dẫn học sinh làm bài, giáo viên cố gắng làm việc với nhiều học
sinh, giúp các em tìm cách thể hiện, bố cục mảng, vẽ hình và tìm màu. Dùng
phương pháp gợi mở sẽ đạt hiệu quả hơn cả.
Nếu ở trên lớp, giáo viên hướng dẫn kỹ, cung cấp nhiều tư liệu thì về nhà,
học sinh sẽ tiếp tục làm bài có kết quả, hào hứng hơn. Đồng thời, còn tạo đà cho
các em có thể tự vẽ tranh về đề tài mà mình thích thú.

10
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Ngoài ra, giáo viên cần chú ý cho học sinh biết một số điều trong quá
trình vẽ tranh.
- Vẽ tranh không cần kẻ khung hình tranh. Nếu không khéo sẻ làm mất vẽ
đẹp của tranh. Mất tác dụng.
- Trong tranh, tất cả các hình ảnh đều có màu, không nên chừa trắng nền
giấy (bài vẽ của học sinh trên giấy A3, A4).
- Hình ảnh trong tranh phải to, thể hiện được nội dung đề tài.
- Hình ảnh trong tranh không nên viền nét đen bằng bút lông khi đang vẽ

chất liệu màu bột hay màu sáp. (thông thường học sinh thường sử dụng bút lông
đen để viền hình ảnh).
- Màu sắc trong tranh rất quan trọng nó quyết định bài có trọng tâm hay
không có trọng tâm. Do đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh vẽ màu giữa hình
chính và hình phụ hay hình nền phải tương phản, phải khác màu không nên trùng
màu. Như vậy mới nổi bật được trọng tâm bài vẽ.
b. Phân môn Vẽ theo mẫu:
Ở phân môn này có 2 dạng chính:
+ Mẫu mô phỏng: Vẽ theo trí nhớ
+ Mẫu thực: Vẽ theo mẫu được bày sẵn trước mặt.
Do vậy việc sử dụng ĐDDH ở phân môn này rất quan trọng vì HS sẽ tìm
hiểu cấu trúc của mẫu, qua đó tìm ra hình dáng, đặc điểm và tỉ lệ của mẫu. Việc
sử dụng ĐDDH hướng HS quan sát từ tổng thể tới chi tiết bám sát vật mẫu khi thể
hiện trên bài vẽ của mình.
Với khả năng của HS trung học cơ sở thì yêu cầu cần đạt của phân môn
này là vẽ hình cân đối với khuôn khổ giấy và vẽ được nét đặc trưng của vật mẫu,
vẽ được 3 độ đậm nhạt chính.
Giáo viên phải biết cách chọn vật mẫu cho phù hợp với từng đối tượng
học sinh.
Vật mẫu phải dơn giản về màu sắc không họa tiết, màu trắng là tốt nhất.
để học sinh dể dàng trong việc tìm độ đậm nhạt của vật mẫu.
Vật mẫu đơn giản về hình dáng. Đừng nên chọn mẩu có những đường
sóng tròn trên thân như ở cái CA.
Nếu là hai vật mẫu phải chọn hai mẫu có sự khác nhau về hình dáng hạn
chế những mẫu gần giống nhau về cách vẽ và cách đi đậm nhạt sáng tối. Nhằm
tạo cho học sinh phân biệt được sự khác nhau về hình dáng và cách thể hiện, tạo
được một bài vẽ theo mẫu đẹp về sự nhịp điệu về hình dáng cũng như đường nét.
Ví dụ: Bài vẽ theo mẫu “MẪU CÓ HAI ĐỒ VẬT” giáo viên nên chọn
một mẫu vật có dạng là HÌNH TRỤ và một mẫu có dang là HÌNH HỘP thay vì
chọn CÁI LY vá CAI BÁT.

...
11
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

c. Phân môn Vẽ trang trí:
Sử dụng ĐDDH khai thác triệt để về: hoạ tiết, cách sắp xếp mảng, màu
sắc, tính ứng dụng trong thực tế của chúng
Khai thác độ đậm nhạt của màu và nhấn mạnh kiến thức vẽ màu ở hoạ tiết
trọng tâm. Khai thác sự thay đổi của các mảng vì đây chính là sự cần thiết để sáng
tạo ra nhiều bài trang trí đẹp
Cho học sinh thấy được bài trang trí cần vẽ tỉ mỉ, cẩn thận và cân đối.
Giáo viên cho học sinh thấy được sự phong phú về kiểu dáng, màu sắc và
họa tiết trong các bài học.
Phân biệt giữa LỌ HOA và CHẬU CẢNH như trong bài tạo dáng và trang
trí LỌ HOA, tạo dáng và trang trí CHẬU CẢNH.
Phân biệt giữ ĐĨA TRÒN và HÌNH TRÒN như trong bài tạo dáng và trang
trí cái ĐĨA.
....
d. Phân môn Thường thức Mĩ thuật:
Đây là một phân môn môn người GV có thể phải sử dụng ĐDDH suôt cả
tiết học. ở phân môn này đòi hỏi phải khai thác triệt để ĐDDH để HS nhận ra cái
đẹp, cái hay của tác phẩm.
Nên sưu tầm nhiều ĐDDH phục vụ cho bài dạy ở phân môn này để HS có
thể so sánh và rút ra kết luận đúng cho bài học
Đây là phân môn mang tổng hoà kiến thức của các phân môn trên,vì vậy
GV phải khai thác hết về hình ảnh, bố cục, nội dung, màu sắc...

Giáo viên phài biết chọn lọc hình ảnh minh họa phù hợp cho từng gian
đoạn từng tác giả cụ thể. Tránh chọn hình ảnh sai sẽ không chính xác khoa học.
Hình ảnh minh họa phải rỏ, học sinh dễ dàng trong quan sat và nhận xét.
Hình ảnh minh họa tỉ lệ không quá lớn, lớn hơn kích cở của tranh thật. Vì
có những tranh quá lớn sẽ không đẹp về bố cục củng như hình mảng đường nét và
màu sắt. Sẽ mất tác dụng.
4 Sự dụng kỷ thuật dạy - học:
Tùy theo từng phân môn mà áp dụng các kỷ thuật khác nhau
Ta có thể cho học sinh chơi trò sắp xếp tranh ( sắp xếp bố cục) ,thông qua
đó học sinh có thể nhận biết cách sắp xếp bố cục như thế nào là hợp lý, là đẹp để
áp dụng vào bài học. Áp dụng cho cả ba phân môn: vẽ trang trí, vẽ theo mẫu, vẽ
tranh.
Các trò chơi mang tính chất củng cố kiến thức ở cuối bài dạy.
Các trò chơi mang tính hệ thống tìm hiểu kiến thức: ví dụ như ở bài“ Ước
mơ của em“ ta có thể cho các em chia đội chơi trò chơi thi nhau viết ra những ước
mơ của mình... thông qua đó giúp các em tìm và chọn ra nhiều nội dung đề tài.
Các trò chơi nhanh mắt,phát hiện nhanh, quan sát nhanh... Rèn luyện cho
học sinh kĩ năng quan sát nhận xét...
12
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Các trò chơi như: ô chữ, tìm mảnh ghép... dùng cho các bài dạy thường
thức mĩ thuật( dùng giới thiệu bài hoặc củng cố kiến thức cuối bài.)
Một số ví dụ về các trò chơi trong tiết học mĩ thuật:
Các trò chơi sắp xếp:
Giáo viên chuẩn bị sẵn các bộ tranh (phân môn vẽ tranh); các bộ họa tiết

trang trí( phân môn vẽ trang trí); các hình ảnh mẫu vật ( gần giống hoặc tương
đương với mẫu vật thât). Ta chia lớp thành 2 hoặc 4 nhóm( tùy theo điều kiện từng
lớp), cho đại diện các nhóm (khoảng 1 hoặc 2 HS) thi sắp xếp bố cục, các
bước,...., sao cho hợp lý trong bài.thời gian cho trò chơi tối đa không quá 1 phút.
Kết thúc trò chơi , GV cho HS kiểm chứng kết quả thông qua nhận xét và xem bài
hoàn thành đúng của mẫu trò chơi.
Kết quả của trò chơi đánh giá được lượng kiến thức HS tiếp nhận trong tiết
học. Khi thực hành HS sẽ dễ dàng tránh được các lỗi trong quá trình sắp xếp bố
cục, quá trình vẽ bài.
V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
- Có 4/6 học sinh đạt giải vòng huyện trong hội thi“ KHÉO TAY KĨ THUẬT
MỸ THUẬT“
- Khảo sát trên toàn trường khối 6, 7, 8, 9 “504 HS”
- Thời gian khảo sát là trong các tiết mĩ thuật ở học kì I năm học 2011 - 2012.
- Kết quả thu được như sau:
Kết quả
khảo sát
Sử dụng ĐDDH
Chưa đẹp,
chưa đặc trưng
Có sử dụng
ĐDDH đẹp,
đặc trưng

Hoàn thành sản phẩm tốt
Số lượng
Tỉ lệ

Hoàn thành sản phẩm
Số lượng

Tỉ lệ

215

42.66 %

289

57.34 %

354

70.24 %

150

29.76 %

13
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

C. Kết luận
“Nghệ thuật là sự sáng tạo ra những sản phẩm vật thể hoặc phi vật thể
chứa
đựng những giá trị lớn về tư tưởng - thẩm mỹ, mang tính chất văn hóa làm rung
động cảm xúc, tư tưởng tình cảm cho người thưởng thức.”

Do vậy “cái đẹp” là một phạm trù rất đa dạng và rộng lớn, nó mang tính
thời sự, tính dân tộc và tính lịch sử. Chính vì vậy, dạy cho học sinh cảm nhận
được “cá đẹp” là một điều vô cùng khó khăn. Vì “cái đẹp” của các em là cái
đẹp thông qua con mắt của trẻ thơ, sự áp đặt của người lớn về “cái đẹp” đôi khi
sẽ “giết chết” sự sáng tạo hồn nhiên, ngây thơ trong các em.
Dạy học là khó, dạy nghệ thuật lại càng khó hơn, cần phải mang tính nghệ
thuật cao, dạy cho các em thấy được “cái đẹp” nhưng lại phải phù hợp với lứa
tuổi của các em. Phải thấy được “cái nhìn” của trẻ thơ trong mỗi bài làm của các
em. Dạy học Mĩ thuật không nhằm đào tạo HS trở thành hoạ sĩ hay người làm
nghề mĩ thuật, mà cái chính là dạy cho các em “thẩm mĩ”, dạy cho các em nhận
biết được “cái đẹp” trong các tác phẩm nghệ thuật cũng như trong cuộc sống
hằng ngày.
Việc khơi gợi những cảm xúc, hứng thú cho các em vô cùng quan trọng
trong mỗi bài học. Nó chính là khởi nguồn cho sự sáng tạo và nó cũng là liều
thuốc kích thích giúp các em húng thú học tập và làm bài thực hành. Do vậy, sử
dụng ĐDDH đúng cách và hợp lí sẽ đóng vai trò quyết định sự thành công của
tiết dạy Mĩ thuật ở trường trung học cơ sở.
Kiến nghị đề xuất:
Với tầm quan trọng của ĐDDH trong môn Mĩ thuật. Rất mong các cấp
quản lí cung cấp, hỗ trợ đầy đủ ĐDDH giúp GV lên lớp hiệu quả và đạt chất
lượng cao.
Phong Mỹ, Ngày 08 tháng 3 năm 2012
Người viết
Giáo viên dạy Mỹ Thuật

Nguyễn Thanh Đạt
14
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng



SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

PHỤ LỤC
Tranh ngày tết mùa xuân:

Vẽ theo mẫu

15
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Tạo dáng trang trí lọ hoa:

16
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Tạo dáng trang trí chậu cãnh:

17
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng



SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Trang trí Hình tròn:

18
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

Trang trí Đĩa tròn:

19
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng


SKKN: Sử dụng và kết hợp linh hoạt giửa đồ dùng dạy học và kĩ thuật dạy học nhằm tạo hứng thú học tập
môn mỹ thuật ở học sinh THCS

20
GV: Nguyễn Thanh Đạt – Trường THCS Nguyễn Văn Đừng



×