Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn tăng cường hướng dẫn học sinh tự học môn ngữ văn lớp 8 trường trung học cơ sở nguyễn văn đừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.51 KB, 16 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH

TRƯỜNG THCS NGUYỄN VĂN ĐỪNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TĂNG CƯỜNG HƯỚNG DẪN
HỌC SINH TỰ HỌC MÔN NGỮ VĂN
LỚP 8 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
NGUYỄN VĂN ĐỪNG

Người thực hiện Trần Thị Bé Một
Giáo viên Tổ Văn – GDCD
Trường THCS Nguyễn Văn Đừng

1


MỤC LỤC

2

Trang


Trang phụ bìa
Lời cam đoan
PHẦN MỞ ĐẦU

1


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

3
3

1. Cơ cở lý luận
2. Cơ sở thực tiễn
Chương 2. Thực trạng, giải pháp

3

1. Thực trạng vấn đề

3

2. Một số giải pháp đã thực hiện trong thời gian qua

4

2.1.Giáo dục học sinh ý thức học tập

4

2.2. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà

4

2.2.1. Những điều kiện cần thiết để có thể tự học ở nhà


4

2.2.2. Hướng dẫn thực hiện

6

2.2.2.1. Hướng dẫn hoạt động học của trò
2.2.2.2. Cách thức thực hiện của giáo viên
2.3. Một số yêu cầu khi thực hiện các giải pháp

8

2.3.1. Tranh thủ sự hỗ trợ của Lãnh đạo trường
2.3.2. Thực hiện từng bước, tránh cầu toàn
2.3.3. Giáo viên cần khích lệ, động viên khen kịp thời
2.3.4. Nghệ thuật sư phạm
3. Kết quả đạt được trong năm qua do thực hiện đề tài

9

PHẦN KẾT LUẬN

10

I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác

10

II. Khả năng áp dụng


10

III. Kinh nghiệm đã thực hiện trong thời gian qua

10

IV. Đề xuất, kiến nghị

11

Đối với giáo viên chủ nhiệm
Đối với tổ bộ môn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI CAM ĐOAN
3


Đề tài là kết quả quá trình giảng dạy tại trường THCS Nguyễn Văn
Đừng.
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
được nêu trong đề tài là trung thực, có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả

Trần Thị Bé Một

PHẦN MỞ ĐẦU
4



1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, việc cải tiến phương pháp dạy học với
phương châm “ lấy học sinh làm trung tâm ” là vấn đề đang được xã hội
quan tâm. Làm thế nào để phát huy tốt phương châm trên ?
Muốn học sinh yêu thích môn học của mình là điều rất khó nói. Nhưng
chúng ta không thể không nói đến cái hay của môn học đó đặc biệt là môn
Ngữ văn đầy tình cảm, hình ảnh màu sắc và âm điệu…Song môn Ngữ văn
là môn học rất gần gũi học sinh, chúng ta cần phải làm như thế nào dể
thuyết phục người khác tin điều đó là đúng và đồng thời phát huy hơn nữa
tính tích cực, vai trò chủ động, sáng tạo của học sinh?
Thực tế cho thấy học sinh còn gặp nhiều khó khăn trong việc hình
thành và rèn luyện kỹ năng nói và viết. Đây là nguyên nhân chính ảnh
hưởng đến chất lượng bài làm văn. Có thể nói, việc khắc phục nhược điểm
này là biện pháp cần thiết góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn trong
nhà trường. Do đó, bản thân nhận thấy cần phát huy tính tích cực, tự học
của học sinh ở nhà bằng cách tăng cường giao bài tập ở nhà (với những kiến
thức thật cơ bản) dưới sự hướng dẫn và kiểm tra của giáo viên thì mới có
thể làm tăng kết quả học tập của học sinh .
2. Mục đích của đề tài
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nói chung và chất lượng
bộ môn Ngữ văn nói riêng, cần có một số giải pháp cụ thể nhằm giúp học
sinh học tốt môn Ngữ văn, thiết nghĩ đề tài “Tăng cường hướng dẫn học
sinh tự học môn Ngữ Văn lớp 8 trường trung học cơ sở Nguyễn Văn Đừng”
góp phần nâng chất lượng bộ môn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 8 nên phạm vi nghiên cứu
của đề tài này là kỹ năng thực hành của học sinh các lớp 8a1, 8a3.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài này là khảo sát, điều tra, nghiên
cứu và kiểm tra từ thực tiễn. Từ đó điều chỉnh, uốn nắn, giúp học sinh dần

rèn luyện ý thức tự chuẩn bị bài và kỹ năng thực hành.
5. Cấu trúc đề tài
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục tiêu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Cấu trúc đề tài
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
5


Cơ sở lý luận
Cơ sở thực tiễn
Chương 2. Thực trạng, biện pháp, giải pháp
Thực trạng vấn đề
Một số giải pháp đã thực hiện trong thời gian qua
Kết quả đạt được trong năm qua khi thực hiện đề tài
PHẦN KẾT LUẬN
6. Kế hoạch nghiên cứu
- Chọn đề tài, lập đề cương.
- Thu thập tư liệu, nghiên cứu các vấn đề lý luận.
- Thâm nhập, khảo sát thực tế và hoàn thành đề tài.

PHẦN NỘI DUNG
6


Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

1. Cơ cở lý luận
Theo định hướng đổi mới chương trình giáo dục Trung học cơ sở
(THCS), các môn học đều có sự thay đổi, trong đó môn Ngữ văn có nhiều
thay đổi nhất. Điều này thể hiện trước hết ở cách gọi tên môn học. Điểm nổi
bật trong sách giáo khoa Ngữ văn THCS là tinh thần tích hợp kiến thức, kỹ
năng của ba phân môn Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn trong từng bài. Điều
này vừa làm cho sách tinh gọn vừa tạo điều kiện phát triển đồng thời 4 kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết. Vì vậy rèn luyện cho học sinh cấp THCS bản lĩnh
tự tin, kỹ năng diễn đạt trong tạo lập văn bản là vấn đề rất quan trọng trong
việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, đồng thời
giúp học sinh hình thành kỹ năng tư duy, độc lập, sáng tạo – kỹ năng cực kỳ
quan trọng đối với học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn
Phần lớn học sinh của trường THCS Nguyễn Văn Đừng là học sinh
thuộc vùng ven của Thành phố Cao Lãnh. Gia đình các em đa số còn gặp
nhiều khó khăn trong cuộc sống nên các em ít có cơ hội tiếp xúc nhiều với
sách báo, tài liệu tham khảo. Một bộ phận học sinh chưa yêu thích môn học
Ngữ văn do mất căn bản nên ít tập trung, ý thức học tập bộ môn chưa cao;
một bộ phận còn ham chơi lơ là, chưa có nhận thức đúng về mục đích học
tập. Cha mẹ học sinh chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em
mình, chưa phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục đạo đức học sinh…
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng học tập nói
chung, chất lượng bộ môn Ngữ văn nói riêng. Thiết nghĩ đây là đề tài
nghiên cứu rất chính đáng nó đáp ứng nhu cầu rất cần thiết cho mục tiêu
giáo dục trong thời đại hiện nay.

Chương 2. Thực trạng, giải pháp
1. Thực trạng vấn đề
Kết quả kiểm tra chất lượng đầu năm môn Ngữ văn đối với lớp 8 tỉ lệ
học sinh yếu kém rất cao (trên 30%). Qua việc giảng dạy trên lớp cho thấy

học sinh vận dụng kiến thức đã học vào thực hành còn hạn chế. Thế nhưng
chương trình sách giáo khoa thì đòi hỏi phải rèn luyện cho học sinh các kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết. Riêng phần tiếng Việt và phần Văn được kết hợp
vận dụng vào Tập làm văn (tạo lập văn bản), vì thế để củng cố phần ngữ
pháp cơ bản cho học sinh thì giáo viên cần có biện pháp cũng như thời gian
thích hợp để giúp cho học sinh dần dần lấy lại căn bản, các em tự tin hơn
khi nói trước lớp, trong khi làm bài kiểm tra và làm bài ở các kì kiểm tra
học kỳ, tuyển sinh…
Đối với những học sinh khá giỏi thì năng lực nói trước lớp có khá hơn
những học sinh trung bình, yếu, vì:
7


+ Ý thức học tập cao hơn (chuẩn bị bài trước khi đến lớp, tích cực học
tập, giơ tay phát biểu nhận xét bạn )
+ Muốn tự khẳng định mình trước lớp ( các em vốn đã tích cực, dạn
dĩnh )
+ Không muốn bỏ qua cơ hội để ghi điểm: các em luôn có ý thức tốt
trong việc thi đua học tập.
- Học sinh được sống trong môi trường giao tiếp thuận lợi thì khi
đến trường việc giao tiếp trong học tập của các em sẽ dễ dàng hơn những
học sinh không có điều kiện thuận lợi từ phía gia đình: các em rất nhút nhát,
ngại phát biểu, ngại nói chuyện … Những việc này cũng ảnh hưởng đến khả
năng tiếp thu bài học.
Vậy làm thế nào giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn?
2. Một số giải pháp đã thực hiện trong thời gian qua
2.1.Giáo dục học sinh ý thức học tập
Ý thức học tập góp phần tạo nên động cơ học tập, vì vậy dù có vận
dụng các giải pháp tốt đến đâu nếu học sinh không có động cơ học tập trong
sáng, tích cực học tập sẽ không hợp tác tốt với giáo viên thực hiện các giải

pháp. Do đó, giáo viên cần tăng cường giáo dục ý thức học tập cho học
sinh.
Ngoài ra, giáo viên bộ môn cần giáo dục cụ thể mục tiêu cần đạt, kỹ
năng, thái độ học tập với đặc thù bộ môn cụ thể cho học sinh quán triệt
trước khi tham gia học tập bộ môn. Ngay từ đầu năm học, giáo viên cần
giáo dục học sinh ý thức học tập tích cực và giúp học sinh bước đầu nhận
thức được tầm quan trọng của bộ môn Ngữ văn nói chung, việc giao nhiệm
vụ về nhà nói riêng. Thao tác này tạo đà rất quan trọng trong việc tiếp thu
bài mới trên lớp.
Khi học sinh đã có ý thức tốt thì dù học trên lớp hay ở nhà cũng đều
tích cực vận dụng những cách thức học tập do giáo viên hướng dẫn
2.2. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà
2.2.1. Những điều kiện cần thiết để có thể tự học ở nhà
- Chuẩn bị bài
Chuẩn bị bài là khâu quan trọng để học sinh có thể tự tin tiếp thu tri
thức mới. Điều này ai cũng hiểu, nhưng xem ra tổ chức hướng dẫn cho học
sinh thực hiện còn quá khiêm tốn. Việc tự học ảnh hưởng lớn vào công việc
chuẩn bị bài. Nếu người học chuẩn bị bài tốt-đồng nghĩa với việc đã nắm
được gần 30% kiến thức bài học, vaiò lớp cùng thầy bạn khai thác tiếp để
khắc ghi tri thức mới. Điều này làm tiền đề cho việc học bài chu kỳ sau dễ
dàng nhanh chóng hơn. Vì vậy, người dạy cần quan tâm đúng mức đến
công việc chuẩn bị bài cho người học.
- Giải bài tập
Giải bài tập vừa là nội dung công việc tự học, vừa là tiền đề giải quyết
mâu thuẩn nhận thức giữa cái đã biết và cái chưa biết, hình thành quá trình
dạy-học tiếp theo. Quá trình giải bài tập người dạy cần có hướng dẫn cụ thể,
không phải bài tập nào học sinh cũng giải được hết (loại trừ bài tập nâng
cao). Người dạy yêu cầu người học thực hiện công việc giải bài tập trong
8



quá trình tự học để tạo thành nếp học tập tốt. Cần hết sức tránh yêu cầu giải
hết bài tập “phải giải hết, đúng sai tính sau” một khuynh hướng cực đoan
trong dạy học chỉ gây ra tâm lý ức chế chán học cho học sinh mà chưa nhìn
nhận được nhu cầu, tâm, lý hứng thú học tập của từng cá thể.
- Học bài cũ
Học bài cũ là nội dung trọng tâm trong việc tự học. Người học cần tạo
thành nếp biết tực học bài cũ trên cơ sở tri thức đã thu nhận được. Bài cũ là
cơ sở là nền tảng khoa học để tiếp cận tri thức mới. Để có thể tự học tốt
người học phải biết tự học, người dạy cần hướng dẫn cách thức tự học bài
cũ. Học bài cũ không có nghĩa là học thuộc lòng, học bài cũ với nhiều hình
thức phong phú, sinh động.
- Chuẩn bị những vấn đề cần trao đổi với thầy, cô trên lớp
Đây là bước khá khó trong quá trình tự học của học sinh. Đã có không
ít học sinh dấu dốt với nhiều lý do khác nhau, dẫn đền mất căn bản. Người
dạy cần kiên trì hướng dẫn người học biết thắc mắc với thầy, cô. Không
phải ngẫu nhiên mà bao đời nay ông cha ta căn dặn “học hỏi”. Học mà
không hỏi thì kết quả không thể nào cao được. Muốn cho học sinh hỏi thì
người dạy cần hướng dẫn, tạo điều kiện cho học sinh dám hỏi.
Để khuyến khích học sinh thực hiện các yêu cầu tối thiểu trên người
dạy cần kiểm tra đánh giá từng bước, có động viên khen thưởng kịp thời.
Để đánh giá quá trình tự học của học sinh giáo viên cần quan tâm vào việc
kiểm tra vở soạn bài của học sinh một cách thường xuyên song song với
việc kiểm tra bài cũ và nên ghi điểm khuyến khích đối với học sinh chuẩn
bị tự học tốt.
Ví dụ: Học sinh soạn bài mới đầy đủ, cẩn thận được cộng thêm 1 đ bên
cạnh 9 đ trả bài cũ như công văn đã qui định.Tất cả học sinh đều thích đạt
được điểm 10. Tất yếu, các em sẽ cố gắng nỗ lực.
Thao tác soạn bài mới ở nhà dần sẽ trở thành thói quen của học sinh,
quá trình giáo dục sẽ trở thành quá trình tự giáo dục ở bản thân học sinh.

Hơn nữa, việc chuẩn bị bài ở nhà sẽ giúp học sinh lĩnh hội bài mới một
cách nhanh chóng, dễ hiểu. Giáo viên cũng có dịp mở rộng, đào sâu kiến
thức giúp học sinh nhận thức bài học một cách nhanh – sâu – rộng và chắc.
Thiết nghĩ, để học sinh có được thói quen tốt này, giáo viên nên rèn
luyện cho học sinh ngay từ khi các em mới vào lớp 6 và duy trì thường
xuyên. Giáo viên có thể gợi ý khung chung cho việc chuẩn bị bài của học
sinh.
Từ khung chung nói trên, giáo viên hướng dẫn học sinh về nhà chuẩn
bị bài một cách cẩn thận như: cách học tập ở nhà, cách soạn bài, chuẩn bị
các bài tập tình huống, câu hỏi trắc nghiệm trước khi đến lớp học bài mới.
Trên lớp cần tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động tích cực xây dựng
bài, tổ chức cho giải các ô chữ trò chơi trong phân môn Tiếng việt, các văn
bản bài học; cần dành thời gian để học sinh thảo luận nhóm để hình thành
kiến thức bài học trên cơ sở đã chuẩn bị, “Lấy học sinh làm trung tâm, giáo
viên chỉ là người dẫn dắt, hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức ”.
9


Ví dụ ở lớp 8, tiết 83, bài “Thuyết minh một danh lam thắng cảnh”:
Vở ghi của học sinh sẽ theo trình tự:
Tiết 83:

THUYẾT MINH VỀ MỘT DANH LAM THẮNG CẢNH

A. PHẦN TỰ HỌC
1.Học bài cũ: đã thuộc, nắm nội dung
2. Đọc bài mới 2 lần
3. Trả lời câu hỏi phần bài học
Câu hỏi 1:Văn bản giới thiệu về Hồ Hoàn Kiếm và Đề Ngọc Sơn. Đây
là hai di tích nằm giữa Thủ đô Hà Nội.

Câu hỏi 2: Muốn viết được một danh lam thắng cảnh như thế cần phải
có kiến thức về danh lam thắng cảnh đó về vị trí, diện tích, quang cảnh thiên
nhiên xung quanh, nét đặc biệt của di tích.
Câu hỏi 3: Muốn có những tri thức trên cần phải đọc sách, tra cứu,
quan sát, hỏi người có kinh nghiệm và có hiểu biết về hồ Hoàn Kiếm và đền
Ngọc Sơn.
Câu hỏi 4: bài viết thiếu phần mở bài.
Câu hỏi 5: phương pháp chủ yếu trong bài là nêu định nghĩa, giải thích.
4. Trả lời câu hỏi phần luyện tập
Câu hỏi 1
Câu hỏi 2
5.Đồ dùng chuẩn bị: tranh anh sưu tầm về hồ Gươm và đền Ngọc Sơn.
6. Những thắc mắc trên lớp
Hỏi thêm giáo viên câu hỏi 4, phần bài học.
Hồ Hoàn Kiếm sao gọi là Hồ Gươm? Khi nào dùng tên nào?
B. PHẦN HỌC TRÊN LỚP
(Nội dung giáo viên hướng dẫn tiếp cận kiến thức bài mới)
PHẦN HƯỚNG DẪN TỰ HỌC
(Học sinh ghi trực tiếp vào vở)
Để học sinh chuẩn bị phần tự học theo mục đích nói trên, sau khi dạy
xong tiết 82, giáo viên cần dành từ 5 đến 7 phút để hướng dẫn phần tự học
của tiết 83. (yêu cầu các em ghi ngay sau tiết 82). Ngoài việc học bài cũ các
em còn phải chuẩn bị bài mới, do vậy giáo viên cần gợi ý trước đối với câu
hỏi khó vừa nhằm động viên ý thức tự học vừa tạo sự tự tin cho học sinh.
2.2.2. Hướng dẫn thực hiện
2.2.2.1. Hướng dẫn hoạt động học của trò (ghi chép)
Để thực hiện chủ trương của ngành về việc chống “đọc chép” người
giáo viên cần hướng dẫn cụ thể cho học sinh cách thức ghi chép bài tạo điều
kiện cho việc tự học ở nhà. Trong năm qua chúng tôi đã tiến hành hướng
dẫn cho học sinh tập ghi cụ thể như sau:

Tiết…. Bài:………………
A. Phần tự học ở nhà
10


1.Học bài tiết trước (ghi rõ thuộc, chưa thuộc-lý do chưa thuộc), làm
bài tập ( nếu có)
2.Đọc bài mới (ghi rõ mấy lượt)
3.Trả lời các câu hỏi ở sách giáo khoa
Câu 1 trang….SGK: (Ghi nội dung trả lời)
Câu 2 trang….SGK: (Ghi nội dung trả lời)
Câu n trang….SGK: (Ghi nội dung trả lời)
4.Làm bài tập phần luyện tập
5.Các thiết bị, đồ dùng chuẩn bị cho tiết học
6. Những thắc mắc trên lớp (ghi rõ nội dung sẽ hỏi giáo viên trên lớp)
B. Phần học tập trên lớp (ghi nội dung giáo viên hướng dẫn trên lớp)
Với những nội dung ghi chép như trên ít nhiều tạo điều kiện cho học
sinh có nội dung học tập ở nhà. Nếu như trước đây cuối tiết giáo viên chỉ
phát khẩu lệnh “về nhà học bài, chuẩn bị bài” sẽ làm cho học sinh lúng
túng, chưa biết phải tự học thế nào cho có hiệu quả ngoài việc đọc thuộc
lòng bài cũ.
Với cấu trúc mới của nội dung ghi chép không chỉ giới thiệu những nội
dung cần học ở nhà mà còn mở ra cơ hội cho học sinh biết cách tự học: soạn
bài, nêu những vấn đề chưa hiểu mai vào lớp hỏi thầy, cô giáo, tích cực làm
đồ dùng mẫu vật cho tiết học tiếp theo, ....một khối lượng công việc cụ thể,
rõ ràng giúp các em biết tự học ở nhà thế nào, học những gì,.....
2.2.2.2. Cách thức thực hiện của giáo viên
Một khi đã có nội dung để học tập ở nhà cho học sinh, vai trò hướng
dẫn của thầy, cô giáo là hết sức quan trọng. Những điểm mới về tự học ở
nhà của học sinh cơ bản là: soạn bài, nêu những vấn đề chưa hiểu mai vào

lớp hỏi thầy, cô giáo, tích cực làm đồ dùng mẫu vật cho tiết học tiếp theo.
Nếu nói suôn như thế thì học sinh cũng khó học tập ở nhà đạt hiệu quả.
Người dạy cần hướng dẫn chi tiết cho học sinh thực hiện. Ví dụ:
- Về soạn bài, để việc soạn bài có hiệu quả người dạy cần hướng dẫn
cho học sinh đọc bài một cách cụ thể, có cách thức thực hiện:
+ Cách đọc bài với đặc thù bộ môn: (đọc to, đọc thầm, đọc chậm có
ghi nhớ, liên tưởng, tưởng tượng)
+ Trả lời câu hỏi tìm hiểu bài: để trả lời tốt các câu hỏi người dạy cần
hướng dẫn học sinh tìm hiểu các kiến thức liên quan. Những kiến thức này
thường gặp chủ yếu trong bài đọc, tìm hiểu những tài liệu có liên quan, tìm
trên mạng qua các đị chỉ như: google, www. tư liệu, www.tri thức, hỏi
người có tuổi về những câu chuyện dân gian, thơ ca, hò vè của địa phương
liên quan,....
+ Làm đồ dùng mẫu vật: cần hướng dẫn các em biết các quan sát đồ
dùng, mẫu vật từ chi tiết cụ thể đến các cơ quan liên kết, quan sát theo qui
luật nhìn của mắt,...nếu đồ dùng phức tạp cần có sự tham gia của nhiều
người thì giáo viên cần tổ chức nhóm cho học sinh thực hiện. Điều quan
trọng là xác định đồ dùng này dùng khi nào? có tác dụng gì? Điều này góp
phần giúp học sinh vừa làm đồ dùng vừa học tập-làm xong đồ dùng cũng là
lúc học sinh đã tiếp cận 60% kiến thức bài học.
11


+ Đặt câu hỏi với thầy, cô khi vào lớp: hoạt động này khá khó, ít xảy
ra đối với học sinh. Để tạo điều kiện cho học sinh hứng thú học tập ở nhà
người dạy cần hướng dẫn các em ghi nhận những khó khăn khi gặp phải
trong quá trình tự học để vào lớp hỏi người dạy là hết sức cần thiết. Để có
được những câu hỏi thiết thực trước hết người dạy cần giao tiếp, sinh hoạt,
đối xử với các em thật thân thiện, thật sự như người chị, người anh để các
em có thể tin tưởng trao đổi. Được giải đáp một lần sẽ kích thích các em

ham học và nghiên cứu tìm tòi, học tập chu kỳ tiếp theo.
2.3. Một số yêu cầu khi thực hiện các giải pháp
2.3.1. Tranh thủ sự hỗ trợ của Lãnh đạo trường
Với cấu trúc mới của nội dung ghi chép như trên ít nhiều tạo điều kiện
cho học sinh có nội dung học tập ở nhà. Song, vấn đề làm thay đổi nề nếp
học trước đây của học sinh nên giáo viên cần tranh thủ sự hỗ trợ của Lãnh
đạo trường.
Các bước phối hợp với Tổ chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm rất cần có
sự chỉ đạo của lãnh đạo.
2.3.2. Thực hiện từng bước, không cầu toàn
Khi thực hiện các giải pháp cần thực hiện từng bước, tránh tạo cú sốc
về tâm lý, về nền nếp học tập của học sinh. Người dạy cần nghiên cứu kỹ
các bước để vận dụng. Có thể trước hết cần thay đổi cách ghi bài cho học
sinh. Khi đã biết ghi bài theo cách trên, người dạy tiến hành bước tiếp theohướng dẫn cách chuẩn bị bài ở nhà (đọc bài, tìm tài liệu,...). Khi học sinh đã
dần quen có thề hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi với thầy, cô. Tiếp đến có
thể hướng dẫn học sinh làm đồ dùng, mẫu vật,...Xin được khẳng định lại,
trên đây là các bước thực hiện, không phải là qui trình, tùy vào hoàn cảnh
thực tiễn của từng nhà trường người dạy có thể vận dụng linh hoạt nhằm tạo
hiệu quả tốt nhất.
2.3.3. Giáo viên cần khích lệ, động viên khen kịp thời
Những lời khen kịp thời của giáo viên có tác dụng động viên, khích lệ
tinh thần không chỉ đối với những học sinh trung bình, yếu kém mà còn
khuyến khích sự sáng tạo của những học sinh khá giỏi .
Ví dụ : Em học sinh A đã có sự tiến bộ hơn lần trước rất nhiều về việc
chuẩn bị bài, tham gia xây dựng bài trên lớp, v.v… Sự nỗ lực này rất đáng
được ghi nhận và biểu dương. Thực tế cho thấy, giáo viên ghi nhận sự cố
gắng của những học sinh yếu bằng điểm số hoặc bằng những lời khen thì sẽ
động viên các em rất nhiều trong học tập. Cụ thể: các em Dương Văn
Dưỡng, Võ Việt Duy, Võ Thái Cẩm Tuyên, Nguyễn Thị Diệu lớp 8a1; Võ
Văn Nhân, Đinh Văn Tấn lớp 8a3;.... trong giờ học Ngữ văn các em phần

lớn là học sinh thụ động, sự chuẩn bị bài trước chưa thật sự đều đặn, ít xây
dựng bài. Nhưng khi các em có những câu trả lời tốt giáo viên nhận xét,
tuyên dương các em phấn khởi tham gia xây dựng bài, chuẩn bị bài, chú ý
nghe giảng hơn và có tiến bộ trong học tập bộ môn.
2.3.4. Vận dụng nghệ thuật sư phạm
12


Không phải bất kì học sinh nào cũng có chuẩn bị bài nên khâu kiểm tra
bài của giáo viên ít nhiều gây tâm lý lo sợ với học sinh. Giáo viên cần ôn
tồn tìm hiểu nguyên nhân khiến các em chưa làm bài và tùy vào thực tế mà
áp dụng “ chế tài ”. Có em thực sự gia đình gặp nhiều khó khăn, anh chị em
đông, mồ côi cha hoặc mẹ có em có hoàn cảnh gia đình khó khăn đôi lúc
cũng chưa chuẩn bị bài, cả học sinh giỏi… Đối với những trường hợp này
giáo viên cần hết sức thông cảm, chớ vội trách mắng nặng nề. Ngược lại,
những học sinh cố tình vi phạm hoặc vi phạm nhiều lần giáo viên nên
cương quyết xử lý bằng nhiều biện pháp nhắc nhở, động viên, răn đe, xử
phạt, thông báo đến giáo viên chủ nhiệm ( nếu là giáo viên bộ môn ), gửi
thư mời phụ huynh ( nếu là giáo viên chủ nhiệm ) trao đổi về tình hình học
tập của học sinh thậm chí nhờ sự hỗ trợ của Lãnh đạo trường trong trường
hợp cần thiết.
Vì vậy để rèn cho học sinh ý thức tự học, tự tin, bản lĩnh khi nói trước
đông hoặc diễn đạt lưu loát trong tạo lập văn bản là cả một “ nghệ thuật ”
của người kỹ sư tâm hồn.
3. Kết quả đạt được trong năm qua do thực hiện đề tài
Thực hiện biện pháp nêu trên và sự nỗ lực cố gắng của bản thân và học
sinh nên đến giữa học kỳ II đạt được một số kết quả đáng phấn khởi.
Đa số học sinh có ý thức chuẩn bị bài khá tốt, cụ thể :

BẢNG THỐNG KÊ HỌC SINH CHƯA CHUẨN BỊ BÀI

LỚP
8A1 (40)
8A3 (40)

ĐẦU NĂM

HỌC KỲ 1

19/40
13/40

10/40
8/40

HỌC KỲ 2
(10/3/2012)
6/40
6/40

GHI CHÚ

Kết quả học tập cũng nâng dần góp phần nâng cao chất lượng nói
chung và môn học nói riêng.
BẢNG THEO DÕI KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
LỚP

8A1
(40)
8A3
(40)


TRƯỚC TÁC
ĐỘNG
TRÊN TB
26/40

SAU TÁC ĐỘNG
GIỮA HỌC KỲ II
HỌC KỲ I
(10/3/2012)
TRÊN TB
TRÊN TB
33/40
36/40

31/40

35/40

PHẦN KẾT LUẬN
13

37/40


I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác
Xã hội phát triển đòi hỏi con người phải năng động sáng tạo, có khả
năng giải quyết những tình huống có vấn đề do cuộc sống đặt ra. Môn Ngữ
văn trong nhà trường là một trong những môn học có khả năng giúp học
sinh hình thành rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, khả năng sáng tạo

và giải quyết vấn đề. Để học tốt môn học này, ngoài việc giáo viên tạo tâm
lý hứng thú học tập giúp học sinh yêu thích và khám phá được những chức
năng của văn học thì việc hướng dẫn học sinh tự học cũng góp phần giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh.
Ngoài ra, do thời lượng giáo dục trên lớp rất hạn chế nên người dạy
cần khai thác thời gian ở nhà cho học sinh học tập. Hướng dẫn học sinh tự
học sẽ khai thác tốt thời gian nhàn rỗi của học sinh, tạo nếp học tập tích cực
không chỉ bộ môn Ngữ văn mà còn có thể vận dụng vào các môn khác.
II. Khả năng áp dụng
Kết quả thực nghiệm sư phạm và vận dụng đề tài vào thực tiễn cho
thấy đề tài không chỉ thực hiện ở phạm vi bộ môn Ngữ văn lớp 8 mà còn có
thể vận dụng vào việc dạy học ở các khối lớp khác của bộ môn Ngữ văn bậc
trung học cơ sở. Tùy vào hoàn cảnh thực tiễn, với đặc thù bộ môn, giáo viên
có thể vận dụng các giải pháp hướng dẫn học sinh tự học vào các bộ môn
khác góp phần nâng cao chất lượng dạy-học.
Tóm lại, tính khả thi của đề tài khá cao, thể hiện rõ qua hiệu quả dạyhọc lớp 8 môn Ngữ văn của nhà trường trong thời gian qua.
Đề tài đã xác định được các giải pháp tăng cường hướng dẫn học sinh
tự học môn Ngữ Văn lớp 8 trường trung học cơ sở Nguyễn Văn Đừng
tương đối đầy đủ, có tính khoa học và chặt chẽ. Trong đó giải pháp tổ chức
hưiớng dẫn cho HS cần được giáo viên quan tâm đúng mức. Kết quả thực
nghiệm các giải pháp bước đầu cho thấy, các giải pháp có tác dụng
nâng cao chất lượng việc tự học của học thông qua các hoạt động
chuẩn bị bài, học bài cũ, làm đồ dùng mẫu vật,...góp phần nâng cao
chất lượng học tập bộ môn Ngự văn.
III. Kinh nghiệm đã thực hiện trong thời gian qua
Một là, triển khai thực hiện đề tài có một số công việc khó, ví dụ thay
đổi cách ghi bài cho học sinh, hướng dẫn học sinh làm đồ dùng mẫu vật,...
Nhưng không có nghĩa là không làm được nếu giáo viên biết kiên trì thực
hiện từng bước. Để cho học sinh có những câu hỏi thắc mắc với thầy cô,
người dạy cần đối xử với học sinh rất thân thiện. Phải biết chấp nhận, lắng

nghe những câu hỏi của học sinh, thậm chí đó là những câu hỏi ngây ngô
đến khó chịu. Hãy hiểu trẻ thơ hơn để giáo dục các em có hiệu quả.
Hai là, cần dạy-học “cá biệt hóa đối tượng” khi vận dụng hình thức
hướng dẫn học sinh học tập ở nhà. Việc học tập ở nhà đối với học sinh nông
thôn sẽ có những hoàn cảnh khó khăn không đáp ứng yêu cầu của giáo viên.
Người dạy cần nghiên cứu hỗ trợ kịp thời cho các em, không quá khắc khe,
che bai, so bì với học sinh khá, giỏi, học sinh có hoàn cảnh tốt hơn.
Ba là, giáo viên dành nhiều thời gian hướng dẫn học sinh tự học và tạo
cơ hội cho các em thể hiện kết quả tự học của minh dưới nhiều hình thức.
14


Bên cạnh đó cần sử dụng những lời khen kịp thời, bổ ích, cần có sự khích
lệ, động viên học sinh (đặc biệt đối với học sinh quá thụ động ). Đồng thời
giáo viên không ngừng tự học và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn qua sách
vở và các phương tiện truyền thông; khai thác, chọn lọc các nguồn học liệu
và giới thiệu cho học sinh tham khảo; tích cực linh hoạt và sáng tạo trong
công việc soạn giảng, vận dụng đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm làm
cho kết quả giờ dạy và học của học sinh đạt hiệu quả góp phần nâng cao
chất lượng học tập ở bộ môn.
IV. Đề xuất, kiến nghị
Đối với giáo viên chủ nhiệm:
- Cần có sự phối hợp giáo viên bộ môn trong việc giáo dục học sinh ý
thức tự học, có kiểm tra, nhắc nhở, giúp đỡ kịp thời.
- Tổng kết tuần cần quan tâm đến việc tự học ở nhà của học sinh.
Đối với tổ bộ môn:
- Cần tổ chức chuyên đề về ý thức tự học của học sinh, nhất là học sinh
trung bình, yếu ; khai thác, chọn lọc các nguồn học liệu và giới thiệu cho
học sinh tham khảo, tạo điều kiện cho các em chuẩn bị bài ở nhà tốt hơn.
- Tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm các hình thức giúp học sinh học

tập ở nhà, phổ biến cho giáo viên vận dụng.
---------------

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Những vấn đề chung về Đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn –
NXB GD Bộ GD và ĐT
- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên môn Ngữ văn chu kỳ III– NXB GD
Bộ GD và ĐT
- Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn THCS–
NXB GD Bộ GD và ĐT
- Sách giáo khoa Ngữ văn 8,9 – NXB GD Bộ GD và ĐT
- Sách giáo viên Ngữ văn 8,9 – NXB GD Bộ GD và ĐT

16



×