Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục những giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường cao đẳng y tế nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.72 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN TRUNG DŨNG

NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

VINH - 2009


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN TRUNG DŨNG

NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ NGHỆ AN

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PPDH BỘ MÔN GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. ĐOÀN MINH DUỆ



VINH - 2009


LỜI CÁM ƠN
Tôi xin trân trọng cám ơn Ban giám hiệu, khoa đào tạo Sau Đại học,
khoa Giáo dục chính trị , cùng toàn thể các thầy, cô giáo Trường Đại học
Vinh đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức lý luận chính
trị quí báu, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin trân trọng cám ơn sâu sắc đến PGS. TS. Đoàn Minh Duệ,
Trưởng khoa Luật - Trường Đại học Vinh, đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo,
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cám ơn Ban Giám hiệu, phòng Công tác học sinh,
sinh viên, khoa Khoa học cơ bản và sinh viên - Trường Cao đẳng Y tế Nghệ
An luôn chia sẻ, động viên, tạo điều kiện cho tôi cả về tinh thần và vật chất
trong suốt quá trình học tập.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong cuộc sống, học tập và công tác.
Vinh, tháng 12 năm 2009
Tác giả
Nguyễn Trung Dũng


QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT
CĐYT
CBYT
CNH, HĐH
KTTT
SV
TDTT

THCN
VHVN
XHCN

Cao đẳng Y tế
Cán bộ y tế
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Kinh tế thị trường
Sinh viên
Thể dục thể thao
Trung học chuyên nghiệp
Văn hoá văn nghệ
Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU............................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...................................................................2
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................4
5. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................4
6. Đóng góp của đề tài.............................................................................4
7. Kết cấu đề tài.......................................................................................4
B. NỘI DUNG........................................................................................5
Chương 1. Cơ sở lý luận của công tác giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Nghệ An. .5
1.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
Trường Cao đẳmg Y tế Nghệ An.....................................................5

1.2. Vai trò của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp đối với sinh viên
ngành Y..........................................................................................23
Kết luận chương 1.................................................................................29
Chương 2. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Nghệ An hiện nay....30
2.1. Sơ lược vài nét về Trường Cao đẳng Y tế Nghệ An.......................30
2.2. Thực trạng nhận thức đạo đức nghề nghiệp của sinh viên Trường
Cao đẳng Y tế Nghệ An hiện nay..................................................33
2.3. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
Trường Cao đẳng Y tế Nghệ An hiện nay.....................................43
Kết luận chương 2..................................................................................51


Chương 3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng Y
tế Nghệ An........................................................................52
3.1. Đổi mới nội dung, biện pháp tổ chức thực hiện công tác giáo dục
chính trị - tư tưởng theo hướng gắn liền với đặc thù của ngành Y.
........................................................................................................53
3.2. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp thông qua giảng dạy các môn học.
........................................................................................................54
3.3. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp thông qua thực tập thực tế lâm sàng
tại các cơ sở y tế.............................................................................59
3.4. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp thông qua hoạt động của Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên và các hoạt động
văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao................................................62
3.5. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp thông qua kỷ niệm các ngày lễ, hội
mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc và phát huy tính năng động sáng tạo
của sinh viên..................................................................................66
3.6. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp thông qua quá trình tự giáo dục của

sinh viên.........................................................................................68
Kết luận chương 3..................................................................................72
C. KẾT LUẬN .....................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................75
PHỤ LỤC.............................................................................................77


7

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của các trường đại học, cao đẳng và THCN. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là yêu
cầu khách quan của sự nghiệp trồng người để đào tạo ra thế hệ trẻ vừa hồng vừa
chuyên, thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện, phát huy năng lực nghề nghiệp và
tăng cường đạo đức nghề nghiệp, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài không có đức thì vô dụng”.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã thường xuyên quan tâm đến
công tác giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, đặc biệt là SV, nhưng hiệu quả của
công tác này chưa cao. Nhiều nội dung kiến thức trong chương trình còn chung
chung mang nặng tính hàn lâm, thiếu sự hướng dẫn kỹ năng cụ thể và nặng về lý
thuyết. SV còn thụ động trước kiến thức khô khan, không có điều kiện tham gia
các hoạt động ngoại khoá, hoạt động cộng đồng để có những môi trường rèn
luyện, thử thách tốt hơn. Trong các trường chuyên nghiệp, việc giảng dạy, giáo
dục đạo đức nghề nghiệp còn mang nặng tính lý thuyết, thiếu các biện pháp,
hình thức phong phú, sôi động hấp dẫn khuyến khích SV tham gia vào những
sân chơi tập thể lành mạnh, các hoạt động nói chung còn mang tính hình thức,
đối phó, hiệu quả không cao.
Thực trạng đạo đức SV hiện nay nổi cộm nhiều vấn đề đáng lo ngại. Một
bộ phận chạy theo lối sống thực dụng, đua đòi, sa vào tệ nạn xã hội, thiếu bản

lĩnh, bàng quan với thời cuộc, thờ ơ trước cái thiện, vô cảm trước cái ác, thiếu
kỹ năng sống và ứng xử có trách nhiệm trong các mối quan hệ xã hội.
SV ngành Y tế, những người làm nhiệm vụ cứu giúp người bệnh trong
tương lai, hơn ai hết phải là người được rèn luyện về đạo đức nói chung và đạo
đức nghề nghiệp nói riêng, theo 12 điều y đức mà Bộ Y tế quy định.


8
Vì vậy, vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV ngành Y đang được
các trường đại học và cao đẳng chuyên ngành Y quan tâm chú ý. Trong mối
quan hệ đó, để từng bước nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho SV ngành Y, tôi đã chọn đề tài: “Những giải pháp cơ bản nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng Y tế
Nghệ An”.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV là một vấn đề được xã hội rất quan
tâm vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này.
PGS. TS. Trần Quốc Thành, công tác tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
có công trình: “Thực trạng và giải pháp ngăn ngừa tệ nạn xã hội trong SV” năm
1999 - 2000. Tác giả đã nghiên cứu thực trạng đạo đức, lối sống, của SV hiện nay
nhằm tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho SV, cũng như đề ra các giải pháp
ngăn ngừa tệ nạn xã hội trong SV.
PGS.TS. Nguyễn Xuân Uẩn, công tác tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã có
công trình: “Xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh SV Đại học Sư phạm
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH”. Công trình đã đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm
xây dựng lối sống và đạo đức mới cho SV trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
PGS. TS. Bùi Minh Hiền, giảng viên Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội trong công trình: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho SV Đại học Quốc gia Hà Nội” đã nêu ra thực trạng đạo đức và
đề xuất một số giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo

đức cho SV Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng và SV các trường bạn nói
chung.
Tác giả Lê Hữu Ái và Lê Thị Tuyết Ba, công tác tại Trường Đại học Kinh
tế (Đại học Đà Nẵng) với bài viết: “Các nội dung và hình thức giáo dục đạo đức
cho sinh viên Đại học Đà Nẵng hiện nay” đã nêu ra hệ thống nội dung và các


9
hình thức cụ thể thực hiện công tác giáo dục đạo đức cho SV Đại học Đà Nẵng
hiện nay.
Tác giả Nguyễn Thị Minh Chiến, công tác tại khoa Hoá học Trường
Đại Sư phạm Hà Nội có bài viết: “Giáo dục đạo đức cho học sinh”. Bài viết
này đã đề cao sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã
hội.
Nhìn chung các tác giả của công trình trên đã đưa ra các biện pháp khá
phong phú, đa dạng nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức cho
SV hiện nay. Tuy nhiên, trong lĩnh vực giáo dục đạo đức ở Trường CĐYT Nghệ
An chưa có công trình nào đi sâu khảo sát, tìm hiểu, nghiên cứu và đề ra những
giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho SV ngành Y. Vì vậy, với tư cách là người giáo viên làm
nhiệm vụ giáo dục chính trị, đạo đức cho SV và cán bộ quản lý ở phòng công tác
chính trị học sinh - sinh viên của nhà trường, chúng tôi lựa chọn vấn đề nghiên
cứu này để mong kết quả sẽ góp phần thiết thực phục vụ cho công tác giảng dạy,
nghiên cứu và quản lý SV tại Trường CĐYT Nghệ An.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích:
Nghiên cứu những nội dung cơ bản đạo đức nghề nghiệp của nghề thầy
thuốc và đề ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho SV Trường CĐYT Nghệ An.
b. Nhiệm vụ:

- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp của
SV ngành Y.
- Tìm hiểu thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV tại
Trường CĐYT Nghệ An.


10
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho SV Trường CĐYT Nghệ An.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi sử dụng phối hợp đồng bộ nhiều
phương pháp, trong đó chủ yếu các phương pháp sau:
- Phương pháp, khảo sát, điều tra;
- Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh đối chiếu;
- Phương pháp nêu vấn đề, phát vấn, đàm thoại;
- Phương pháp thực nghiệm, chứng minh các giả thiết của đề tài.
5. Phạm vi nghiên cứu
Căn cứ vào nội dung của đề tài, chúng tôi tiến hành điều tra thực trạng
công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV tại Trường CĐYT Nghệ An ở
400 SV thuộc các ngành: Điều dưỡng, Dược sỹ, Y sỹ đa khoa, Phụ sản.
6. Đóng góp của đề tài
Xác lập cơ sở khoa học làm luận chứng cho việc giảng dạy, giáo dục, rèn
luyện đạo đức nghề nghiệp cho SV ở Trường CĐYT Nghệ An
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Nghệ An.
Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên Trường Cao đẳng Y tế Nghệ An hiện nay.

Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Nghệ An.


11


12

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ NGHỆ AN
1.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
Trường Cao đẳng Y tế Nghệ An
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là một phạm trù thuộc hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ buổi
bình minh của lịch sử xã hội loài người. Trải qua quá trình phát triển của lịch sử,
qua các chế độ xã hội khác nhau, đạo đức ngày càng được hoàn thiện. Khi nói
đến đạo đức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện những mối quan hệ
nhất định giữa người và người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Ở Phương
Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất hiện sớm
được biểu hiện trong quan niệm về đạo đức của họ. Đạo đức là một phạm trù
quan trọng nhất trong triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường,
đường đi, đạo còn có nghĩa là đường sống của con người trong xã hội, là đạo
nghĩa. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính. Như vậy, đạo đức được hiểu là
các nguyên tắc luận lý thể hiện đạo nghĩa của quan hệ giữa người với người
trong cuộc sống, đó là những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra buộc con người
phải tuân theo. Khái niệm đạo đức ngày nay được định nghĩa như sau: “Đạo đức

là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực
xã hội nhằm điều chỉnh hành và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan
hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh dư luận xã hội” [12, tr 8].
Điều cần nhấn mạnh của khái niệm này là ở chỗ đạo đức là một phương
thức điều chỉnh hành vi con người. Sự đánh giá hành vi con người của đạo đức


13
và việc thực hiện những chuẩn mực và quy tắc đạo đức theo khuôn phép chuẩn
mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện ác, vinh và
nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Ở đây, quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của
mình đối với xã hội và đối với người khác là tiền đề của hành vi đạo đức cá
nhân. Cá nhân phải có trách nhiệm về hành vi của mình trước xã hội cũng như
sự điều khiển của lương tâm họ, làm sao cho phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Biểu hiện của hành vi này là việc tuân thủ những điều cấm, tự nguyện làm
những điều phù hợp với các chuẩn mực đạo đức của xã hội. Do vậy, sự điều
chỉnh hành vi của đạo đức mang tính tự nguyện.
1.1.1.2. Nghề nghiệp
Theo từ điển Tiếng Việt: "Nghề nghiệp là một công việc mà người ta
thực hiện trong suốt cả cuộc đời" [18, tr 698] Ví dụ: Nghề dạy học, nghề y,
nghề kinh doanh… nghề nghiệp không chỉ đảm bảo cuộc sống mà còn tôn vinh
con người làm việc trong lĩnh vực nghề nghiệp đó. Ví dụ: Trong nghề Thầy
thuốc có rất nhiều Y, Bác sỹ được nhân dân và xã hội tôn vinh như: Hypocrate,
Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông… đến những thầy thuốc nổi tiếng thời hiện đại
như Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng, Hoàng Đắc Trí… F. Ăng-ghen đã từng
viết: “Trong thực tế mỗi giai cấp và đến cả mỗi nghề nghiệp đều có luân lý
riêng của nó” [15, tr 298 - 299].
Đào tạo nghề nghiệp được hiểu là toàn bộ các quá trình học tập của con
người và những tích luỹ của cá nhân về kiến thức, kỹ xảo và các đặc điểm tâm

lý. Ngoài ra, đào tạo nghề nghiệp được hiểu là toàn bộ các hoạt động, được
triển khai theo cá nhân hay tập thể, một cách ngẫu nhiên hay có tổ chức. Đào
tạo nghề nghiệp được tiến hành thông qua các hình thức sau: Dạy nghề, hoàn
thiện nghề nghiệp, chuyên môn hóa nghề nghiệp, đào tạo bằng kinh nghiệm,
thông tin đạo đức nghề nghiệp. Ba hình thức đầu được xem là các giai đoạn của
việc đào tạo đạo đức nghề nghiệp chính quy. Hai hình thức sau có thể gặp cả


14
trong việc đào tạo nghề nghiệp chính quy lẫn trong đào tạo nghề nghiệp phi
chính quy. Trong các hình thức trên đây, dạy nghề là quan trọng nhất. Dạy
nghề là hoạt động trang bị cho người học những kiến thức tối thiểu, kỹ năng,
kỹ xảo và những đặc điểm nhân cách để thực hiện tốt một loại hình nghề
nghiệp nhất định.
1.1.1.3. Đạo đức nghề nghiệp
Trong xã hội, mỗi người có một công việc, nghề nghiệp khác nhau theo
đúng sự phân công lao động của xã hội. Bất kỳ công việc nào cũng có vai trò
chức năng nhất định đối với đời sống xã hội, ở các lĩnh vực khác nhau. Trên cơ
sở vấn đề đạo đức chung, do đặc thù của từng ngành với các vai trò khác nhau
trong đời sống xã hội hình thành nên khái niệm đạo đức nghề nghiệp. Khái niệm
đạo đức nghề nghiệp được hiểu là hệ thống các chuẩn mực đạo đức, các quy
định ứng xử trong công việc của mình mà mọi người cần tự giác thực hiện cho
phù hợp với yêu cầu xã hội và quy định của ngành. Bất kỳ ngành nghề nào cũng
có đối tượng của nó. Đạo đức nghề nghiệp buộc mọi người phải ưu tiên cho đối
tượng công việc, phải dành các điều kiện tốt nhất cho đối tượng nghề nghiệp mà
họ hướng tới mà trước hết là phải tuân thủ pháp luật nói chung cũng như những
quy định riêng của ngành. Chẳng hạn trong ngành Giáo dục chúng ta thường
quan tâm đến đạo đức nhà giáo, người giáo viên phải yêu nghề, yêu học trò, hết
lòng vì học sinh thân yêu, phải thực hiện nghiêm túc những nội quy, quy chế của
ngành. Những hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo ngoài việc bị dư luận xã hội

lên án còn bị xử lý theo quy định của pháp luật nếu đủ các yếu tố cấu thành tội
phạm. Trong kinh doanh, lợi nhuận là yếu tố quan trọng nhất, nhưng nếu bỏ
quên yếu tố đạo đức, nếu không quan tâm quyền lợi khách hàng như làm hàng
giả, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, những thực phẩm và thức ăn gây
bệnh được đưa ra thị trường đều nhận được sự phản ứng mạnh mẽ từ phía khách
hàng và bị khách hàng tẩy chay. Và đặc biệt trong ngành Y tế, một ngành trực


15
tiếp làm công việc cứu người, hơn bất cứ ngành nghề nào khác, phải đặt lên trên
hết yếu tố đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức trong ngành Y chính là việc thực hiện
tốt những điều quy định về y đức tức là những chuẩn mực đạo đức trong ngành
Y. Căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “ Lương y như từ mẫu” là sự đúc kết cô
đọng nhất về những yêu cầu đạo đức nghề Y.
1.1.1.4 . Đạo đức nghề nghiệp của nghề Thầy thuốc
Trong xã hội, đạo đức y học cũng có những yêu cầu, chuẩn mực chung phù
hợp với đạo đức xã hội, và đối với những xã hội khác nhau thì yêu cầu đạo đức y
học cũng khác nhau. Khi nghiên cứu đạo đức y học của người thầy thuốc (những
vấn đề đạo đức học của người thầy thuốc) hai tác giả M. E. Teleshevskaia và N.I.
Pogibko người Nga đã viết: “Đạo đức y học là phần khoa học về vai trò của
những nguyên tắc, phẩm hạnh của các nhân viên y tế, về các mối quan hệ nhân
đạo cao cả đối với bệnh nhân, coi như là điều kiện cần thiết để điều trị và củng cố
sức khoẻ cho con người có kết quả tốt” [8, tr 7]. Trong giai đoạn hiện nay bản
chất đạo đức của người thầy thuốc có những phẩm chất sau:
- Trước hết phải có đạo đức của một công dân XHCN. Đó là việc luôn coi
trọng trách nhiệm nghề nghiệp và đạo đức thầy thuốc, hai yếu tố này có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, tác động lẫn nhau (vì trách nhiệm
của thấy thuốc trước người bệnh khiến cho họ không ngừng vươn lên đỉnh cao
của đạo đức y học và ngược lại vì nghề nghiệp mà người thầy thuốc không
ngừng học tập nâng cao tay nghề, nâng cao trách nhiệm...). Trách nhiệm và đạo

đức người thầy thuốc luôn hướng tới những điều kiện thuận lợi nhất cho sức
khoẻ người bệnh. Sức khoẻ người bệnh là trên hết “Đạo đức y học có mục đích
cứu người, trách nhiệm nghề nghiệp yêu cầu người thầy thuốc phải có tri thức
khoa học, nghệ thuật chữa bệnh và chuyên môn sâu” [13, tr 62].
- Phải có tấm lòng nhân ái đối với người bệnh. Lòng nhân ái của người
thầy thuốc XHCN xuất phát từ bản chất chế độ và trách nhiệm cao cả của thầy


16
thuốc trong chế độ XHCN. Thầy thuốc XHCN phải có quan hệ rộng với mọi
tầng lớp nhân dân, tận tuỵ, chu đáo trong quá trình chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
nhân dân.
- Thầy thuốc XHCN vì mục đích trong sáng, hết lòng vì người bệnh,
không vụ lợi, sống có lý tưởng, thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, không ngừng
nâng cao năng lực chuyên môn
Để xác định đạo đức nghề nghiệp, cần phân tích những phẩm chất nghề
nghiệp thể hiện trong các quan hệ xã hội của người thầy thuốc. Đạo đức nghề
nghiệp của người thầy thuốc có yêu cầu đặc biệt liên quan đến việc tiến hành các
hoạt động nhằm đem lại sức khoẻ cho mọi người. Nó gồm các quy tắc, nguyên
tắc chuẩn mực của ngành Y tế, nhờ đó mà mọi thành viên trong ngành phải tự
giác điều chỉnh hành vi của mình, phù hợp với lợi ích chung của xã hội, đáp ứng
nhu cầu phát triển của y học. Vì vậy chúng tôi cho rằng, đạo đức người thầy
thuốc thể hiện trong các mối quan hệ sau đây:
Quan hệ với nhân dân: Công tác bảo vệ sức khoẻ không chỉ dừng lại ở
điều trị người bệnh ở bệnh viện mà còn liên quan đến chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng. Vì vậy trong quá trình quan hệ với nhân dân cần phải có thái độ ân cần,
mật thiết, thực hiện tốt 10 nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phát triển 2 khu vực
y tế chuyên sâu và y tế phổ cập.
Quan hệ với người bệnh: Quan hệ của thầy thuốc với người bệnh là quan
hệ đặc thù, liên quan tới nhu cầu cấp thiết của mỗi người dân, dễ đi sâu vào tâm

tư, tình cảm, lòng nhân ái của mọi người. Có thể nói, từ xưa đến nay mối quan hệ
này tượng trưng cho phẩm chất tốt đẹp của nghề y ở mọi quốc gia.
Quan hệ đồng nghiệp: Hiện nay chúng ta đang tiến hành cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật từng bước tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngành
Y cũng là ngành khoa học đòi hỏi đội ngũ CBYT có tinh thần làm việc tập thể,
có sự hợp tác tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi công trình nghiên cứu khoa học,
mỗi ca phẫu thuật, thủ thuật, thao tác kỹ thuật... đều là công việc mang tính tập


17
thể. Trong hoạt động hàng ngày của mình, CBYT luôn có mối liên hệ mật thiết
với các thành viên khác. Xuất phát từ các đặc điểm trên, mối quan hệ đồng
nghiệp của CBYT cần lưu ý các vấn đề sau:
+ Phải tôn trọng lẫn nhau:
Người thầy thuốc không bao giờ được xem thường người khác, luôn tôn
trọng lẫn nhau. Y học có nhiều chuyên khoa, chuyên ngành khác nhau không ai
có thể cho mình là người chuyên sâu các chuyên ngành. Trong ngành, các
chuyên khoa đều bình đẳng, vì vậy các chuyên khoa cần kết hợp chặt chẽ với
nhau, vì sức khoẻ người bệnh.
+ Phải thân ái, đoàn kết, giúp đỡ nhau tiến bộ.
Do yêu cầu công tác tổ chức bộ máy của ngành được chia làm nhiều
tuyến, nhiều khu vực, nên các tuyến phải có sự liên kết giúp đỡ nhau, tuyến sau
chỉ đạo tuyến trước về chuyên môn nghiệp vụ, tuyến trước cung cấp thông tin y
tế, kết hợp làm tốt công tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Trong mỗi
cơ quan, mỗi tổ chức, mỗi đơn vị đều có người quản lý, người thực hiện, vì vậy
cần xây dựng một phong cách làm việc thật hài hoà, đảm bảo được nguyên tắc,
nghiêm túc, thân tình, thoải mái: công việc thì bàn bạc dân chủ, khi đã có thống
nhất thì thực hiện nghiêm túc, cấp dưới phải phục tùng cấp trên.
Với công tác khoa học kỹ thuật: Bản chất việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân
là quá trình thực hiện công tác khoa học kỹ thuật, đòi hỏi người thầy thuốc

phải làm việc nghiêm túc, phát triển toàn diện trên 2 lĩnh vực y sinh học và y
xã hội học.
Đặc điểm đặc thù của y học là liên quan đến sức khoẻ và tính mạng
con người. Vì vậy trong công tác khoa học phải tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định sau:


18
- Phải có tính nhân ái, không được lấy người bệnh làm “vật thí nghiệm”.
Khi nghiên cứu một phương pháp, một kỹ thuật, một loại thuốc mới... phải được
tiến hành trên động vật, làm nhiều lần có kết quả, đảm bảo an toàn không có hại
cho con người mới được đưa vào sử dụng trong chữa bệnh.
- Phải khách quan, không định kiến, tôn trọng sự thật, không áp đặt ý kiến
chủ quan của mình.
- Phải chính xác: không được làm sai lệch ... các số liệu nghiên cứu.
- Phải trung thực: phải nói đúng sự thật, không phóng đại, tô hồng kết quả
nghiên cứu, phải bảo vệ chân lý.
Ba vấn đề khách quan, trung thực và chính xác là cốt lõi của một công
trình nghiên cứu khoa học. Nếu không đủ 3 yếu tố đó với các công trình nghiên
cứu y sinh học và dược học có thể gây tác hại cho sức khoẻ và tính mạng con
người. Với lĩnh vực y xã hội sẽ làm sai lạc trong việc đề ra các chủ trương,
đường lối y tế, các giải pháp và chiến lược y tế.
Quan hệ với pháp luật: Lĩnh vực nghề nghiệp của ngành Y có 2 phạm vi
nghiên cứu chuẩn mực đó là: luật pháp hành nghề y và tiêu chuẩn đạo đức của
người thầy thuốc. Luật pháp và đạo đức có mối quan hệ hữu cơ khăng khít, luật
pháp bị vi phạm thì bầu không khí của đạo đức bị thoái hoá. Người thầy thuốc sẽ
bị tước danh hiệu cao quý của mình nếu xâm phạm luật pháp, ảnh hưởng tới sức
khoẻ, tính mạng con người. Người thầy thuốc sẽ bị lương tâm dày vò, đau khổ
nếu phạm sai lầm trong cuộc đời làm nghề thầy thuốc của mình, từ đó đã gây ra
nỗi bất hạnh cho người bệnh “Hàng trăm cuộc đời được cứu sống, không làm

dịu đi niềm cay đắng của một tổn thất”.
1.1.1.5. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của giáo dục nói chung.
Giáo dục là hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm đào tạo, bồi dưỡng con
người một cách toàn diện trên tất cả các mặt: Đức, Trí, Thể, Mỹ. Giáo dục đạo
đức là yếu tố được quan tâm hàng đầu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chung


19
của giáo dục. Giá trị nhân cách của một con người luôn được đo bằng các yếu tố
tài và đức. Chính vì vậy, trong kho tàng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Người
luôn quan tâm đến giáo dục đạo đức và khuyên nhủ mọi người phải thường
xuyên chăm lo rèn luyện đạo đức. Người đã từng khẳng định: “ Có tài mà không
có đức ví như một anh làm kinh tế, tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì
chẳng những không làm gì được cho xã hội mà còn hại cho xã hội nữa. Nếu có
đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi
gì cho loài người” [17, tr 222].
Trong thực tiễn giáo dục đạo đức nghề nghiệp được tổng hợp trong các
hoạt động giáo dục nói chung. Trong các trường đại học, cao đẳng và THCN,
đạo đức học, tâm lý học là một môn cơ bản, bắt buộc. Ngoài ra, đối với các
trường Y tế còn có y đức là môn học bắt buộc. Bên cạnh đó có các hoạt động
bổ trợ khác như các câu lạc bộ thực hành Y, diễn đàn SV, chương trình ngoại
khóa, tham quan thực tế đều có ý nghĩa và tác dụng giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho SV.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là sự tác động qua lại giữa các hoạt động
giáo dục đạo đức nghề nghiệp với người học nghề nhằm hình thành ở người
học nghề những phẩm chất nghề nghiệp cần thiết. Như vậy, nếu xem xét dưới
góc độ lý thuyết hệ thống thì giáo dục đạo đức nghề nghiệp bao gồm nhiều
thành tố: mục đích và yêu cầu, nội dung và phương pháp, biện pháp, phương
tiện, các lực lượng tham gia, người dạy nghề, người học nghề và kết quả giáo

dục đạo đức nghề nghiệp. Các thành tố này vận động và phát triển trong mối
quan hệ biện chứng với nhau, thành tố này quy định và ảnh hưởng đến thành
tố khác và tạo nên sự vận động chung của cả hệ thống giáo dục đạo đức nghề
nghiệp. Cụ thể: mục đích và yêu cầu giáo dục đạo đức nghề nghiệp sau khi
được xây dựng, quy định những nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cụ
thể cần hình thành ở người học nghề. Sau khi xác định nội dung giáo dục đạo


20
đức nghề nghiệp, từ đó quy định phương pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp.
Trong mối quan hệ giữa lực lượng tham gia giáo dục đạo đức nghề nghiệp và
người học nghề thì lực lượng giáo dục đạo đức nghề nghiệp giữ vai trò chủ
đạo tổ chức, điều khiển hoạt động của người học nghề. Dưới các tác động
giáo dục đó, người học nghề phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của mình
trong quá trình tự rèn luyện tự bồi dưỡng các phẩm chất nghề nghiệp. Sự vận
động của tất cả các thành phần nêu trên sẽ đưa lại kết quả giáo dục đạo đức
nghề nghiệp. Kết quả này phản ánh sự vận động đúng hay không đúng quy
luật khách quan của các thành tố và cả hệ thống.
Tuy nhiên, giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống mở vì các thành
tố cấu thành của nó còn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội: chính trị, đạo đức, pháp luật, văn hoá
Như vậy có thể nói: Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống các
hoạt động, các giải pháp nhằm giáo dục những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
cho SV để khi hành nghề, mỗi cá nhân biết kết hợp hài hòa giữa năng lực nghề
nghiệp và đạo đức nghề nghiệp.
1.1. 2. Các quy định về y đức
Y đức là phẩm chất tốt đẹp của người làm công tác y tế được biểu hiện
bằng tinh thần trách nhiệm cao tận tụy, hết lòng thương yêu chăm sóc người
bệnh, đúng như lời Bác dạy: "Lương y phải như từ mẫu". Để cụ thể hóa lời dạy
của Bác, ngành Y tế đề ra 12 điều y đức giúp mỗi người CBYT tự đánh giá, tu

dưỡng mình và không ngừng học tập rèn luyện để trở thành thầy thuốc có đức
có, tài.
1. Chăm sóc sức khỏe cho mọi người là nghề cao quý. Khi đã tự nguyện
đứng trong hàng ngũ y tế phải nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Phải có
lương tâm và trách nhiệm cao, hết lòng yêu nghề, luôn rèn luyện nâng cao phẩm
chất đạo đức của người thầy thuốc. Không ngừng học tập và tích cực nghiên cứu


21
khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn. Sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn
gian khổ, vì sự nghiệp chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân.
2. Tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn.
Không được sử dụng người bệnh làm thực nghiệm cho những phương pháp chẩn
đoán, điều trị, nghiên cứu khoa học khi chưa được phép của Bộ Y tế và sự chấp
nhận của người bệnh.
3. Tôn trọng quyền được khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân, tôn trọng
những bí mật riêng tư về sức khỏe người bệnh. Khi thăm khám, chăm sóc cần
bảo đảm bảo sự kín đáo và lịch sự. Quan tâm đến những người trong diện chính
sách ưu đãi xã hội, không được phân biệt đối xử với người bệnh, không được có
thái độ được ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và gây phiền hà cho người bệnh,
phải trung thực khi thanh toán các chi phí khám bệnh, chữa bệnh.
4. Khi tiếp xúc với bệnh nhân và gia đình họ phải luôn luôn có thái độ
niềm nở, tận tình, trang phục phải chỉnh tề, sạch sẽ để tạo niềm tin cho người
bệnh. Phải giải thích tình hình bệnh tật cho người bệnh và gia đình họ hiểu để
cùng hợp tác chữa bệnh; phổ biến cho họ về chế độ, chính sách, quyền lợi và
nghĩa vụ của người bệnh; động viên an ủi, khuyến khích người bệnh điều trị, tập
luyện để chóng hồi phục. Trong trường hợp bệnh nặng hoặc tiên lượng xấu cũng
phải hết lòng cứu chữa và chăm sóc đến cùng, đồng thời báo cho gia đình người
bệnh biết.
5. Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đoán, xử trí kịp thời không được đùn đẩy

người bệnh.
6. Kê đơn phải phù hợp với chẩn đoán và bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý,
an toàn; không vì lợi ích cá nhân mà giao cho người bệnh thuốc kém phẩm chất,
thuốc không đúng với yêu cầu và mức độ bệnh.
7. Không được rời bỏ vị trí trong khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử trí kịp
thời các diễn biến của người bệnh.


22
8. Khi người bệnh ra viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều
trị tự chăm sóc và giữ gìn sức khỏe.
9. Khi người bệnh tử vong, phải thông cảm sâu sắc, chia buồn và hướng
dẫn giúp đỡ gia đình họ làm các thủ tục cần thiết.
10. Thật thà, đoàn kết, tôn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn
sàng truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.
11. Khi bản thân có thiếu sót, phải tự giác nhận trách nhiệm về mình,
không đổ lỗi cho đồng nghiệp, cho tuyến trước.
12. Hăng hái tham gia công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe, phòng
chống dịch bệnh, cứu chữa người bị tai nạn, ốm đau tại cộng đồng, gương mẫu
thực hiện nếp sống vệ sinh, giữ gìn môi trường sống trong sạch [3, tr 7 - 9].
Những quy định về y đức xác định bốn mối quan hệ mật thiết đó là:
Thứ nhất, mối quan hệ của người CBYT với đồng nghiệp, đã tình nguyện
hành nghề y phải hun đúc trong chính mình lòng yêu nghề, ham mê công việc,
cần cù học tập vươn lên. Tích cực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển nền y học Việt Nam.
Thứ hai, mối quan hệ của người CBYT với người bệnh, phải tôn trọng và
thông cảm sâu sắc với người bệnh, tận tình cứu chữa "coi họ đau đớn cũng như
mình đau đớn". Không phân biệt đối xử giữa người bệnh giàu nghèo hay sang
hèn. Thực hiện chữa bệnh theo bệnh. Thận trọng trong chẩn đoán cũng như chỉ
định điều trị, đặc biệt trong phẫu thuật.

Thứ ba, mối quan hệ giữa người CBYT với các bậc thầy, với đồng
nghiệp. Dân tộc Việt Nam có truyền thống "tôn sư trọng đạo", đã học thầy phải
kính trọng và nhớ ơn thầy, giúp đỡ thầy khi già yếu hay lúc khó khăn, quan tâm
chăm sóc tới các con của thầy. Đối với đồng nghiệp phải khiêm tốn học hỏi, thật
thà đoàn kết và tương trợ lẫn nhau, không nói xấu và đổ lỗi cho đồng nghiệp. Tự
giác nhận trách nhiệm về mình khi bản thân có sai sót.


23
Thứ tư, mối quan hệ giữa người CBYT với xã hội, phải luôn quan tâm tới
sức khoẻ cộng đồng, gương mẫu thực hiện và tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh,
rèn luyện sức khoẻ và cứu chữa người bị nạn, đồng thời xã hội cũng có trách
nhiệm ủng hộ người hành nghề y hoàn thành nhiệm vụ [6, tr 159 - 160].
1.1.3. Các nguyên tắc của đạo đức y học
Một số nguyên tắc cơ bản trong đạo đức Y học
- Tôn trọng quyền tự quyết (Tôn trọng quyền con người).
Tôn trọng quyền tự quyết đồng nghĩa với tôn trọng quyền con người và
tôn trọng cá nhân là nguyên tắc đầu tiên trong ba nguyên tắc đạo đức cơ bản
của ngành Y tế. Đây là nguyên tắc có tính chất quyết định, nó chi phối các
nguyên tắc đạo đức khác. Khi con người có quyền tự quyết, họ có thể đưa ra
các quyết định đúng đắn sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng, dựa trên cơ sở được
thông tin đầy đủ.
Người hành nghề y dược phải cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến
chữa trị một căn bệnh mà người thầy thuốc tư vấn và phải được người bệnh chấp
thuận. Thầy thuốc không được phép lừa dối người bệnh về các chẩn đoán bệnh
(Trừ trường hợp những căn bệnh phải dấu không cho bệnh nhân biết). Phải quan
tâm đặc biệt tới đối tượng mà quyền tự quyết của họ bị hạn chế: chưa thể hoặc
không thể đưa ra quyết định về việc chọn phương án chữa trị như trẻ em, người
mất năng lực hành vi...
- Nguyên tắc làm việc thiện:

Nội dung của nguyên tắc này là làm điều tốt, đem lại lợi ích tối đa cho
người bệnh, không làm điều nguy hại và giảm thiểu tác hại cho người khác. Đây
vừa là nguyên tắc đạo đức nói chung vừa là nguyên tắc đạo đức y học nói riêng.
Quán triệt điều này cũng cần hiểu thêm rằng: trong mọi trường hợp, nếu không
làm được việc thiện cũng tuyệt đối không được làm điều ác cho người khác.


24
Chẳng hạn như trong nghiên cứu lâm sàng thuốc, đây là lĩnh vực người thầy
thuốc không làm từ thiện nhưng mặt khác họ không làm hại người bệnh.
- Nguyên tắc công bằng:
Nguyên tắc này được hiểu như một chuẩn mực đạo đức không thiên vị,
không mưu cầu lợi ích riêng cho ngành Y trong việc xem xét các bất đồng xảy
ra trong cuộc sống. Người thầy thuốc phải luôn quan tâm đến điều kiện tốt nhất
cho người bệnh, tùy mức độ nặng nhẹ của bệnh mà bố trí chữa trị cho các bệnh
nhân, tuyệt đối không căn cứ vào tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp. Người thầy
thuốc phải tùy theo mức độ bệnh để kê đơn, không căn cứ vào mức độ giàu sang
hay nghèo khổ của người bệnh.
1.1.4. Truyền thống đạo đức y học Việt Nam
Đạo đức y học được hình thành từ rất lâu, từ khi có y học thì đã có đạo
đức nghề y. Hypocrate (337 - 465 TCN), người được coi là ông tổ của ngành Y
thời cổ đại Hy Lạp, cách đây hơn 2000 năm đã nêu tấm gương đạo lý mà người
hành nghề y, dược noi theo và phải tuyên thệ '"Lời thề Hypocrate" trước khi
hành nghề, trong lời thề có câu: "Tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư và thân
thiết". Ở Việt Nam các bậc danh y như Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh thế kỷ kỷ
XIV) và đặc biệt là Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (thế kỷ XVIII) luôn nêu
cao tấm gương y đức, cả cuộc đời rèn luyện và phục vụ, Cụ luôn tự nhắc nhở
mình: "Tiến đức, Tu nghiệp" [6, tr 140]. Tiến đức là mỗi ngày phải rèn luyện
cho toàn diện, toàn mỹ về đạo đức của người hành nghề y. Trong cuốn Y huấn
cách ngôn, Hải Thượng Lãn Ông có 9 điều dạy và Ông luôn tha thiết với lòng

mong mỏi đào tạo lớp lương y kế tiếp có đạo đức và lành nghề. Trong cuốn Âm
án và Dương án ông đã nêu lên tám đức tính của người lương y và tám điều tội
lỗi mà người hành nghề y dược phải tránh.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới sức khoẻ của đồng
bào, trong thư gửi Hội nghị CBYT tháng 2 năm 1955, Bác Hồ đã căn dặn CBYT


25
"Thương yêu săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn
cũng như mình đau đớn" [5, tr 62].
Như vậy, chúng ta có thể thấy lời Bác dạy là lời non nước, là định hưóng
giá trị cho mỗi CBYT, là phương châm khẩu hiệu hành động của ngành Y tế
"Lương y phải như từ mẫu". Thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu, đội ngũ
CBYT từ những vị giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ, dược sĩ đến những nhân viên y tế
công tác ở những bệnh viện lớn, hoặc ở những bản làng xôi hẻo lánh đã nỗ lực
phấn đấu, vượt lên mọi khó khăn thử thách, phát huy cao tính năng động sáng
tạo, tận tuỵ, chăm sóc và cứu chữa trả lại sức khoẻ cho người bệnh và đem hạnh
phúc cho gia đình họ. Đã có nhiều tấm gương sáng chói, thậm chí không ít
người đã ngã xuống khi thi hành nhiệm vụ, được nhân dân quý mến, các cấp uỷ
Đảng và chính quyền tin yêu, ngành Y đã có vinh dự được nhận phần thưởng
cao quý, Huân chương Sao vàng.
Vấn đề cốt lõi trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về y đức là"Thầy
thuốc như mẹ hiền", đó cũng là tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta. Tại buổi lễ kỷ
niệm ngày Thầy thuốc Việt Nam 27 tháng 02 năm 1996 và đón nhận Huân
chương Sao vàng, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã chỉ thị cho ngành Y tế phải
phát huy hơn nữa truyền thống vẻ vang của ngành, không ngừng nâng cao trình
độ ngang tầm nhiệm vụ, rèn luyện phẩm chất, đặc biệt là nâng cao y đức, hết
lòng chăm nom người bệnh, thực hiện lời dạy của Bác Hồ "Thầy thuốc như mẹ
hiền" [6, tr 150].
Rất quan tâm tới sức khoẻ của nhân dân, bằng tâm huyết của mình, trong

thư gửi Báo Sức khoẻ và Đời sống, đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã rất ân
cần căn dặn cán bộ ngành Y tế: "Công việc của người thầy thuốc đựơc ví như
công việc của người mẹ, chăm lo cho con cái, cho gia đình, cho nòi giống, cho
con người, từ thủa chưa lọt lòng đến giây phút thanh thản từ giã cuộc đời; giúp
cho bà con vượt qua số phận hẩm hưu, những đau đớn quằn quại của bệnh tật,


×