Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số kinh nghiệm trong việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học cấp THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.58 KB, 20 trang )

Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Là Giáo viên THCS tất cả chúng ta ai cũng nắm mục tiêu giáo dục THCS hiện nay. Cụ
thể đối với môn Vật Lý, Hóa học …là bộ môn khoa học tự nhiên.Yêu cầu giáo dục mới
là:
HS phải có kiến thức phổ thông cơ bản, tinh giản, thiết thực, cập nhật, làm nền tản để
từ đó có thể chiếm lĩnh những nội dung khác của khoa học tự nhiên và công nghệ, khoa
học xã hội và nhân văn. Bước đầu hình thành và phát triển được những kĩ năng, phương
pháp học tập bộ môn.
HS phải biết quan sát, thu thập, sử lí thông tin thông qua nội dung học tập. Biết vận
dụng sáng tạo những kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề trong học tập và trong
cuộc sống.
Trên nền tảng kiến thức và kĩ năng đó để hình thành và phát triển các năng lực chủ
yếu đáp ứng yêu cầu phát triển con người Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Đặc biệt các kiến thức, kĩ năng của các bộ môn khoa học tự nhiên như Lý, Hóa…
được hình thành trên cơ sở việc học tập qua “làm”. Chắc hẳn các giáo viên dạy bộ môn
này đều biết.
Chính vì vậy Tôi lựa chon đề tài này nhằm phát huy tính tích cực học tập của Học
sinh và lòng nhiệt tình của Giáo viên .
Bộ môn Vật Lý là bộ môn thực nghiệm. Tư tưởng chủ đạo của các sách giáo khoa Vật
Lý phổ thông là nội dung kiến thức mới được hình thành phần lớn thông qua các thí
nghiệm và thực hành. Điều đó không chỉ tích cực hóa về học tập của học sinh mà còn rèn
kĩ năng sử dụng thiết bị, đồ dùng trong cuộc sống, rèn luyện thái độ, đức tính kiên trì, tác
phong làm việc của những người làm khoa học trong thời đại công nghệ.
Việc làm và sử dụng sử dụng thí nghiệm Vật Lý trong xu thế đổi mới giảng dạy, với
cách trình bày mới của sách giáo khoa, người giữ trọng trách nhất vẫn là các giáo viên
trực tiếp lên lớp.Vì vậy người giáo viên cần tích lũy kinh nghiệm và hình thành ý tưởng
để vận dụng trong những trường hợp cụ thể.
Một lí do quan trọng nữa mà Tôi chọn đề tài : “MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC


LÀM VÀ SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG DẠY HỌC TỰ LÀM CẤP THCS” là qua cuộc thi sử dụng
đồ dùng dạy học tự làm cấp tỉnh năm 2013 – 2014 đã để lại cho Tôi nhiều kinh nghiệm
có thể chia sẽ cùng đồng nghiệp.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
Trao đổi kinh nghiệm về việc tự làm và sử dụng dụng cụ dạy học sẳn có.
Nêu lên được thực trạng về vấn đề một số dụng cụ sử dụng chưa hiệu quả hiện nay.
Nguyên nhân dẫn đến những thực trạng đó. Biện pháp khắc phục.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Giáo viên dạy Vật Lý Trường THCS Nguyễn Trãi, trường Buôn Trấp và Tôi.
Học sinh lớp 7A2,3; lớp 9A5,6 trường THCS Nguyễn Trãi.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Các dụng cụ có sẳn trong phòng thí nghiệm.
1


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
Bộ thí nghiệm điện học 7 – 9, điện từ học 9. Bộ thí nghiệm máy phát điện đơn giản 9.
Giáo viên, học sinh trong trường Nguyễn Trãi, trường Buôn Trấp, trường Durkmăn.
Phụ huynh trên địa bàn.
5.Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp vấn đáp
Phương pháp thí nghiệm
Phương pháp nghiên cứu qua kết quả bài kiểm tra
Trao đổi, giao lưu với giáo viên, học sinh trường bạn
Vận dụng những kiến thức đã học trong nhà trường sư phạm, những kiến thức tích lũy
từ quá trình giảng dạy trực tiếp trên lớp và các kiến thức qua nghiên cứu các tài liệu liên
quan nghiên cứu các tài liệu liên quan.
Dựa vào kiến thức các giờ dạy, giờ thao giảng, chuyên đề, của các đồng nghiệp. Kiến
thức qua các buổi thảo luận trao đổi trong tổ chuyên môn.
II. PHẦN NỘI DUNG:

1. Cơ sở lí luận để thực hiện đề tài:
Đề tài này dựa trên cơ sở lí luận: Quan điểm tư tưởng của Đảng về giáo dục, Tâm lí
giáo dục học sinh THCS, tư tưởng Hồ Chí Minh về nghề dạy học. Dựa vào việc đổi mới
phương pháp dạy học, đổi mới phương pháp làm và sử dụng dụng cụ thí nghiệm.
2. Thực trạng:
a. Thuận lợi, khó khăn:
Trường được sự quan tâm của Đảng ủy – HĐND – UBND – địa phương, sự chỉ đạo
sát sao của Phòng GD&ĐT huyện Krông Ana, của Ban giám hiêụ nhà trường và sự hỗ trợ
tích cực của các cơ quan ban ngành đoàn thể và toàn xã hội.
Được sự kết hợp của công an giao thông, công an xã và sự nhiệt tình của đội ngũ
cán bộ trường. Trường THCS Nguyễn Trãi không ngừng phấn đấu thực hiện nhiệm vụ và
những chỉ tiêu đề ra.
Các lớp Tôi tiến hành nghiên cứu được sự quan tâm cuả phụ huynh, nhà trường và
liên đội, các giáo viên bộ môn, đa số học sinh trong lớp có ý thức đạo đức tốt, có ý chí
vươn lên trong học tập và rèn luyện đạo đức, có ý thức xây dựng tập thể, tham gia tốt
phong trào do đội – trường phát động
Trường THCS Nguyễn Trãi nằm trên địa bàn xã Eana, xã có diện tích tương đối
rộng. Nên số học sinh nằm rải rác khắp nơi, nhà xa khó khăn cho học sinh trong việc tới
trường. Dân ở đây sống chủ yếu bằng nghề nông, một số buôn đồng bào dân tộc thiểu số
có điều kiện kinh tế khó khăn nên phụ huynh chỉ biết mải mê kiếm sống mà không chăm
lo đến việc học tập của các em. Một số học sinh học yếu, ham chơi, hay vi phạm nề nếp
đạo đức…
Còn về dụng cụ dạy học hiện nay đa số nhiều dụng cụ đã hư hỏng, sử dụng
không đạt hiệu quả và một số dụng cụ còn thiếu. Đặc biệt bộ dụng cụ không sử dụng
được nhiều thí nghiệm và không dạy được nhiều bài. Ví dụ như bộ dụng cụ điện từ
học của lớp 7,9; bộ dụng cụ quang học 9; bộ dụng cụ máy phát điện lớp 9. Kinh phí để
làm ra một đồ dùng dạy học có hiệu quả cao, dạy được nhiều bài nhiều chương là khá
lớn và mất nhiều thời gian.
b. Thành công, hạn chế:
2



Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
Khi sử dụng các dụng cụ tự làm và sẳn có một cách hiệu quả Tôi thấy sự hứng thú
học tập của học sinh nâng cao rỏ rệt và hiệu quả học tập cao. Nhưng để đạt được kết quả
cao đòi hỏi giáo viên phải hết sức nhiệt tình trong công tác tự làm và sử dụng dụng cụ có
sẳn, phải chịu khó tìm tòi, nghiên cứu để làm ra một bộ dụng cụ có chất lượng, sử dụng
được nhiều thí nghiệm và dạy được nhiều bài.
c. Mặt mạnh, mặt yếu:
Trường tổ chức triển khai kế hoạch thực hiện các cuộc vận động và phong trào thi
đua do ngành phát động tới từng giáo viên và học sinh ngay từ đầu năm. Tiến hành tổng
kết việc thực hiện các cuộc vận động và phong trào thi đua cuối tháng, cuối kì và cuối
năm.
Đưa chỉ tiêu thực hiện các cuộc vận động và phong trào thi đua vào tiêu chí xếp
loại đối với cán bộ viên chức và học sinh.
Tập thể cán bộ viên chức đoàn kết nhất trí cao hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm
học đề ra.
Trường đã tổ chức cho học sinh hoạt động NGLL, an toàn giao thông và phòng
chống các tệ nạn xã hội.
Tổ chức cho học sinh các trò chơi dân gian, các lễ hội để lôi kéo học sinh tham gia
vào các trò chơi lành mạnh.
Tổ chức cho cán bộ giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm.
Khuyến khích giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy để đổi mới
phương pháp dạy học.
Xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng dạy học bằng nhiều phương pháp. Lên kế
hoạch cho học sinh phụ đạo học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh giỏi.
Với sự nhiệt tình và quan tâm học sinh của giáo viên trong công tác tự làm và
sử dụng dụng cụ có sẳn, phải chịu khó tìm tòi, nghiên cứu để làm ra một bộ dụng cụ
có chất lượng, sử dụng được nhiều thí nghiệm và dạy được nhiều bài.
Giáo viên Vật Lí đã phối hợp với giáo viên bộ môn khác, làm ra một số bộ dụng

cụ dạy học hiệu quả. Nâng cao chất lượng dạy và học.
Đặc biệt giáo viên dạy môn Vật Lí đã phát động các em học sinh làm ra một số
đồ dùng đơn giản như: bình chia độ cho bài đo thể tích lớp 6 , làm đàn tam thập lục
cho bài nguồn âm của lớp 7, làm con ve ve bài độ to -cao của âm lớp 7, làm hộp to
bằng bìa cứng cho bài thực hành nhận biết ánh sáng đơn sắt lớp 9….
Tuy nhiên việc làm ra bộ dụng cụ dạy học chất lượng còn gặp nhiều khó khăn,
cần nhiều thời gian và tiền bạc. Và đòi hỏi các cấp các nghành cần vào cuộc, chung
tay vì tương lai con em chúng ta. Và giáo viên đóng vai trò nồng cốt, cần phải có nhiệt
huyết mới tìm ra ý tưởng tốt nhất, phù hợp nhất.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
Một số ít giáo viên bộ môn chưa thực sự quan tâm đến việc làm và sử dụng dụng
cụ thí nghiệm. Nên hiệu quả dạy và học học chưa cao. Thậm chí dụng cụ có sẳn cũng ít sử
dụng, không gây hứng thú và tính tò mò cho học sinh.
Sự liên hệ giữa nhà trường và gia đình chưa thật tốt. Một số gia đình chưa quan
tâm lắm đến việc học tập của các em, họ nhận thức về học tập của con cái mình chưa cao,
đi học về không cần kiểm tra sách vở của con, thậm chí họ không biết hôm nay con mình
có đến lớp không, dẫn đến các em học yếu không chú tâm vào bài học cũng như các thí
nghiệm mà thầy cô làm.
3


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
Các cấp chưa làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, cung cấp dụng cụ có hiệu quả
sử dụng còn hạn chế, còn sai sót, dẫn đến kết quả thí nghiệm có độ chính xác chưa cao.
Một số ít học sinh chưa ý thức được việc tự làm ra đồ dùng cho bản thân mình tự
học.
Chương trình thay sách giáo khoa, đổi mới phương pháp làm và sử dụng thí
nghiệm một số nội dung còn quá tải, tạo áp lực học tập cho học sinh, các em học yếu lại
càng yếu nên chán học.
Do một số giáo viên còn hạn chế về năng lực phương pháp giảng dạy, học sinh

chưa hiểu. Hay một số không nhỏ giáo viên có đời sống kinh tế khó khăn, phải bươn chải
với những công việc làm thêm để nuôi gia đình nên không có thời gian nhiều đầu tư cho
bài dạy, và làm ra những sản phẩm dạy học đơn giản mà có hiệu quả, nên học sinh không
hiểu bài.
Các nguyên nhân trên ít nhiều ảnh hưởng đến việc dạy học của giáo viên và học
sinh.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra:
Công tác giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ quan trọng được Đảng và nhà nước quan
tâm và xem là quốc sách hàng đầu.
Nhưng càng ngày các dụng cụ càng hư hỏng và sử dụng không hiệu quả. Gây ảnh
hưởng đến việc dạy và học của nhà trường cũng như chất lượng của học sinh. Vì một tiết
học có thành công hay không, học sinh có hiểu bài hay không là nhờ việc gây hứng thú
học tập ở học sinh.
Krông Ana là một huyện có điều kiện kinh tế tương đối khó khăn, đa số nhân dân
ở đây làm nghề nông là chính. Dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ lại nhiều. Giáo viên vẫn còn
nhiều gia đình khó khăn, chưa có thời gian nhiều để đầu tư làm ra bộ dụng cụ tốt.
Để làm ra một bộ đồ dùng dạy học cần phải tốn nhiều tiền, mất nhiều thời gian và
công sức. Mà kinh phí của nhà trường thì hạn chế. Nên giáo viên chỉ làm bộ đồ dùng khi
có các cuộc thi là chính.
Những yếu tố trên đều có ảnh hưởng nhiều đến công tác dạy và học ở các trường
THCS.
3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp,biện pháp:
Để khắc phục tình trạng dạy chay, hoặc sử dụng dụng cụ không mang lại kết quả,
không có tính khoa học.
Giúp cho huyện nhà nâng cao chất lượng dạy và học nói chung và nâng cao chất
lượng mũi nhọn cũng như các cuộc thi sáng tạo khoa học, hoàn thành chỉ tiêu giáo dục
THCS.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
*Đối với Giáo Viên

• Giáo viên cần hiểu các đặc tính kỷ thuật của các thiết bị thí nghiệm:
Mỗi dụng cụ có những đặc tính kỹ thuật khác nhau, nên người sử dụng cần hiểu để sử
lý và sử dụng tốt hơn . Trước khi tiến hành một nội dung thí nghiệm, ngoài phương pháp
chung thì khâu quang trọng nhất là cần hiểu đặc điểm cấu tạo của dụng cụ.
Khi tiến hành thí nghiệm, tức là đang xét trong điều kiện thực. Làm thực hành là để
hiểu lý thuyết sâu sắc hơn, chứ không đối chọi với lý thuyết. Vì vậy trong nhà trường
hàng năm có thể phát động thi đua làm đồ dùng dạy học cho các bộ môn . Làm đồ dùng
4


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
cần phù hợp với nguyên lý khoa học và lý luận dạy học giúp học sinh tiếp thu kiến thức
sâu sắc, bền vững và chính xác. Phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học mới, kích
thích hứng thú học tập của học sinh. Đảm bảo nguyên tắc, bền chắc … Hình dáng, kết
cấu, màu sắc phù hợp, dễ sản xuất, rẽ tiền…
• Phải tích cực hóa thí nghiệm trong dạy học Vật Lý:
Thực hành là tích cực hóa việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Nên phải gây được
hứng thú cho học sinh trong từng bước tiến hành thí nghiệm. Mở rộng bài thí nghiệm với
các ứng dụng trong đời sống. Giáo viên phải hiểu dạy Vật Lý có thí nghiệm thì mới làm
sáng tỏ kiến thức một cách đúng đắn, mới làm cho học sinh hiểu được mối quan hệ giữa
Vật Lý và Kỹ Thuật, dễ hấp dẫn hơn dạy chay. Và nhờ đó phát huy được hoạt động tích
cực của học sinh .
• Giáo viên cần nắm được các thủ thuật khi thí nghiệm Vật Lý:
Giáo viên cần phải chú ý đến đặc tính kỹ thuật, phải thử nghiệm thí nghiệm trước. Và
đặc biệt để ý về bố cục của ánh sáng.Cần kiểm tra dụng cụ trước khi làm thí nghiệm. Và
đôi khi thầy giáo phải cần lợi dụng ưu thế của sân khấu để che đi những lỗi của mình (đó
là những sơ suất không lớn lắm)
• Làm được một số thí nghiệm đơn giản, phù hợp với điều kiện hiện có:
Trong chương trình Vật Lý THCS, ngoài các bài thí nghiệm được chỉ định tối thiểu và
đã có các thiết bị đi kèm, thì rất nhiều nội dung chưa có dụng cụ. Điều đó đòi hỏi sự sáng

tạo, tích cực của cả giáo viên và học sinh dể tạo ra những dụng cụ phục vụ nội dung bài
học. Nên hàng năm trường học phát động phong trào tự làm đồ dùng dạy học, đây là hoạt
động rất có ý nghĩa đối với giáo viên Vật Lý. Làm đồ dùng cần phải chắc chắn, thẩm mỹ
và có độ tin cậy, sử dụng được nhiều nội dung mang tính sáng tạo cao .
Chúng ta có thể tự làm một số đồ dùng dạy học, khá đơn giản nhưng hiệu quả giảng
dạy tương đối tốt. Và nếu sản phẩm tự làm tuy không so sánh được thiết bị mua, nhưng
chúng ta sẽ cảm thấy vui, vì đó chính là sự đầu tư suy nghĩ và công sức bỏ ra.
*Đối với học sinh:
-Ví dụ như bài thí nghiệm trên máng nghiêng (lớp 8): Giáo viên phải làm cho Học
sinh hiểu được với độ dốc của máng nghiêng không lớn lắm, có khi thả bánh xa Mắc xoen
nó không lăn xuống mà lăn ngược lên dốc. Vì bên trong của bánh xe khi đúc đã có một
bọt khí lớn làm cho khối lược của một phía nhẹ hơn phía kia tạo nên một mômen quay.
Nếu phần tạo nên mômen quay nằm sau và có độ lớn đáng kể thì làm cho bánh không lăn
xuống dốc. Nếu Giáo viên không để ý thì khi tiến hành thí nghiệm sẽ rất lúng túng .
- Ví dụ xét thí nghiệm của bài Vật Lý 9: Ứng dụng của nam châm. Mục I: Loa điện.
Giáo viên phải làm cho Học sinh nắm được phương pháp tiến hành bài thực nghiệm . Bài
này thực hiện dưới dạng biểu diễn của thầy với sự tham gia tích cực của Học sinh . Theo
các bước: Giới thiệu dụng cụ thí nghiêm, mắc mạch điện, đặt tình huống cho Học sinh để
chuyển quan sát sang nghe, vì loa điện dùng để nghe. Như vậy trong quá trình thí nghiệm,
Giáo viên luôn đặt trong các tình huống tích cực, sẽ phát huy tốt bài giảng mà lượng
thông tin mà học sinh thu nhận được nhiều, nhưng tiết học lại rất thú vị
- Ví dụ khảo sát đường dặc trưng Vôn- Ampe của điện trở. Học sinh cần lưu ý một số
kỹ thuật:
+ Kỹ thuật bố trí dụng cụ trong bài thí nghiệm theo quy tắc: Vào trái ra phải
+ Thủ thuật tiến hành thí nghiệm giả sai số: Nếu lựa chọn R hợp lý và cách thức đóng
ngắt mạch điện đúng sẽ giảm sai số của phép đo.
5


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .

+ Thủ thuật thực hiện thí nghiệm để phép tính toán đơn giản không sai số: Có thể dùng
thêm biến trở điều chỉnh sao cho giá trị của I là số nguyên để cho giá trị U có thể chia hết
khi thực hiện phép tính.
+ Thủ thuật xử lý dụng cụ: Tìm những đặc điểm mà dụng cụ có thể gây lỗi hoặc người
thực hiện khó khảo sát để có phương án thực hiện dễ thành công nhất.
- Giáo viên cùng Học sinh tự làm đồ dùng sau:
+Lực kế lò xo
+Làm chuông điện
+Dụng cụ ứng dụng rơle nhiệt
+Loa điện từ đơn giản
Ví dụ để dạy bài 24, 26 Ứng dụng cưa nam châm, thì thầy và trò có thể làm điện kế
đơn giản với các bộ phận :
Giá bằng gỗ, bảng đứng cài then có thể tháo ra được
Ống dây
Lõi sắt
Dây mảnh không dãn
Ròng rọc nhỏ
Lò xo nhỏ
Kim bằng nhôm mỏng
Bảng chia độ bằng giấy
Trước tiên ta phải có ý tưởng dựa vào kiến thức của bài 24, sau đó là thiết kế, làm
các bộ phận của dụng cụ, lắp ráp và kiểm tra dụng cụ, mở rộng phạm vi ứng dụng(chế tạo
loa điện từ)
* Giáo viên đặt một số câu hỏi để học sinh trả lời .
Trao đổi, nói chuyện với Học sinh về vấn đề tiết học có dụng cụ và tiết học không có
dụng cụ .
+Về vấn đề làm một số dụng cụ sau:
-Làm đàn tam thập lục cho bài nguồn âm của lớp 7.
-Làm con ve ve bài độ to - cao của âm lớp 7.
-Làm hộp to bằng bìa cứng cho bài thực hành nhận biết ánh sáng đơn sắc..lớp 9

+Về vấn đề sử dụng thí nghiệm như:
Dạy học trích đoạn “Tìm hiểu mối quan hệ giữa hiệu điện thế đặt vào hai đầu dây dẫn
và cường độ dòng điện dòng điện chạy qua dây dẫn đó”(Vật Lí 9).
Mục tiêu của thí nghiệm: Trả lời câu hỏi: “Giữa hiệu điện thế đặt vào hai đầu dây dẫn
và cường độ dòng điện dây dẫn đó có mối quan hệ không và nếu có thì mối quan hệ đó
như thế nào?”.
Tìm hiểu các dụng cụ thí nghiệm: Nguồn điện, vôn kế, ampe kế, dây dẫn, công tắc.
Các bước tiến hành thí nghiệm:
Mắc mạch điện gồm nguồn điện, dây dẫn và công tắc, vôn kế đo hiệu điện thế giữa hai
đầu dây dẫn, ampe kế đo dòng điện chạy qua dây dẫn.
Thay đổi hiệu điện thế và đo cường độ dòng điện .
Ghi lại giá trị cường độ dòng điện tương ứng với mỗi giá trị của hiệu điện thế vào bảng
số đã chuẩn bị sẵn .
Xử lí kết quả thu được từ TN: Từ bảng số liệu thu được, vẽ đồ thị biểu thị sự phụ
thuộc của cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn vào hiệu điện thế giữa hai đầu dây. Từ
6


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
đó rút ra kết luận về mối quan hệ này. Đó chính là nội dung của định luật ôm: “Cường độ
dòng điện chạy qua dây dẫn tỉ lệ thuận với hiệu điện thế đặt vào hai đầu dây”.
+Câu hỏi kiểm tra:
Lớp 7: 1.Khi quay con ve ve, cái gì dao động phát ra âm? Quay thế nào âm phát ra
trầm bỗng?(TN này bỗ trợ cho C7 của bài học)
Trả lời: Khi quay con ve ve. Quay nhanh thì âm phát ra trầm, quay chậm âm phát ra
bỗng..
2.Trong thí nghiệm sự truyền âm của chất lỏng H 13.3 SGK âm truyền đến tai
qua những môi trường nào?
Trả lời:Âm truyền đến tai qua môi trường: rắn, lỏng, khí.
Lớp 9: 1.Vẽ đồ thị biểu thị sự phụ thuộc của cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn

vào hiệu điện thế giữa hai đầu dây. Từ đó rút ra mối quan hệ giữa I và U ?
Trả lời: HS vẽ hình. Cường độ dòng điện chạy qua một dây dẫn tỉ lệ thuận với hiệu
điện thế đặt vào hai đầu dây dẫn đó.
Sau đây Tôi xin đưa ra một vài bộ đồ dùng dạy học mà Tôi và đồng nghiệp đã tự
làm và hiệu quả của nó mang lại:

7


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .

BỘ THÍ NGHIỆM ĐIỆN HỌC 7 – 9, ĐIỆN TỪ HỌC 9
I. Thông tin chung:
Trong thực tiễn giảng dạy bộ môn Vật lí THCS nói chung và bộ môn Vật lí 9 nói
riêng Tôi nhận thấy bộ dụng cụ phòng thí nghiệm phần điện từ học sử dụng chưa hiệu quả
lắm ở một số nội dung, có một số dụng cụ không có, gây ảnh hưởng đến hiệu quả dạy
học, kích thích hứng thú học tập của học sinh chưa cao. Để gây hứng thú cho học sinh
trong học tập và giúp học sinh hiểu bài, nhớ bài lâu hơn Tôi quyết định chọn ý tưởng thiết
kế bộ dụng cụ thí nghiệm về “Tác dụng từ của dòng điện”. Cải tiến bộ dụng cụ trong
phòng thí nghiệm.
II. Công dụng(chức năng của ĐDDH tự làm):
Bộ dụng cụ này phục vụ giảng dạy cho hầu hết các bài phần điện học, điện từ học
của lớp 9 và phần điện học của lớp 7. Sau đây tôi xin giới thiệu một vài thí nghiệm cụ thể.
Đối với lớp 9:
Bài 22. Tác dụng từ của dòng điện – Từ trường/ trang 61 SGK
Bài 25. Sự nhiễm từ của sắt, thép - Nam châm điện/ trang 68 SGK
Bài 26. Ứng dụng của nam châm điện/ trang 70 SGK
Bài 27. Lực điện từ/ trang 73 SGK
Đối với lớp 7:
Bài 22. Tác dụng nhiệt và tác dụng phát sáng của dòng điện/ trang 60, 61 SGK.

Bài 23. Tác dụng từ, tác dụng hóa học sủa dòng điện/ trang 63, 64 SGK.
III. Quy trình thiết kế đồ dùng dạy học tự làm:
1.Nguyên tắc và cấu tạo:
Đồ dùng dạy học này bao gồm: Nguồn điện, biến trở, công tắc, ampe kế, vôn kế,
kim nam châm, nam châm chữ U, la bàn, ống dây có lõi sắt – thép, đinh ghim, ống dây,
đoạn dây AB, bóng đèn, dây đồng, dây sắt, bình đựng dung dịch CuSO 4 có nắp nhựa gắn
hai đầu thỏi than, các đoạn dây dẫn có chiều dài – tiết điện – vật liệu khác nhau, đèn LED,
bảng điện đa năng.
Công dụng của các bộ phận:
a. Nguồn điện: Có tác dụng cung cấp dòng điện để các thiết bị hoạt động.
b. Biến trở: Dùng để điều chỉnh điện trở của mạch và từ đó điều chỉnh cường độ
dòng điện.
c. Công tắc: Dùng đóng ngắt mạch điện.
d. Ampekế: Đo cường độ dòng điện.
e. Kim nam châm, nam châm chữ U, la bàn: Phát hiện ra từ trường, để tạo ra từ
trường, so sánh góc lệch khi cuộn dây có lõi sắt và không.
f. Ống dây có lõi sắt – thép, đinh ghim: Để biết từ tính của chúng khi ngắt dòng
điện.
g. Ống dây, đoạn dây AB: Để biết được khi có dòng điện thì có hiện tượng gì xảy
ra với ống dây ( nghiên cứu hoạt động của loa điện)
h. Bảng điện đa năng: Dùng làm giá để lắp ráp các dụng cụ cho tất cả các bài.
2. Nguyên vật liệu:
Các chi tiết ở mục III.1 đều gồm 1 chi tiết.
Nguyên vật liệu gồm: Đồng, thép, sắt, nhựa, dây dẫn.
3. Cách làm:
8


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
Tận dụng một số dụng cụ đã có trong phòng TN.

Dùng dây đồng uốn thành một cuộn dây, đoạn dây AB, cắt lá thép thành hình nam
châm, tạo giá đỡ trên bảng gỗ, cắt đoạn dây đồng- sắt.
4. Lắp ráp và bố trí ĐDDH tự làm:
Mắc mạch điện như hình (22.1/61 SGK Vật lí 9). Các TN có cách bố trí tương tự
nhau.
IV. Hướng dẫn, khai thác, sử dụng:
Thí nghiệm 1: Tìm hiểu tác dụng từ của dòng điện lên kim nam châm
Ưu điểm: Dụng cụ của phòng TN do giá đỡ dây dẫn AB thấp phải dùng la bàn, góc
nhìn không rõ, học sinh toàn lớp không quan sát được. Trong TN của tôi thì dùng kim
nam châm thay thế cho la bàn, nên toàn lớp có thể quan sát được hiện tượng kim nam
châm không còn song song với dây dẫn nữa một cách rõ ràng, các em sẽ tập trung vào bài
và hiểu bài hơn.

Thí nghiệm 2: Nghiên cứu sự nhiễm từ của sắt, thép.
Ưu điểm: Đồ dùng ở phòng TN có kim nam châm. Ở TN của tôi dùng một thanh
thép treo trên sợi chỉ mảnh, như vậy học sinh cả lớp quan sát được góc lệch của kim nam
châm rõ ràng hơn so với dùng la bàn, các em dễ hình dung và rút ra kết luận.

9


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .

Thí nghiệm 3:
Ưu điểm: TN2 và 3 của phòng TN chỉ có 1 ống dây. Nhưng TN của tôi hai ống dây
được đấu nối tiếp, lực từ sẽ mạnh hơn, gây được hứng thú học tập và tính tò mò của học
sinh.
Thí nghiệm 4: Nghiên cứu ứng dụng của nam châm (hoạt động của loa điện)

Thí nghiệm 5: Nghiên cứu tác dụng của từ trường lên dây dẫn có dòng điện ( lực

điện từ)
Ưu điểm: TN này có đoạn dây dẫn AB mà trong phòng TN không có, thông
thường giáo viên dạy bài này có thể dùng loa điện thay thế hoặc là dạy chay, không gây
được hứng thú và tính tò mò của học sinh. Nói nhiều nhưng học sinh vẫn không hình
dung được đoạn dây dẫn AB dịch chuyển như thế nào. Khi có đoạn dây học sinh sẽ biết
lúc đầu đoạn dây dịch chuyển vào trong. Đảo chiều dòng điện đoạn dây sẽ dịch chuyển ra
phía ngoài.

10


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
Thí nghiệm 6: Nghiên cứu tác dụng nhiệt và tác dụng phát sáng của dòng điện.
Mắc mạch điện như H.22.1/60 và TN H.22.5/62 SGK Vật lí 7. Có thể dùng biến thế và
hiệu điện thế lớn hơn để HS cảm giác độ nóng của bóng đèn và dây sắt tốt hơn, học sinh
sẽ nắm được tác dụng nhiệt chắc chắn.
Thí nghiệm 7: Nghiên cứu tác dụng từ, tác dụng hóa học của dòng điện. Mắc
mạch điện như H.23.1/63,H.23.3/64 SGK Vật lí 7. Đưa một đầu cuộn dây lại gần vụn sắt,
đồng. Quan sát xem có hiện tượng gì xảy ra khi công tắc đóng và ngắt? Đưa kim nam
châm lại gần một đầu cuộn dây và đóng công tắc xem có hiện tượng gì? Ở TN H.23.3/64
có thể dùng biến thế thay cho pin ( với hiệu điện thế lớn) thì hiện tượng đồng bám trên
thỏi than nối với cực âm diễn ra nhanh và rõ ràng hơn.
V. Những điểm cần lưu ý khi sử dụng, bảo quản:
Nếu dùng nguồn điện bằng pin thì cần tháo pin ra khi không sử dụng, để pin dùng
được lâu hơn và không làm rĩ giá đỡ.
Sử dụng các đồ dùng đặc biệt đoạn dây, ống dây phải cẩn thận nhẹ nhàng tránh méo
móp. Như vậy dụng cụ mới dùng được lâu.
Tóm lại bộ dụng cụ thí nghiệm của tôi có ưu điểm: đơn giản, gọn nhẹ, dễ sử dụng, rẻ
tiền, tận dụng được một số dụng cụ có sẳn.
Đồ dùng này đảm bảo chính xác, khoa học. Đảm bảo an toàn cho người dạy và học,

học sinh dễ dàng quan sát tiếp thu kiến thức của bài học. Có thể sử dụng trong nhiều tiết
học, nhiều năm.
Ngoài ra giáo viên có thể dùng bộ dụng cụ này để hướng dẫn học sinh lớp 7 mắc sơ
đồ mạch điền ở một số bài.

11


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .

MÁY PHÁT ĐIỆN ĐƠN GIẢN
I. Thông tin chung:
Lí do cải tiến: Trong đồ dùng dạy học của trường đã có máy phát điện xoay chiều
nhưng với bộ đồ dùng ở trường học sinh chỉ nhìn thấy cuộn dây quay tạo ra dòng điện.
Tôi thiết kế không chỉ mỗi cuộn dây quay mà có cả trường hợp nam châm quay. Tôi đã
lấy ý tưởng từ việc sử dụng nguồn năng lượng gió và năng lượng thủy điện.
Đồ dùng này tôi tiến hành cải tiến vận dụng sức gió và sức nước làm cho nam
châm và cuộn dây quay thay vì sử dụng tác dụng quay tay.
II. Công dụng ( chức năng của đồ dùng dạy học tự làm):
Với đồ dùng này ta có thể dạy được môn Vật lí lớp 9 ở các bài như:
+ Bài 28: Động cơ điện một chiều
+ Bài 33: Dòng điện xoay chiều
+ Bài 34: Máy phát điện xoay chiều
+ Bài 35: Các tác dụng của dòng điện xoay chiều - Đo cường độ và hiệu điện thế
xoay chiều.
+ Bài 38: Thực hành vận hành máy phát điện xoay chiều, máy biến thế.
III. Quy trình thiết kế đồ dùng dạy học tự làm:
1. Nguyên tắc và cấu tạo:
Đồ dùng dạy học hoạt động dựa vào nguyên tắc hoạt động của máy phát điện:
+ Khi cho nam châm quay trước cuộn dây dẫn kín (nhờ vào sức nước) tạo ra dòng

điện xoay chiều
+ Khi cho cuộn dây dẫn quay trong từ trường (nhờ vào sức gió) tạo dòng điện xoay
chiều. Ta biết rằng điều kiện để xuất hiện dòng điện cảm ứng trong cuộn đây dẫn kín
là số đường sức tứ xuyên qua tiết diện S của cuộn dây đó biện thiên (do cuộn dây quay
tròn hoặc nam châm quay tròn) thì dòng điện cảm ứng xuất hiện trong cuộn dây cũng
luân phiên đổi chiều. Đó chính là nguyên tắc của máy phát điện xuay chiều.
- Đồ dùng dạy học gồm các chi tiết sau:
+Cuộn dây dẫn .
+Bộ góp điện.
+Thanh quét.
+Nam châm vĩnh cửu.
+Bộ truyền lực.
+Quạt gió.
+Quạt nước.
+Đèn led.
+Ampe kế.
+Vôn kế.
2. Nguyên vật liệu
+Tấm sắt dài khoảng 30cm
+Hai trục thẳng đứng cố định có gắn ổ bi (có thể lấy vòng sắt ở phuộc nhún xe
máy).
+Thanh sắt nằm ngang dài khoảng 15 cm.
+ Hai trục nằm ngang dài khoảng 10 cm – 15cm (lấy ở quạt hỏng)
+ Nam châm vĩnh cửu.
+ Hai cuộn dây dẫn.
12


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
+ Hai đèn led

+ Bảng Mêca.
+ Một quạt gió.
+ Một quạt nước.
+ Keo dán 502, búa, bạc đạn, máy hàn…
3. Cách làm:
- Sử dụng cuộn dây có sẵn trong phòng thiết bị.
- Trên trục ngang thứ nhất ta bố trí bộ góp điện, cuộn dây rồi đến quạt gió.
- Nối cuộn dây dẫn vào bộ góp điện, mắc vào hai đầu cuộn dây dẫn 10 đèn
led (hai màu khác nhau) song song và ngược chiều nhau.
- Ta gắn vít mắc bảng mêca trên vào trục ngang thứ hai, đầu còn lại mắc
vào đó một buli.
- Bắt vít quạt nước với một buli có đường kính lớn hơn. Vít cố định bộ phận
này vào tấm đế sao cho quạt nước quay ra ngoài.
- Trên hai trục thẳng đứng cố định ta lắp các ổ bi để đỡ hai thanh ngang.
- Hàn hai trục cố định trên tấm đỡ (ta phải bố trí các trục cho phù hợp) để bố
trí hai trục ngang.
- Hàn thanh sắt nằm ngang để giữ hai thanh sắt.

4. Lắp ráp và bố trí đồ dùng dạy học tự làm:
Cách lắp ráp:
- Đặt thanh ngang có cuộn dây vào phía có trục thẳng đứng, lắp đặt sao cho khớp
với ổ bi. Bố trí sao cho quạt gió nằm phía ngoài nơi có thể lấy được hướng gió
trời.
- Bố thí quạt điện để cung cấp gió cho học sinh quan sát.
- Đặt thanh ngang có nam châm vào phía hai trục thẳng đứng, lắp đặt sao cho
khớp với ổ bi. Bố trí sao cho quạt nước ở phía ngoài, trục này không chạm vào
cuộn dây.
- Đối với mô hình này nếu bố trí được sức nước với tốc độ lớn thì sẽ làm quay
rất mạnh.
IV. Hướng dẫn khai thác, sử dụng:

- Dịch chuyển thanh quét phù hợp tạo dòng điện một chiều để dạy bài học động
cơ điện một chiều, khi dạy bài này giáo viên chỉ cho học sinh biết cấu tạo động
cơ điện một chiều gồm hai bộ phận chính là nam châm và khung dây dẫn. Tiến
hành làm quạt gió quay ta thấy bóng đèn màu xanh sáng, sau đó ta thay đổi
chiều đường sức từ bằng cách xoay nam châm thì thấy bóng đèn màu xanh tắt
bóng đèn màu đỏ sáng.
13


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
-

Đối với bài dòng điện xoay chiều, máy phát điện xoay chiều ta có thể biểu diễn
cả hai cách tạo ra dòng điện xoay chiều.
+ Trường hợp 1: Ta lơi dụng sức gió trời (nếu ta làm thí nghiệm gió trời quá nhẹ ta
có thể sử dụng quạt điện) làm cánh quạt quay lúc này nam châm đứng yên. Ta thấy
bóng đèn thay phiên nhau nhấp nháy chứng tỏ có dòng điện xoay chiều chạy qua bóng
đèn.

+Trường hợp 2: Ta dội nước vào quạt nước thì quạt nước quay làm nam châm
quay, lúc này cuộn dây đứng yên. Ta thấy bóng đèn thay phiên nhau nhấp nháy chứng
tỏ có dòng điện

- Đối với bài 35 ta tiến hành đo cường độ dòng điện và hiệu điện thế xoay chiều:
Mắc ampe kế nối tiếp với bóng đèn, mắc vôn kế song song với bóng đèn, tiến hành quay
quạt gió hoăc quạt nước, đo cước độ dòng điện và hiệu điện thế xoay chiều.

14



Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
V. Những điểm cần lưu ý khi sử dụng, bảo quản:
- Khi sử dụng sức gió để quạt quay ta không sử dụng động cơ nào cả nên cần tận
dụng gió trời tối đa. Trong quá trình hướng dẫn ta có thể nói cho học sinh biết là quá trình
khai thác nguồn năng lượng tự nhiên.
- Về trường hợp làm nam châm quay ta sử dụng nguồn năng lượng nước và ta cũng
cần liên hệ cho học sinh biết được cách sản xuất điện của nhà máy thủy điện.
- Trường hợp dội nước vào quạt nước rất khó thực hiện vì lực sinh công rất nhỏ
nên không thể quay quạt nước được, chính vì vậy đối với phần thực hành này giáo viên có
thể hướng dẫn cho học sinh hiểu và có thể dùng tay làm quay quạt nước.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
Muốn làm tốt một bộ dụng cụ thí nghiệm nào đó đòi hỏi sự nhiệt tình chịu khó của
giáo viên rất nhiều, phải không ngại gian gian lao vất vả. Bên cạnh đó cần sự giúp đỡ và
kết hợp của các bộ phận khác như: giáo viên bộ môn, học sinh trong lớp, lảnh đạo các
cấp, gia đình và nhà trường, các cấp lảnh đạo.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Khi kết hợp được vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác xã hội
hóa giáo dục sẽ giúp cho người giáo viên và học sinh có thể làm ra những sản phẩm dạy
học đạt chất lượng cao, hiệu quả của nó đem lại rỏ rệt, và số học sinh khá giỏi ngày càng
nhiều.
Đặc biệt là vai trò của giáo viên, nếu làm tốt một bộ thí nghiệm thì chất lượng dạy
học sẽ đạt kết quả cao. Mình giúp đỡ học sinh thì học sinh sẽ giúp đỡ lại mình, đó là việc
các em chăm ngoan học giỏi, không chán học.
4.Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Qua trao đổi, nói chuyện, đặt câu hỏi vấn đáp, trả lời các câu hỏi Tôi thấy: Kết quả
những lớp được làm thí nghiệm, có đồ dùng học tập đầy đủ, tự mình làm đồ dùng và thí
nghiệm thì tiết học:
Kích thích mạnh tính hứng thú học tập của học sinh, nhất là những TN kèm theo màu
sắc, âm thanh và liên quan đến những hiện tượng mới lạ.
Tiết kiềm thời gian trên lớp so với phương pháp dùng lời .

Tạo điều kiện rèn luyện kỹ năng quan sát cẩn thận, tỉ mĩ, kỹ năng lắp ráp dụng cụ TN
chính xác và tác phong làm việc khoa học.
Có sức thuyết phục lớn và tạo ra ở HS niềm tin vào bản chất của sự vật và hiện tượng,
vào các quy luật của tự nhiên .
Tạo điều kiện tốt để rèn luyện ở HS khả năng phân tích, so sánh, đối chiếu, trừu tượng
hóa, khái quát hóa, cũng như khả năng suy luận quy nạp trong quá trình xử lí kết quả TN
để rút ra kết luận .
Việc tiến hành TN thường cần sự phối hợp nhịp nhàng của một vài HS . Ví dụ, có HS
phải đọc đồng hồ đo thời gian, trong khi đó phải có HS đọc số chỉ của vôn kế, ampe kế
hay nhiệt kế. Sau đó quá trình xử lí kết quả đo để rút ra nhận xét, kết luận đều cần sự trao
đổi, tranh luận giữa các Hs với nhau . Vì vậy phương pháp này để tạo cơ hội để tổ chức
học tập theo nhóm, qua đó tạo ra sự tương tác giữa HS với nhau trong quá trình học tập.
Tôi đã lựa chọn những lớp có trình độ ngang nhau, và kết quả bài kiểm tra thể hiện
như sau:
15


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
Lớp 7A2 có sử dụng con ve ve cho bài độ to của âm. Trong thí nghiệm sự truyền âm
trong chất lỏng có dùng dụng cụ thí nghiệm như H13.3 SGK. Tôi thấy HS rất thích thú,
vui vẽ, tham gia tiết học nhiệt tình, em nào cũng tranh nhau lên làm TN. Mà Tôi thì không
phải nói nhiều vì qua TN các em đã tự rút ra kết luận và có niềm tin vào nó vì chính tay
mình làm TN, chính tai mình nghe thấy. Bản thân Tôi cũng thấy vui vẽ, hài lòng với tiết
dạy của mình. Cụ thể điểm của bài kiểm tra là:
Tổng số
Điểm Giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm Yếu
40HS

4HS
16HS
15HS
5HS
Còn ở lớp 7A3 không dùng con ve ve, không dùng TN như H13.3 SGK mà Tôi chỉ mô
tả bằng lời. Các em hãy tưởng tượng là cô đang quay con ve ve. Hãy tượng đây là chậu
nước này, đây là nguồn âm cô bỏ vào chậu nước. Lắng nghe âm và trả lời câu hỏi trên?
Tôi nhận thấy HS dường như mơ hồ, không mấy hứng thú với việc TN như vậy, vì các
em đã thường xuyên được làm TN. Thậm chí còn có em nói thầm không có dụng cụ chán
thật. Nhiều em có vẽ mặt như thất vọng. Kết quả của bài kiểm tra như sau:
Tổng số
Điểm Giỏi
Điểm Khá
Điểm TB
Điểm Yếu
39HS
2HS
12HS
14HS
11HS
Lớp 9A6 Tôi cho HS trực tiếp làm TN với bộ dụng cụ mà Tôi đã làm ra, đó là bộ dụng
cụ phần điện từ học và kết quả cũng tương tự như lớp 7A2. Học sinh rất thích thú và hăng
say học tập.
Tổng số
Điểm Giỏi
Điểm Khá
Điểm TB
Điểm Yếu
36HS
5HS

14HS
14HS
3HS
Còn lớp 9A5 Tôi chỉ cho các em làm thí nghiệm với loa điện thay cho khung dây, học
sinh nhiều em cứ nghĩ loa điện chính là khung dây và kết quả của bài kiểm tra:
Tổng số
Điểm Giỏi
Điểm Khá
Điểm TB
Điểm Yếu
34HS
2HS
6HS
17HS
9HS
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Sử dụng các dụng cụ thí nghiệm là yêu cầu bắt buộc trong giảng dạy và học tập bộ
môn Vật Lí. Sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả không những nâng cao chất lượng
giảng dạy mà còn làm cho việc học tập của học sinh hứng thú và nhẹ nhàng hơn. Để đổi
mới phương pháp dạy học, chuyển phương thức học tập thụ động sang tích cực thì việc
đưa thực nghiệm vào dạy học là điều kiện thích hợp. Vì vậy mỗi giáo viên phải tự nghiên
cứu kĩ các phương pháp dạy học và tự rèn kĩ năng thực nghiệm .
Làm đồ dùng dạy học không chỉ chúng ta có phương tiện để dạy học, mà còn làm cho
kiến thức được phong phú hơn, tạo cho chúng ta có nhạy cảm hơn với các thiết bị thí
nghiệm mới khác, bởi con đường tư duy tìm tòi ra phương án thiết kế một dụng cụ nào đó
cần nhiều kiến thức tổng hợp về kĩ thuật. Do vậy, là giáo viên Vật Lí cần phải rèn luyện
cho bản thân có thói quen nghiên cứu, tìm tòi để có thể làm ra một số dụng cụ thí nghiệm
khoa học và thú vị.
Thao tác thí nghiệm là một việc khó, vì không chỉ đưa ra kết quả thực nghiệm tốt, mà

trong mỗi động tác của người thầy đều mang tính sư phạm. Để có những thao tác đẹp,
chính xác và thuyết phục thì chúng cần được rèn luyện thành những kĩ năng thực hành.

16


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
Tiếp xúc nhiều, làm nhiều với thiết bị dần dần chúng sẽ có kỹ năng thực hành tốt, có
nhiều kinh nghiệm hay và chắn chắn kết quả sẽ tốt.
Chính vì vậy Tôi mong rằng mỗi Giáo viên chúng ta khi tiến hành một TN nào đó thì
cần phải chú ý:
- Phải chuẩn bị TN cẩn thận trước khi đưa TN vào dạy .
- Cần suy nghĩ tới các tình huống TN không thành công, từ đó tìm ra nguyên nhân để
khắc phục. Nên trao đổi với các đồng nghiệp về các tình huống này để rút kinh nghiệm và
học hỏi lẫn nhau .
Đặc biệt mỗi Giáo viên chúng ta muốn dạy tốt một TN Vật Lí thì điều quan trọng là
phải nắm được bản chất của phương pháp TN Vật Lí và quy trình dạy học theo phương
pháp TN Vật Lí.
Mỗi giáo viên phải là một tấm gương sáng đi đầu trong việc làm ra một số bộ dụng
cụ thí nghiệm mang lại hiệu quả trong việc dạy học. Có như thế mới động viên học
sinh tự làm đồ dùng học tập cho riêng mình.
2. Kiến nghị:
a. Đối với lảnh đạo:
Vì Giáo viên phải chuẩn bị và tiến hành TN trước khi làm trên lớp, tốn khá nhiều thời
gian và công sức. Đề nghị các cấp có thẩm quyền tính toán chế độ thỏa đáng cho chúng
Tôi. Như bản thân Tôi dạy Vật Lý 7, 8; Công Nghệ 8. Một tuần ngoài chuẩn bị 4 bộ dụng
cụ cho môn Lý 7, 8 còn phải chuẩn bị rất nhiều dụng cụ cho môn công nghệ, mất rất
nhiều thời gian…
Vì yêu cầu TN tiến hành phải thành công ngay, nếu không sẽ không đủ thời gian
giảng dạy trên lớp . Đề nghị cung cấp thiết bị phải đúng tiêu chuẩn .

Đề nghị phòng Vật Lý phải rộng hơn các phòng học thường để có ngăn tủ bảo quản
dụng cụ . Như thế sẽ bảo quản dụng cụ tốt hơn, nên thời gian sử dụng sẽ lâu dài hơn.
b. Đối với giáo viên:
c. Đối với học sinh:

Ngày 27 tháng 1 năm 2015
Người thực hiện

Nguyễn Thị Thanh Trưng

17


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .

MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

Trang 1
Trang 1
Trang 1
Trang 2
Trang 2

II. PHẦN NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận để thực hiện đề tài
2. Thực trạng
a. Thuận lợi, khó khăn
b. Thành công, hạn chế
c. Mặt mạnh, mặt yếu
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
e. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng
3. Một số biện pháp, giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của …
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận
2. Kiến nghị

Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 4
Trang 4
Trang 5
Trang 16
Trang 16
Trang 16

Trang 17
Trang 18

18


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm lí học học sinh THCS
2. Tư tương Hồ Chí Minh về nghề dạy học
3. Quan điểm tư tưởng của Đảng về nghề dạy học
4. Sách GK Vật Lí 7 (NXBGD)
Sách GV Vật Lí 7 (NXBGD)
Sách GK Vật Lí 9 (NXBGD)
Sách GV Vật Lí 9 (NXBGD)
Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên và cơ sở Vật Lí học (NXBGD)
Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học (NXBGD)
Tài liệu tập huấn Giáo viên cốt cán môn Vật Lí (NXBGD)

Tài liệu đổi mới việc làm và sử dụng dụng cụ dạy học

19


Đề tài: Một số kinh nghệm về việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học tự làm .
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM CẤP TRƯỜNG
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

……………………………………………………

20



×