Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn làm THẾ nào để dạy tốt TIẾT bài tập vật lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.44 KB, 14 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH
TRƯỜNG THCS NGUYỄN MINH TRÍ
----------------

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
LÀM THẾ NÀO ĐỂ DẠY TỐT TIẾT BÀI TẬP
VẬT LÍ

Người thực hiện: Lê Thị Ngọc Quý
Chức vụ : Giáo viên
Thuộc tổ: Toán - Lý
Năm học: 2011 - 2012


PHẦN A:

MỞ ĐẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
Nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn nói
riêng, việc bồi bưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, cải tiến phương pháp dạy học là
rất cần thiết. Bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, việc phát huy tính tích
cực của học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì xét cho cùng, công việc giáo
dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động, việc khơi dậy ý thức
và phát triển năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường phát triển
tối ưu của giáo dục. Đây là một hoạt động có vai trò rất quan trọng vì nó thể hiện ý chí
quyết tâm, tinh thần cầu tiến của mỗi người học, giúp họ tự chiếm lĩnh tri thức và làm
chủ tri thức.
Trong khuôn khổ trường THCS, bài tập vật lý là một phương tiện hữu hiệu giúp
người học rèn luyên kỹ năng tự học của mình. Tiết bài tập vật lý chính là cơ hội giúp


người học có điều kiện trãi nghiệm thực tế, trau dồi kinh nghiệm, hiểu được các khái
niệm, định luật vật lý một cách sâu sắc hơn, biết vận dụng chúng vào những vấn đề
thực tế trong cuộc sống và trong lao động, rèn luyện rất nhiều kỹ năng tốt và cần thiết.
2. Cơ sở thực tiễn:
Qua thực tế giảng dạy Vật lý ở trường THCS nói chung và bộ môn Vật lý 8 nói
riêng, tôi nhận thấy rằng học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng khi giải các
bài tập vật lý. Đồng thời, trong phân phối chương trình việc rèn luyện kỹ năng giải bài
tập vật lý bậc THCS gần như chưa được chú trọng, trong cả 2 khối học 6, 7 đều không
có giờ bài tập và luyện tập nào, riêng khối 8 thì chỉ được bố trí 1 tiết/học kì. Điều đó
làm cho đa số học sinh THCS còn nhiều hạn chế hay nói cách khác là còn rất yếu.
100% giáo viên vật lý cho rằng: “Không có thời gian dành cho việc rèn luyện kỹ năng
giải bài tập cho học sinh” nên phần lớn học sinh chưa nắm được phương pháp giải bài
tập vật lý, nhất là đối với bài tập định lượng. Mặt khác, trong các tài liệu thiết kế giáo
án, trong sách giáo viên thì bài soạn của một tiết bài tập hầu như không có và cũng
không được chú trọng. Vì thế giáo viên vật lý cảm thấy rất lúng túng khi tổ chức soạn
giảng một tiết bài tập vật lý. Hoặc nếu có thì mỗi người một vẻ không có sự thống
nhất hoặc một yêu cầu cụ thể nào. Thậm chí có một số giáo viên khi đến tiết bài tập
chỉ gọi học sinh lên giải một số bài tập trong sách giáo khoa rồi nhận xét và cho điểm,
cứ như thế tiết bài tập diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, tẻ nhạt và có lẽ vì thế mà
học sinh càng trở nên chán học, bế tắt, và tất nhiên là việc hình thành thói quen tự học,
giáo dục kỹ năng và phương pháp giải bài tập cho học sinh sẽ không hiệu quả. Vì vậy
tôi quyết định chọn đề tài này.
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích:
Việc nghiên cứu này nhằm mục đích giúp giáo viên có thêm một số kinh
nghiệm trong khi dạy một tiết bài tập vật lý. Qua đó, giúp học sinh củng cố được


kiến thức, rèn luyện được các kỹ năng và phương pháp giải bài tập, góp phần nâng
cao chất lượng dạy học bộ môn vật lý trong nhà trường.

2. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện tốt đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm dạy học.
- Phương pháp điều tra (điều tra về thực trạng dạy tiết bài tập vật lý ở các
lớp trong nhà trường).
- Phương pháp nêu vấn đề, gợi mở, phát huy tính tích cực của học sinh.
- Phương pháp thống kê, phân tích và so sánh.
- Phương pháp trò chuyện, tư vấn với đồng nghiệp và học sinh.
- Phương pháp tương tác với tài liệu, sách vở.
III. ĐỐi TƯỢNG VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI:
1. Đối tượng:
- Các tiết bài tập vật lý cho học sinh khối 8.
2. Giới hạn của đề tài:
- Chỉ chú trọng những sai sót về kỹ năng, kiến thức của học sinh để có
phương án đề xuất cho phù hợp trong các tiết bài tập.
- Cách tiến hành một tiết bài tập vật lý. Trong đó, có chú trọng rèn luyện
phương pháp giải bài tập vật lý và phát huy tính tích cực, tự giác cho học sinh.
IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:
1. Tìm hiểu những khó khăn vướng mắc của giáo viên trong việc tổ chức dạy một
tiết bài tập vật lý, những bất cập trong chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng,
những khó khăn, khiếm khuyết của học sinh trong quá trình sử dụng bài tập vật lý
và cả chất lượng dạy học bộ môn này tại đơn vị.
2. Nghiên cứu nội dung chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình vật lý 8.
3. Nghiên cứu lý luận về giáo dục tính tự lập, tích cực tư duy, tự học ở lớp và tự
học ở nhà.
4. Nghiên cứu lý luận về phương pháp giải bài tập vật lý.
5. Nghiên cứu lý luận về sử dụng các dạng bài tập trong dạy học vật lý.
PHẦN B:

NỘI DUNG ĐỀ TÀI


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI:
- Mỗi môn học có những mục tiêu riêng. Chương trình vật lý THCS có mục hoàn
thiện cho học sinh kiến thức phổ thông, cơ bản, cần thiết để học tiếp cấp THPT hoặc đi
vào các ngành cao đẳng, kỷ thuật và để sống trong một xã hội công nghiệp hiện đại.
Trong đó, kỹ năng vận dụng kiến thức: giải thích hiện tượng vật lý, giải bài tập vật lý
phổ thông là một trong những mục tiêu không thể thiếu đối với môn học.
- Tiết bài tập nhằm giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức, qua đó hình
thành sự hứng thú học tập môn vật lý, tính tích cực học tập và nghiên cứu. Từ đó,
giúp các em định hướng nghề nghiệp trong tương lai.

II.CƠ SỞ THỰC TIỄN:


- Hiện nay trong các kì thi, môn vật lý thường được tổ chức bằng hình thức tự
luận nên việc hình thành phương pháp giải bài tập, và rèn luyện khả năng tự học, tự
tìm tòi phát hiện cho học sinh là rất cần thiết.
- Qua thống kê chất lượng học tập môn vật lý còn thấp so với các môn học
khác.
- Học sinh trường THCS Nguyễn Minh Trí đa phần là học sinh có hoàn cảnh
khó khăn, phụ huynh ít quan tâm đến việc hướng dẫn con em tự học ở nhà, trình độ
nhận thức của học sinh ở mỗi lớp học không đều nhau nên việc vận dung bài tập, tư
duy tự học khó có thể thực hiện được.
- Một số khác phụ huynh cho rằng “không biết gì để dạy” nên chỉ việc cho
tiền các em mua sách giải rồi tự chép vào vở “trả lễ” cho xong, mỗi khi giáo viên có
yêu cầu chứ chẳng hiểu gì.
- Một số giáo viên còn xem nhẹ tiết bài tập, hoặc lúng túng không biết dạy
tiết bài tập như thế nào vì trong sách giáo viên không có hướng dẫn thực hiện.
- Hệ thống câu hỏi, bài tập giáo viên đưa ra chưa phong phú, chưa kích thích
hứng thú học tập, kích thích tư duy của học sinh hoặc nội dung không phù hợp với

năng lực nhận thức của từng đối tượng học sinh.
Chính vì vậy nên việc dạy một tiết bài tập vật lý thể hiện đúng mục tiêu môn
học sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn nói
riêng và góp phần làm cho chất lượng giáo dục của nhà trường ngày một cải thiện.
Từ đó phát hiện, bồi dưỡng nguồn nhân lực, sẵn sàng tham gia các hội thi đem lại
thành tích vẻ vang cho nhà trường.
III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẨN:
- Tiết bài tập trong phân phối chương trình còn rất ít, mặc dù gần đây theo
phân phối chương trình giảm tải đã có điều chỉnh một số tiết ôn tập, luyện tập
nhưng chưa có nghiên cứu nào, quy định hay hướng dẫn nào để thực hiện một tiết
bài tập hoàn chỉnh. Tiết bài tập chủ yếu là do mỗi giáo viên tự thiết kế theo ý riêng
của mình vì thế chất lượng của tiết bài tập còn phụ thuộc vào tính chủ quan của cá
nhân người thầy, khả năng tìm hiểu đối tượng học sinh, trình độ và năng lực sư
phạm của mỗi giáo viên…
- Khi thiết kế một tiết bài tập thường không có sự khái quát, kết luận về từng
vấn đề nên học sinh khó có thể nhận dạng được một phương pháp giải bài tập liên
quan.
- Đa số bài tập ở SGK chỉ dừng lại ở mức độ củng cố, đôi khi còn thiếu so với
lượng kiến thứcđã nêu trong lý thuyết. Do đó dẫn đến tình trạng học sinh khá giỏi
không thể phát huy được khả năng, còn học sinh ở mức độ trung bình trở xuống thì
bế tắt khi gặp dạng bài tập khác.
- Kỹ năng vận dung toán học trong việc giải giải bài tập vật lý còn hạn chế
đối với một bộ phận không nhỏ học sinh.
- Trong bộ SGK, một số đơn vị kiến thức không trình bày ở nội dung trọng
tâm của bài nhưng lại cho bài tập trong sách bài tập, nếu giáo viên không chịu tìm
hiểu thì học sinh không biết đâu mà giải khi gặp loại bài tập này.


- Thời lượng 1tiết không đủ để các em luyện tập với tất cả các dạng bài tập mà ý
thức tự học của HS lại rất kém, các em không chuẩn bị trước ở nhà, thậm chí bài tập

dặn về nhà các em cũng không tự giải…

Sau đây là kết quả khảo sát chất lượng các lớp tôi phụ trách khi chưa áp
dụng đề tài:
LỚP
8A1
8A2
8A3
8A4
TC

TS
HỌC SINH

0-2

32
29
30
30
121

0
5
2
3
10

ĐIỂM SỐ
2.5 – 4.5 5 – 6.5

9
10
8
6
33

13
12
11
18
54

7 – 8.5

9 - 10

6
2
6
2
16

4
0
3
1
8

⇒ Để khắc phục những khó khăn trên, bản thân tôi thấy cần phải thực hiên
các biện pháp sau:

IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở đề xuất giải pháp:
- Căn cứ vào yêu cầu cụ thể của việc dạy và học môn vật lý bậc THCS.
- Căn cứ vào yêu cầu nâng cao chất lượng, rèn luyện kỹ năng trong học tập và
thực hiện chủ đề năm học.
- Căn cứ vào thực trạng của việc dạy tiết bài tập và kỹ năng giải bài tập đã nêu
trên.
2. Các giải pháp chủ yếu:
a/. Chuẩn bị:
Để có một tiết dạy tốt cần phải có sự chuẩn bị chu đáo:
- Trước mỗi tiết bài tập có rất nhiều tiết lý thuyết, trong mỗi đơn vị kiến thức
của lý thuyết cần nêu bật được nội dung chính, đưa ví dụ minh hoạ từ đó hình thành
phương pháp giải bài tập về loại vấn đề đó.
- Khi đến tiết bài tập, giáo viên lựa chọn loại và số lượng bài tập phù hợp
(không nhất thiết là các bài tập ở SGK).
- Chuẩn bị các bài tập nâng cao, mở rộng vấn đề cho học sinh khá giỏi và cả
những bài tập vận dụng vừa sức cho học sinh trung bình – yếu để khích lệ các em.
- Chuẩn bị phiếu học tập ( hoặc các bài tập trắc nghiệm) để củng cố sự tiếp
thu của học sinh, thống kê những thiếu sót, rút kinh nghiệm cho các tiết sau.


* Như vậy, bước chuẩn bị đóng vai trò rất quan trọng cho tiết bài tập trên lớp
sau này.
b/. Soạn bài:
Xác định cho được mục tiêu của tiết dạy: sau tiết học, học sinh phải hiểu và vận
dụng những kiến thức, kỹ năng nào? Tùy theo trình độ của từng lớp học mà có thể
giảm bớt hay tăng thêm một số yêu cầu cho phù hợp.
c/. Thực hiện tiết lên lớp:
Có thể tiến hành theo các hoạt động chính sau đây:
Hoạt động 1:Hướng dẫn các bước cơ bản để giải một bài tập vật lý.

Muốn giải một bài tập vật lý chúng ta cần thực hiện những bước cơ bản sau:
Bước 1: Đọc kỹ đề và viết tóm tắt các dữ kiện.
- Đọc kỹ đề bài (khác với thuộc đề bài), tìm hiểu ý nghĩa của thuật ngữ, có thể
phát biểu tóm tắt ngắn gọn và chính xác.
- Dùng ký hiệu tóm tắt rõ ràng xem đề cho gì? hỏi gì? đơn vị đã thống nhất
chưa? Dùng hình vẽ mô tả lại tình huống hoặc minh họa (nếu cần)
Bước 2: Phân tích đề.
- Phân tích nội dung làm sáng tỏ bản chất vật lý.
- Xác lập mối quan hệ của các dữ kiện có liên quan tới công thức nào của
các dữ kiện xuất phát và rút ra cái cần tìm.
- Xác định phương hướng và lập kế hoạch giải.
Bước 3: Chọn công thức và lập phương trình.
- Chọn công thức.
- Thiết lập phương trình nếu có (lưu ý: mỗi ẩn số là một phương trình)
Bước 4: Chọn phương pháp giải.
- Lựa chọn cách giải cho phù hợp, tôn trọng trình tự phải theo để thực hiện
các chi tiết của dự kiến. Nhất là khi gặp những bài tập phức tạp. thực hiện cẩn thận
các phép tính. Để tránh sai số (nếu có) nên thay bằng chữ đến biểu thức cuối cùng
mới thay số vào.
Bước 5: Kiểm tra, xác nhận kết quả và biện luận.
- Kiểm tra lại xem trị số của kết quả có đúng không, có phù hợp với thực tế
không? Nếu không thì kiểm tra lại các phép tính.
- Nếu có điều kiện, xem thử còn cách nào khác hay hơn và ngắn gọn hơn
không?
Hoạt động 2: Đưa ra các dạng bài tập và các ví dụ.
- Học sinh nêu lại các dạng bài tập mà mình đã biết.
- Giáo viên gợi ý, hướng dẫn các em phát hiện và phân loại các dạng bài tập.
Có thể căn cứ vào một số dạng bài tập cơ bản sau:
1. Bài tập định tính (hay còn gọi là bài tập câu hỏi):
Đây là những bài tập mà khi giải không cần phải tính toán hay chỉ làm

những phép tính đơn giản có thể nhẩm được. Bài tập định tính có tầm quan trọng
đặc biệt vì muốn giải được những bài tập tính toán phức tạp thì phải thông qua
những bài tập định tính. Vì vậy việc luyện tập, đào sâu kiến thức và mở rộng kiến


thức của học sinh về một vấn đề nào đó cần được bắt đầu từ bài tập định tính. Đây
là loại bài tập có khả năng trau dồi kiến thức và tạo hứng thú học tập của học sinh.
Để giải quyết bài tập định tính đòi hỏi học sinh phải phân tích được bản chất của các
hiện tượng vật lý. Với các bài tập định tính ta có thể chia ra làm 2 loại:
a) Bài tập định tính đơn giản: là loại bài tập dùng để khắc sâu khái niệm
hay đinh luật đã học. Để giải loại bài tập này, học sinh chỉ cần nắm vững kiến thức
ở mức độ biết hoặc hiểu.
Ví dụ: Chuyển động cơ học là gì? Cho hai ví dụ.
- Để giải bài tập này, học sinh chỉ cần thuộc khái niệm chuyển động cơ
học, hiêu rõ ý nghĩa của khái niệm để tìm ví dụ minh họa. Dạng này, giáo viên có
thể cho các em thi trả lời nhanh hoặc chuyển thành câu hỏi trắc nghiệm, dành cho
học sinh trung bình-yếu nhằm khuyến khích các em hăng hái hơn.
Giải: - Chuyển động cơ học là sự thay đổi vị trí của vật theo thời gian so
với vị trí của một vật mốc được coi là đứng yên.
- Ví dụ: chuyển động của ô tô trên đường so với cột điện; chuyển
động của cái đu quay so với cột nhà…
b) Bài tập định tính phức tạp: Đây là loại bài tập bao gồm một chuổi bài
tập định tính. Để giải được học sinh cần nắm vững kiến thức ở mức độ hiểu hoặc
vận dụng thấp. Thường để giải bài tập này người ta chioa ra làm 3 giai đoạn:
+ Phân tích điều kiện câu hỏi.
+ Phân tích các hiện tượng vật lý mô tả trong câu hỏi, trên cơ sở đó liên
hệ với định luật, đinh nghĩa, một đại lượng hay một tính chất vật lý liên quan.
+ Tổng hợp các điều kiện đã cho và kiến thức tương ứng để giải.
Ví dụ: Tại sao không thể tính trực tiếp áp suất khí quyển bằng công thức :
.p = d.h?

- Để giải được bài tập này đòi hỏi học sinh phải nắm rõ bản chất vật lý
của chất lỏng, của khí quyển, sự phụ thuộc của áp suất và trọng lượng riêng. Dạng
này giáo viên có thể cho học sinh hoạt động cá nhân nhưng không phải là hỏi trả
lời mà có thể giáo viên tổ chức cho thi đua giữa cá nhân của các đội bằng hình
thức thách đố hoặc hái hoa dân chủ,…giúp học sinh vừa tư duy vừa không nhàm
chán.Dạng này dành cho học sinh khá- giỏi.
Giải: Ta không thể tính trực tiếp áp suất khí quyển bằng công thức: p =
d.h vì công thức này chỉ đúng cho một chất lỏng không chịu nén (nước): d không
phụ thuộc p. Đối với chất khí, áp suất cũng phụ thuộc vào trọng lượng riêng d
nhưng d của khí quyển không xác định được.
2. Bài tập định lượng:
- Đây là dạng bài tập muốn giải được phải thực hiện một loạt các phép tính.
- Để làm tốt loại bài tập này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh giải theo 5
bước (như đã nêu ở trên)
- Bài tập định lượng còn được chia làm 2 loại:
a) Bài tập tập dượt:
Là loại bài tập đơn giản được sử dụng khi nghiên cứu khái niêm, định luật ,
hay một quy tắc vật lý nào đó. Đây là loại bài tập tính toán cơ bản, giúp học sinh hiểu


đầy đủ hơn, sâu sắc hơn một cách cụ thể bằng con số. Dạng bài tập này giáo viên nên
dùng để hướng dẫn học sinh củng cố và vận dụng sau bài học.
Ví dụ: Tính công của một học sinh nặng 45 kg khi em đi đều từ tầng 1 lên
tầng hai cách nhau 4m?
- Để giải được bài tập này học sinh phải nắm rõ khái niệm công cơ học,
công thức tính công, nhớ lại mối liên hệ giữa khối lượng m và trọng lượng p của cùng
một vật rồi tiến hành giải theo các bước đã hướng dẫn mà không cần lập phương
trình hay biện luận gì cả. Đối với dạng bài tập này, giáo viên có thể cho học sinh hoạt
động cá nhân, gọi một học sinh tự nêu phương án giải rồi tiến hành giải theo trình tự
các bước đã được hướng dẫn. Có vậy các em mới phát huy tính tích cực, tự giác tư

duy, nếu các em không nêu được phương án giải thì giáo viên có thể dùng câu hỏi
xuôi hoặc ngược để nêu vấn đề, đặt các em vào những vấn đề cần phải giải quyết và
tuyệt đối không làm thay. Dạng này dành cho học sinh trung bình-yếu.
Tóm tắt:
m = 45kg
S = 4m
A=?

Giải:
- Công của em học sinh đó là:
A = F.S = (m.10).S = 45.10.4 = 1800 (J)
Đáp số: 1800 J

b) Bài tập tổng hợp:
Là loại bài tập phức tạp, muốn giải được chúng ta phải vận dụng nhiều
khái niệm, nhiều định luật hoặc quy tắc, công thức nằm ở nhiều bài, nhiều mục. Loại
bài tập này có mục đích chủ yếu là để ôn tập, mở rộng, đào sâu kiến thức, giúp các em
học sinh thấy được mối quan hệ giữa những phần khác nhau. Đối với dạng này giáo
viên cần hướng dẫn cặn kẽ để tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đều có thể nắm
bắt kịp thời.
Ví dụ: Người ta muốn có 16 lít nước ở nhiệt độ 40 oC. Hỏi phải pha bao nhiêu
lít nước ở nhiệt độ 20oC với bao nhiêu lít nước sôi?
- Đối với dạng bài tập này đòi hỏi học sinh phải nắm vững nguyên lý
truyền nhiệt, sử dụng thành thạo công thức tính nhiệt lượng, các kí hiệu và đơn vị
trong công thức. Có kỹ năng suy luận, biến đổi công thức, kỹ năng tính toán, giải
phương trình theo phương pháp thế hay cộng và phải biết áp dụng tốt phương pháp
giải bài tập vật lý. Để dạy tốt dạng bài tập này, giáo viên cần tổ chức cho học sinh
hoạt động nhóm để các em có cơ hội tương tác và hợp tác với các bạn trong nhóm
vừa hạn chế mất thời gian, vừa tạo khối đoàn kết, tinh thần hợp tác, tương thân
tương ái trong một tập thể.Dạng này dành cho học sinh khá- giỏi.

Tóm tắt:
V = 16 lít
t = 40oC
t1 = 20oC

Giải:
- Áp dụng công thức: V = V1 + V2 = 16 (lít)
(1)
o
- Nhiệt lượng nước 20 C thu vào để tăng lên nhiệt độ 40oC là:
Q1 = m1.c.(t - t1) = V1.D.c.(t – t1)


t2 = 100oC

- Nhiệt lượng nước 100oC tỏa ra để giảm nhiệt độ tới 40oC là:

V1 = ?
V2 = ?

Q2 = m2.c.(t – t2) = V2.D.c.(t2 – t)
- Khi cân bằng nhiệt: Q1 = Q2
Suy ra: V1.D.c.(t – t1) = V2.D.c.(t2 – t)
Suy ra:
V1.(t – t1) = V2.(t2 – t)
Suy ra: V1. (40 – 20) = V2. (100 – 40)
Suy ra: V1 = 3V2
Từ (1) và (2) suy ra: V1 = 12 (lít)
và V2 = 4 (lít)


(2)

3. Bài tập đồ thị:
Là những bài tập mà trong dữ kiện đã cho của đề bài hoặc trong tiến trình
giải có sử dụng đồ thị. Loại bài tập này có tác dụng trước hết giúp học sinh nắm được
phương pháp quan trọng, biểu diễn mối quan hệ giữa số và các đại lượng vật lý, tạo
điều kiện làm sáng tỏ một cách sâu sắc bản chất vật lý.
Ví dụ: Nhìn vào sơ đồ biểu diễn sự thay đổi nhiệt độ theo thời gian của cùng
một khối lượng nước, đồng, sắt được đun trên những bếp tỏa nhiệt như nhau. Hỏi
đường biểu diễn nào tương ứng với nước, với đồng, với sắt?
Nhiệt độ
III
II
I
Thời gian

Để giải tốt dạng bài tập này, học sinh cần phải sử dụng thành thạo công
thức tính nhiệt lượng, nắm vững mối quan hệ giữa các đại lượng trong công thức,
đồng thời phải có kỹ năng suy luận logic. Dạng bài tập này thường không nhiều
nhưng nó có vai trò rất lớn trong việc phát triển năng lực tư duy của học sinh. Đây là
dạng bài tập thường dùng để bồi dưỡng học sinh giỏi. Để dạy dạng bài tập này sinh
động, giáo viên có thể dạy trên chương trình Violet hoặc Powerpoint sử dụng các
hiệu ứng làm cho các đồ thị phát huy tốt tác dụng.
Giải:
Từ công thức tính nhiệt lượng: Q = m.c. ∆t
Q

Suy ra: ∆t = m.c

Vì nhiệt lượng và khối lượng như nhau mà: cnước > cnhôm > cđồng

Nên: + Đường (III) biểu diễn cho sắt.
+ Đường (II) biểu diễn cho nhôm.
+ Đường (III) biểu diễn cho nước.
4. Bài tập thí nghiệm:


Là dạng bài tập mà trong khi giải phải tiến hành thí nghiệm, những quan sát
hoặc kiểm chứng cho lời giải lý thuyết hoặc tìm số liệu, dữ kiện dùng cho việc giải bài
tập. Thí nghiệm có thể do giáo viên làm biểu diễn hoặc do học sinh thực hiện. Các thí
nghiệm có thể mang tính chất nghiên cứu, khảo sát, tìm hiểu một khía cạnh mới của
kiến thức đã học hoặc nghiệm lại các vấn đề đã được rút ra từ lý thuyết.
Ví dụ: Câu C7 của bài 10: Lực đẩy Acsimet.
Đây là dạng bài tập rất ít khi gặp, đặc biệt là đối với chương trình vật lý 8. Để
giải tốt dạng bài tập này đòi hỏi học sinh phải nắm vững lý thuyết, hiểu sâu sắc các
bản chất, các nguyên lý vật lý. Đồng thời, phải có kỹ năng thực hành, từ đó hình
thành và giáo dục kỹ thuật lao động, giáo dục hướng nghiêp, giúp người học sinh
phát triển toàn diện. Là giáo viện, để dạy thành công dạng bài tập này càng phải có
kỹ năng thí nghiệm thực hành thật điêu luyện, sẵn sàng trợ giúp học sinh trong mọi
hoạt động chiếm lĩnh tri thức của mình. (Lưu ý giáo viên chỉ trợ giúp chứ không làm
thay).
Ngoài ra trong khi dạy bài tập vật lý, giáo viên cũng có thể sáng tạo ra một số
bài tập dạng trò chơi nhằm có sức lôi cuốn với các em học sinh hơn. Ví dụ như: trò
chơi giải ô chữ, ghép hình, đuổi hình bắt chữ, . . .
Hoạt động 3: Dùng phiếu học tập , cho thảo luận nhóm rút ra kết quả.
* Câu 1: Người ta thả 3 miếng: đồng, nhôm, chì có cùng khối lượng vào 1 cốc
nước nóng. Hãy so sánh nhiệt độ cuối cùng của 3 miếng kim loại trên bằng cách
chọn các câu trả lời sau:
A. Nhiệt độ của miếng đồng cao nhất, của chì thấp nhất.
B. Nhiệt độ của miếng nhôm cao nhất, của chì thấp nhất
C. Nhiệt độ của miếng chì cao nhất, của nhôm thấp nhất.

D. Nhiệt độ của 3 miếng bằng nhau.
* Câu 2: Người ta thả 3 miếng: đồng, nhôm, chì có cùng khối lượng và được đun
nóng tới 1000C vào 1 cốc nước lạnh.Nhiệt lượng miếng kim loại nào truyền cho nước
lớn nhất? bé nhất?
A.Nhiệt lượng của 3 miếng truyền cho nước bằng nhau.
B.Nhiệt lượng của miếng nhôm truyền cho nước lớn nhất, của chì nhỏ nhất.
C.Nhiệt lượng của miếng chì truyền cho nước lớn nhất, của nhôm nhỏ nhất.
D.Nhiệt lượng của miếng đồng truyền cho nước lớn nhất, của chì nhỏ nhất.
* Câu 3: Chọn câu đúng, sai:
a) Khi dùng nhiệt kế để xác định nhiệt độ của một vật, phải tạo ra sự cân bằng
nhiệt giữa nhiệt kế và vật.
b) Máy điều hoà nhiệt độ thu nhiệt lượng trong phòng để toả nhiệt lượng ra
không khí ngoài. Áp dụng phương trình cân bằng nhiệt ta có: Q toả ra = Qthu vào
Hoạt động 4: Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy với cấu trúc của chương trình vật lý THCS
có rất ít tiết bài tập, thời lượng của một tiết trên lớp có hạn, học sinh chủ yếu tiếp thu
kiến thức về lý thuyết một cách cơ bản hoặc chỉ giải các bài tập đơn giản, số tiết học
chỉ có 1 tiết/ tuần đối với khối 6,7,8 và 2 tiết/ tuần đối với khối 9. Vì thế không có đủ
thời gian để giáo viên mở rộng và nâng cao kiến thức, kỹ năng giải bài tập cho học


sinh, cũng như việc phát huy tính tích cực tư duy của học sinh theo yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học cũng bị hạn chế. Để khắc phục những bất cập này, tôi cho
rằng “Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà” là rất cần thiết.
- Việc học sinh tự học ở nhà có một ý nghĩa lớn lao về mặt giáo dục, giáo
dưỡng. Nếu việc học ở nhà của học sinh được tổ chức tốt sẽ giúp các em thói quen
làm việc tự lực , giúp các em nắm vững tri thức, có kỹ năng , kỹ xảo. Ngược lại, nếu
việc học ở nhà của học sinh không được quan tâm tốt sẽ làm cho các em quen thói cẩu
thả , có thái độ tắc trách đối với việc thực hiện nhiệm vụ của mình dẫn đến nhiều thói
quen xấu cản trở đến việc học tập.

- Công việc học tập ở nhà của học sinh có những đặc điểm riêng sau:
+ Tiến hành trong một thời gian ngắn, không có sự hướng dẫn trực tiếp của
giáo viên, mặc dù đấy là công việc chính giáo viên giao cho học sinh phải tự mình
hoàn thành, tự kiểm tra công việc mình làm.
+ Công việc này được thực hiện tuần tự theo hứng thú, nhu cầu và năng lực của
học sinh.
+ Dễ bị chi phối bởi ngoại cảnh khác.
- Có thể coi quá trình học tập của học sinh ở nhà bao gồm các giai đoạn: trước
hết phải nhớ lại những điều đã học ở lớp sau đó rèn luyện sáng tạo. Mỗi giai đoạn có
một nội dung công việc cụ thể.
- Việc học tập của học sinh ở nhà phụ thuộc phần lớn việc dạy học trên lớp của
giáo viên. Vì vậy giáo viên cần phải căn cứ vào tình hình tiếp thu kiến thức của học
sinh mà giao cho các em những công việc có tính chất bổ sung phục hồi tài liệu đã học
như: nghiên cứu sách giáo khoa, vẽ hình …
- Trong khi dạy vấn đề nào đó cần suy nghĩ việc giao cho học sinh các bài tập ở
nhà. Chính việc giao bài tập một cách có hệ thống đảm bảo cho việc học tập của học
sinh có một quy luật chặt chẽ, nhờ đó mà học sinh có thể tự lực giải quyết các bài tập
kể cả những bài tập khó, vì đã có sự chuẩn bị ở các bài tập dễ. Việc học sinh hoàn
thành tốt các bài tập ở nhà không những giúp các em nắm vững tri thức đã học cũng
như rèn luyện kỹ năng , kỹ xảo cần thiết, mà còn giúp các em chuẩn bị tốt nhất cho
việc tiếp thu kiến thức mới. Vì thế bên cạnh những bài làm phục hồi, luyện tập và


sáng tạo trên cơ sở kiến thức đã học cần phải giao cho học sinh những bài mang
những yếu tố chuẩn bị cho việc tiếp thu tri thức mới. Có như vậy mới đảm bảo được
việc tiếp thu một cách tích cực và tự lực.
Ta có thể giao bài tập cho học sinh bằng nhiều hình thức:
+ Giao bài tập trong thời gian truy bài đầu giờ.
+ Giao bài tập sau tiết học.
+ Giao bài tập theo hệ thống bài tập SGK, SBT, sách tham khảo …

+ Giao bài tập theo dạng, theo chuyên đề.
- Một biện pháp quan trọng nữa để đảm bảo công tác hướng dẫn học ở nhà có
kết quả là cần có những biện pháp kiểm tra, động viên, khích lệ kịp thời và phù hợp:
+ Kiểm tra vở ghi, vở bài tập.
+ Cho điểm khuyến khích những học sinh có nhiều cố gắng hoặc chuyển biến
trong học tập, …
- Ngoài ra, để phát huy tối ưu hiệu quả của việc tự học ở nhà, giáo viên cần có sự
phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để nhận được sự hỗ trợ, giám sát và trợ
giúp học sinh những lúc gặp khó. Được như thế tôi tin rằng chất lượng giáo dục ngày
một nâng lên là điều hoàn toàn có thể.
V. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:
Đề tài này đã được áp dụng cho tất cả học sinh khối 8 của trường THCS
Nguyễn Minh Trí. Sau thời gian 6 tháng thực hiện (kể từ đầu năm học đến giờ), đề
tài đã đem lại hiệu quả giáo dục nhất định. Hiện tại số học sinh yếu kém của bộ môn
giảm rõ rệt, số học sinh yêu thích bộ môn tăng lên và các em đã đăng ký học bồi
dưỡng học sinh giỏi vật lý 8 cũng khá nhiều. Khi triển khai trong tổ chuyên môn, đề
tài đã được hầu hết đồng nghiệp đồng tình hưởng ứng. Sắp tới tôi sẽ tham mưu cùng
với Hội đồng khoa học của trường để triển khai rộng rãi cho các bộ môn khác. Thời
gian còn lại, tôi sẽ cố gắng thực hiện đề tài và luôn lắng nghe những ý kiến đóng góp
của tất cả bạn bè đồng nghiệp để đem lại hiệu quả cao nhất cho việc ứng dụng đề tài
này.
PHẦN C: KẾT

LUẬN

I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC:
Có thể nói việc áp dụng đề tài “Làm thế nào để dạy tốt tiết bài tập vật lý” vào công
tác giảng dạy ở nhà trường đã thực sự tạo nên sức lan tỏa mạnh mẽ. Nó không chỉ góp
phần nâng cao chất lượng dạy học mà còn lôi cuốn sự yêu thích bộ môn, khơi dậy
niềm tin ở các em, kích thích tinh thần tự học, tự nghiên cứu. Thông qua việc dạy tiết



bài tập, giáo viên còn giúp các em hình thành các kỹ năng sống cần thiết như tinh thần
hợp tác, khả năng đàm phán, kỹ năng giao tiếp, kỹ thuật lao động và hướng nghiệp,…
Từ đó, giúp người giáo viên tự nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ, nhận xét, đánh
giá và tự điều chỉnh bản thân mình.
II. KẾT QUẢ ÁP DỤNG:
Sau khi áp dụng các biện pháp đã nêu trên vào thực tế khối lớp 8 của
trường, tôi nhận thấy rằng đã có một số chuyển biến tích cực ở chất lượng học
sinh. Đa số học sinh nắm được các kiến thức cơ bản của chương trình và đã định
hướng được phương pháp giải bài tập một cách hợp lý. Đa số học sinh đã biết vận
dụng kiến thức đã học để giải được các bài tập đơn giản. Sau đây là kết quả kiểm
tra chất lượng giữa học kỳ II
Lớp
8A1
8A2
8A3
8A4
TC

TSHS
32
29
30
30
121

0–2
0
1

0
0
1

2,5 – 4,5
0
4
2
3
9

Điểm số
5,0 – 6,5
8
10
9
14
41

7,5 – 8,5
14
12
10
11
47

9,0 – 10
10
2
9

2
23

III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ HƯỚNG PHẤN ĐẤU:
* Trong quá trình rèn luyện khả năng giải bài tập cho học sinh tôi nhận thấy ngoài
áp dụng các biện pháp đã nêu trên thì nên thực hiện một số vấn đề sau :
- Phải tìm hiểu tâm sinh lý từng học sinh để có biện pháp bồi dưỡng thích hợp với
từng đối tượng.
- Cần tạo không khí sinh động, thoải mái cho lớp học để học sinh không cảm thấy
tiết bài tập khô khan và hăng hái luyên tập.
- Nên giao bài tập từ dễ đến khó để khuyến khích học sinh, giúp các em tự tin hơn
trong học tập.
- Nên dành bài tập, câu hỏi dễ cho học sinh yếu và khen ngợi các em nếu các em
làm đúng để tạo sự tự tin và kích thích tinh thần học tập của các em.
- Cần phải có thời gian để kiểm tra kiến thức cơ bản trước khi làm bài tập.
- Luôn luôn nêu vấn đề để học sinh hứng thú tìm hiểu.
- Phải chú trọng giáo dục tính tự học cho học sinh, không chỉ tự học ở lớp mà còn
tự học ở nhà.
* Trên phạm vi tổ chuyên môn và giới hạn nghiên cứu ở học sinh khối 8, bước đầu
đã được đồng nghiệp và học sinh đón nhận vì thế tôi sẽ phát triển đề tài hơn nữa trong
thời gian sắp tới để được ứng dụng rộng rãi với nhiều đối tượng hơn (kể cả khối 6,7,9)
và phát huy hiệu quả giáo dục được mĩ mãn hơn.
* Tóm lại, thiết kế dạy tiết bài tập được tiến hành thường xuyên trong quá
trình dạy học. Việc đầu tư, chuẩn bị càng cao thì hiệu quả mang lại càng lớn.Với
những lớp khá – giỏi có thể thực hiện tiết dạy này bằng giáo án điện tử, khi đó lượng


bài tập cung cấp cho tiết học sẽ được nhiều hơn.Tiết bài tập là tiết học quan trọng,
giúp học sinh củng cố được lý thuyết, hiểu sâu hơn những vấn đề trừu tượng, rèn
luyện kỷ năng giải bài tập là điều không thể thiếu khi học Vật Lý. Chính vì thế, thiết

kế dạy tiết bài tập đòi hỏi rất nhiều phẩm chất chuyên môn, sự yêu nghề, tận tụy với
công việc của người giáo viên. Thiết kế dạy tiết bài tập tốt, là tiền đề để có một tiết
dạy tốt, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn và
chất lượng giáo dục của nhà trường.
IV. ĐỀ XUẤT – KIẾN NGHỊ:
1. Với cấp Bộ:
- Bài tập ở Sách Giáo Khoa, sách bài tập, nên phân theo từng chủ đề, có ví dụ
mẫu
- Bài tập gồm cả tự luận và trắc nghiệm khách quan dưới tất cả các mức độ và có
nhiều dạng bài tập hơn, nhất là tăng cường những bài tập thí nghiệm, bài tập sơ đồ hay
các trò chơi vật lý.. .
2.Với Lãnh đạo trường và tổ chuyên môn:
- Tăng thêm tiết bài tập cho những lớp yếu – kém..
- Dùng các tiết tự chọn cho hợp lý và phù hợp với đặc điểm của từng lớp học.
- Làm ngân hàng bài tập cho từng loại chủ đề của từng khối lớp, dùng chung cho
ôn tập kiểm tra trong tổ.
Trên đây là một số ý kiến của tôi về những biện pháp giúp dạy tốt tiết bài tập
vật lý. Kính mong quý thầy cô đóng góp ý kiến để chuyên đề hoàn thiện hơn
nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
Xin cảm ơn và trân trọng kính chào!
DUYỆT CỦA HĐKH TRƯỜNG

NGƯỜI THỰC HIỆN

LÊ THỊ NGỌC QUÝ



×