Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

đảng bộ tỉnh quảng bình lãnh đạoxây dựng và phát triển nguồn nhân lực thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1997 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 137 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====***=====

NGUYỄN THỊ HOÀN

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC THỜI
KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
(1997 – 2010)

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2012

0


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====***=====

NGUYỄN THỊ HOÀN

ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC THỜI
KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
(1997 – 2010)
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56


Người hướng dẫn: PGS. TS Triệu Quang Tiến

HÀ NỘI - 2012
1


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ........................................................................................................ 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... 3
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
VĨNH PHÚC VỀ XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC (1997 – 2005) ..... 11
1.1 Yêu cầu khách quan xây dựng nguồn nhân lực ở tỉnh Vĩnh Phúc….11
1.1.1 Khái niệm và vai trò nguồn nhân lực .................................................. 11
1.1.2 Tình kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc tác động tới xây dựng nguồn nhân
lực

………………………………………………………………..…….20

1.1.3 Tình hình nguồn nhân lực ở Vĩnh Phúc khi Tỉnh mới tái lập ............. 23
1.2 Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng chủ trương của Đảng xây dựng
nguồn nhân lực (1997 – 2005)…………………………………….………..27
1.2.1 Chủ trương của Đảng về xây dựng nguồn nhân lực ........................... 27
1.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng nguồn nhân lực
(1997 – 2005) ............................................................................................... 41
1.2.3 Quá trình chỉ đạo xây dựng nguồn nhân lực ở Vĩnh Phúc (1997 –
2005) ………………………………………………………………….…..45
TIỂU KẾT....................................................................................................... 57
CHƯƠNG 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH

VĨNH PHÚC XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC (2005 –
2010)................................................................................................................ 59
2.1 Yêu cầu mới trong xây dựng NNL của tỉnh…………………….…….59
2.1.1 Bối cảnh............................................................................................... 59
2.1.2 Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc ................... 61

1


2.2 Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng chủ trương của Đảng vào xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực (2005 – 2010)…………………………..…..63
2.2.1 Chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nguồn nhân lực ...... 63
2.2.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực (2005 – 2010) ................................................................................ 66
2.3 Quá trình chỉ đạo xây dựng và phát triển nguồn nhân lực ở Vĩnh
Phúc (2005 – 2010)………………………………………………………….72
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
VĨNH PHÚC VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC…………………………………………………………………...…….95
3.1 Một số kết quả trong xây dựng và phát triển nguồn nhân lực……....95
3.1.1 Thành tựu ............................................................................................ 95
3.1.2 Hạn chế .............................................................................................. 106
3.2 Một số kinh nghiệm chủ yếu………………………………………….111
KẾT LUẬN .................................................................................................. 122
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 127

2



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1.

CN - XD: Công nghiệp – xây dựng

2.

CNH: Công nghiệp hóa

3.

HĐH: Hiện đại hóa

4.

HS-SV: Học sinh – Sinh viên

5.

KHKT: Khoa học – Kỹ thuật

6.

NNL: Nguồn nhân lực

7.

Nxb: Nhà xuất bản

8.


TCCN: Trung cấp chuyên nghiệp

9.

THCS: Trung học cơ sở

10.

THPT: Trung học phổ thông

11.

UBND: Ủy ban nhân dân

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một đất nước muốn phát triển cần phải có các nguồn lực: Vốn, khoa học
- công nghệ, tài nguyên và con người. Trong thời đại công nghiệp hóa và hiện
đại hóa, kinh tế tri thức, nguồn nhân lực, yếu tố con người giữ vị trí trung tâm
và quan trọng nhất. Điều này cũng đã được C.Mác khẳng định rằng: Dù ở thời
đại nào, hay hình thái kinh tế xã hội nào thì con người cũng luôn giữ vai trò
quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Con
người chính là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Con người – nguồn nhân
lực luôn chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực.
Ở nước ta, nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định vì
nguồn lực tài chính còn hạn hẹp. Nguồn nhân lực chất lượng cao là những

người có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo,
bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền
khoa học công nghệ hiện đại. Nhận thức được vai trò nguồn lực con người,
Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Phát triển
nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững …”, “Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định
sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa …”.[15,
tr.201].
Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, hiệu quả chưa cao, chưa đáp
ứng được được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa tương xứng với tiềm
năng của đất nước.
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, một trong
những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, công nghiệp ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, đầu tư vào địa bàn ngày càng tăng...

4


Trước đòi hỏi của một tỉnh trọng điểm kinh tế, trọng điểm công nghiệp, yêu
cầu xây dựng và phát triển nguồn nhân lực ở địa phương là hết sức bức thiết.
Bởi vì, nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội
nhanh và bền vững, là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trước những yêu
cầu đó, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã tập trung xây dựng, phát triển nguồn nhân
lực và đã thu được nhiều kết quả. Song cũng còn một số hạn chế và nảy sinh
những vấn đề mới. Việc nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực trong những năm đẩy mạnh CNH,
HĐH là cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Do đó
tôi chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng và phát triển

nguồn nhân lực thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1997 2010)” làm luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài.
Vấn đề nguồn nhân lực, nguồn nội lực của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới được nhiều nhà khoa học và quản lý trong, ngoài
nước quan tâm, nghiên cứu, tổng kết. Nhiều công trình nghiên cứu đã được
xuất bản, nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế đã bàn về vấn đề này,
nhưng chỉ dừng lại ở từng mặt của vấn đề như:
(199

của P S, TS Trần Xuân Cầu

và P S, TS Mai Quốc Chánh, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân. Các tác giả đề
cập chủ yếu tới việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và quản lý nguồn
nhân lực.
P

ển ngu

c phục vụ ô

ệp óa,

ệ đạ

óa đất

ước (2002) của tác giả Nguyễn Thanh, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Tác
giả đã phân tích rõ con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế. Đặc biệt trong sự nghiệp CNH, HĐH cần phải phát triển mạnh

5



giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người với tư cách là yếu tố cơ
bản, là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển nhanh và bền vững.
dục kỹ thuật - nghề nghiệp và p

ển ngu

c (2002)

của tác giả Trần Khánh Đức, Nxb iáo dục. Tác giả nhấn mạnh: Trong xu thế
mở cửa ngày nay, trình độ nhận thức của con người ngày càng cao, con người
cần phải có kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình lao động, trình độ lao động. Để có
thể bắt kịp được các nước, chúng ta cần phải giáo dục kỹ thuật - nghề nghiệp
cho người lao động và phát huy vai trò của con người.
P



dụ và đà



à (2002) của hai tác giả Nghiêm

Đình Vỳ - Nguyễn Đắc Hưng, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Các tác giả đã
đề cập tới vai trò của giáo dục, đào tạo và khẳng định:

iáo dục, đào tạo


chiếm vị trí quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực.
N

(2005) của tác giả Nguyễn Tiệp, Nxb Lao động xã hội,

với nội dung chủ yếu đề cập về các vấn đề liên quan đến nguồn nhân lực như:
Khái niệm, vai trò, đào tạo nguồn nhân lực, dự báo và quản lý nguồn nhân
lực…
P

y

nl

ườ để ô

ệp óa,

ệ đạ

óa, k

quốc t và V ệt Nam (2005) của tác giả Vũ Bá Thể, Nxb Lao động xã hội. Tác
giả cũng đề cập tới việc phát huy nhân tố con người trong thời đại CNH,
HĐH đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đà

ạo, b

dưỡ


và sử dụng ngu n l

à

ă

,k

ệm của th

giới (2005) của tác giả Trần Văn Tùng, Nxb Thế giới. Tác giả nêu rõ: nhân tố
con người gắn liền với yêu cầu phát triển, đổi mới đất nước, con người có vai
trò quyết định trong phát triển kinh tế xã hội. Với trình độ tri thức của con
người Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng tài
năng con người như thế nào cho có hiệu quả. Ngoài ra cần phải biết vận dụng
những kinh nghệm của thế giới để xây dựng nguồn nhân lực đạt hiệu quả cao.

6


Còn có hàng loạt các cuốn sách đề cập đến nhiều nội dung khác nhau của
vấn đề nguồn nhân lực như: Tuyển tập các công trình nghiên cứu và báo cáo
khoa học của nhiều tác giả với tiêu đề Từ chi
í

s

p


y u tố

ển ngu
ười trong l

ượ p

c (2002 , Nxb



iáo dục. Cuốn P
về

của TS Lê Quang Hoan, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. N


y

ượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay (2002) của Hồ

Anh Dũng, Nxb Khoa học xã hội. Tư ưởng H C í M
p

dụ đ n

ười (2002)
ê

ứu chỉ số


ười (HDI) của Việt Nam (2008) do P S.TS Đặng Quốc Bảo

chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Ngoài ra còn có nhiều bài báo đã đăng trên các tạp chí chuyên ngành
như: “Con người nguồn nhân lực, sự nghiệp giáo dục đào tạo với quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (1996) của tác giả Nguyễn Trọng
Bảo đăng trên Tạp

í Đại họ và

dụ



ệp (số 3); “Phát triển

nguồn nhân lực của Việt Nam đến năm 2010” (1997 của Nguyễn Thị Hằng
trên Tạp

í ộng sản (số 7); “Đi vào thế kỷ XXI phát triển nguồn nhân lực

phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (5-2003) của GS.VS Phạm
Minh Hạc trên Tạp

íN

ê

ứu (số 2); “Phát triển nguồn nhân lực Việt


Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa” (2006) của Mạc Văn Tiến trên Tạp
độ

í La

xã ội (số 264); “Quy hoạch nguồn lực quốc gia” (26-11-2011) của Phó

Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân trên b

T ền Phong… Các công trình này đã

đề cập đến đặc điểm, vai trò của nguồn nhân lực trên các phương diện là động
lực quan trọng cho sự phát triển, khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên các công trình đó nghiên cứu trên một địa bàn lớn, đề xuất những
vấn đề ở tầm vĩ mô, không mang tính đặc thù chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.

7


Cũng có một số luận văn, luận án nghiên cứu về nguồn nhân lực như:
“Chi

ượ

d ng chủ

ười của Đảng Cộng sản Việ Nam

ĩa xã ội ở ước ta từ ăm 1975 đ

ô

ộ x y

ay” (1995), luận án tiến sĩ

của Hoàng Thị Hằng. Tác giả đã đưa ra những phương hướng, chiến lược,
quan điểm của Đảng về việc phát triển vai trò con người trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. “Tư ưởng H C í M
p
hiệ

y



ười tro

ô

ệp óa,

về
ệ đạ

ười với việc
óa ở Việt nam


ay” (2001), luận án tiến sĩ của Lê Quang Hoan. Tác giả đã đưa ra

những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc phát huy nguồn lực con
người trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. “P
thời kỳ ô

ệp óa,

ệ đạ

óa ở tỉ

ển ngu
T a

Hóa đ

c trong
ăm 2010”

(2002), luận án tiến sĩ kinh tế của Bùi Sĩ Lợi. Tác giả đã nêu ra thực trạng và
vai trò nguồn nhân lực tỉnh Thanh Hóa, từ đó có những giải pháp xây dựng,
phát triển nguồn nhân lực của tỉnh đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. “P
hiệ đạ

ển ngu

c cho s nghiệp ô


ệp óa,

óa ở T y N yê ” (2007), luận án tiến sĩ triết học của Lê Văn

Thanh. Tác giả xuất phát từ thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Tây Nguyên
mà đã đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh….
Có thể thấy vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân lực là một nội
dung rất phong phú. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ
thống chủ trương, sự chỉ đạo xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của Đảng
bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, dưới góc độ Lịch sử
Đảng. Từ trước tới nay chưa có công trình nào trùng với luận văn cả về tên
gọi và nội dung khoa học.

8


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích luận văn
Phân tích rõ những chủ trương và sự chỉ đạo sáng tạo của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc về xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, từ năm 1997 đến năm 2010; từ đó rút ra một số kinh
nghiệm trong lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nêu rõ tình hình nguồn nhân lực ở tỉnh Vĩnh Phúc khi mới tái lập tỉnh
+ Phân tích đường lối của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc trong việc đề ra chủ trương và quá trình chỉ đạo xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực ở địa phương.
+ Phân tích thành tựu và hạn chế trong xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2010.

+ Tổng kết một số kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
trong xây dựng và phát triển nguồn nhân lực.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đố ượng: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực.
- Phạm vi
+ Nội dung: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
+ Thời gian từ năm 1997 đến năm 2010
+ Chủ yếu nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng về vấn
đề nguồn nhân lực với sự phát triển của xã hội.

9


- Phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết những nhiệm vụ trên, luận văn
sử dụng phương pháp logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh... Đây là những phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận văn.
- Nguồn tư liệu: Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, một số sách, công trình nghiên cứu, tài liệu tham
khảo chuyên ngành liên quan tới vấn đề nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
6. Đóng góp của luận văn
- Trình bày, phân tích một cách hệ thống chủ trương, đường lối của Đảng
về xây dựng và phát triển nguồn nhân lực; Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Phúc về xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH từ năm 1997 đến năm 2010.
-


óp phần tổng kết hoạt động lãnh đạo phát triển nguồn nhân lực của

Đảng bộ địa phương; tổng kết một số kinh nghiệm trong việc xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên
cứu, giảng dạy lịch sử Đảng ở các trường Đại học, Cao đẳng …
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương, 6 tiết:
Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
về xây dựng nguồn nhân lực (1997 – 2005)
Chương 2: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
xây dựng, phát triển nguồn nhân lực (2005 – 2010)
Chương 3: Kết quả và kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực

10


Chương 1:
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
VĨNH PHÚC VỀ XÂY DỰNG NGUỒN NHÂN LỰC (1997 – 2005)
1.1 Yêu cầu khách quan xây dựng nguồn nhân lực ở tỉnh Vĩnh Phúc
1.1.1 Khái niệm và vai trò nguồn nhân lực
1.1.1.1

ệm

NNL có nhiều cách giải thích khác nhau:

Theo quan niệm của Liên Hợp Quốc: NNL là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự
phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước. Ngân hàng thế giới coi NNL là
toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp của mỗi
cá nhân.
Còn dưới góc độ kinh tế chính trị học: Thuật ngữ NNL được Bộ Lao
động -Thương binh xã hội xác định: NNL là tiềm năng về lao động trong một
thời kỳ xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một
địa phương, một ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để
phát triển kinh tế - xã hội. Theo cách giải thích này, NNL được xác định bằng
số lượng và chất lượng của bộ phận dân số có thể tham gia vào hoạt động
kinh tế.
Theo

p

ển - Trường đại học Kinh tế quốc dân,

(2011) của GS. TS Phạm Ngọc Linh, có giải thích: NNL là một bộ phận của
dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của luật pháp và có khả năng
tham gia lao động. NNL được biểu hiện trên hai mặt. Về số lượng đó là tổng
số người trong độ tuổi lao động và tham gia làm việc có thể huy động được.
Việc quy định cụ thể độ tuổi lao động của mỗi nước (kể cả cận trên và cận
dưới) rất khác nhau tùy theo yêu cầu của độ phát triển của nền kinh tế xã hội
ở từng giai đoạn. Ở Việt Nam trước đây, độ tuổi lao động quy định đủ từ 15-

11


60(nam , và đủ từ 15-55(nữ , điều này được ghi trong Hiến pháp năm 1992

của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về chất lượng NNL đó là
trình độ chuyên môn và sức khỏe của người lao động.
Thông thường, NNL được xem xét, đánh giá trên các phương diện số
lượng, chất lượng, cơ cấu... Số lượng NNL được biểu hiện thông qua các chỉ
tiêu quy mô và tốc độ phát triển NNL. Chất lượng NNL là tổng thể những đặc
trưng, phản ánh bản chất, đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động trực tiếp
sản xuất và phát triển của con người. Đó là khái niệm tổng hợp bao gồm
những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách, đạo
đức, lối sống và tinh thần của NNL.
Tuy nhiên, khi tính toán nguồn lao động xã hội thì Tổng cục thống kê
cho rằng: Nguồn lao động là những người trong độ tuổi lao động có kỹ năng
lao động và những người ngoài độ tuổi lao động đang làm việc trong các
ngành kinh tế quốc dân.
Như vậy, khác nhau cơ bản giữa những khái niệm này là việc tính hay
không những người ngoài độ tuổi lao động đang làm việc ở các ngành kinh tế
quốc dân trong nguồn lao động.
Ở Việt Nam hiện nay đã thống nhất cách tiếp cận coi nguồn nhân lực bao
gồm những người đủ từ 15 tuổi trở lên có việc làm (bao gồm cả những người
trên độ tuổi quy định của Bộ Lao động, nhưng thực tế vẫn đang tham gia quá
trình lao động và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động
nhưng chưa có việc làm do đang trong trạng thái thất nghiệp, đang đi học,
đang đảm đương nội trợ trong gia đình và kể cả không có nhu cầu làm việc
trong thời điểm hiện tại. Như vậy nguồn nhân lực là một bộ phận dân cư có
khả năng về thể chất và tinh thần có thể tham gia vào quá trình lao động theo
luật định.

12


Theo đó, khái niệm lực lượng lao động hẹp hơn khái niệm nguồn lao

động (nguồn nhân lực). Theo ILO (international labour organization) – Tổ
chức lao động quốc tế: lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ
tuổi lao động quy định, thực tế có tham gia lao động và những người không
có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Từ những nhận xét nêu trên, theo tôi NNL của một quốc gia hay một
vùng, một lĩnh vực, một địa phương là tổng hợp những tiềm năng lao động
của con người có trong một thời điểm xác định. Tiềm năng đó bao hàm cả thể
lực, trí lực và tâm lực (đạo đức, lối sống, nhân cách, truyền thống lịch sử, văn
hóa dân tộc) của bộ phận dân số trong độ tuổi quy định đang có việc làm và
chưa có việc làm nhưng có khả năng làm việc. NNL được hiểu là nguồn tài
nguyên nhân sự và các vấn đề nhân sự trong một tổ chức cụ thể. NNL chính
là nguồn lực con người, nhân tố con người trong một tổ chức cụ thể.
Như vậy, NNL được xác định bằng số lượng và chất lượng của bộ phận
dân số trong độ tuổi quy định đang có việc làm và chưa có việc làm nhưng có
khả năng làm việc. Số lượng NNL ở nước ta được biểu hiện bằng số người từ
đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và những người trên độ tuổi lao động
đang tham gia vào hoạt động kinh tế. Chất lượng NNL được thể hiện bằng các
chỉ tiêu về thực trạng phát triển thể lực, trình độ học vấn, kiến thức, tay nghề,
tác phong nghề nghiệp, cơ cấu về tuổi tác, giới tính, thiên hướng ngành nghề,
phân bố theo lãnh thổ, khu vực thành thị - nông thôn.
1.1.1.2 Va

ò ủa ngu

c

Nhân lực chính là nguồn lực về con người. Trên cơ sở phân tích một
cách sâu sắc quan niệm về con người dưới góc độ sinh học, triết học, kinh tế
học dựa vào khái niệm sức lao động của Mác: “Sức lao động hay năng lực lao
động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần trong một cơ thể con

người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một

13


giá trị sử dụng nào đó” [9, tr.24]. Từ đó Mác khẳng định: “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [7,
tr.11]. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội (quan hệ giữa
người với người về chính trị, đạo đức, pháp quyền, kinh tế, trong đó quan hệ
sản xuất có ý nghĩa quyết định). Bằng quan điểm thực tiễn, chủ nghĩa Mác đã
lý giải một cách khoa học và hệ thống, chứng tỏ con người là một thể thống
nhất trong mặt sinh vật và xã hội. Con người với tư cách là những cá nhân
độc lập nhưng luôn sống trong mối quan hệ của hình thức cộng đồng, cộng
đồng giai cấp, cộng đồng dân tộc, cộng đồng nhân loại.
Như vậy có thể nói, trong quan niệm các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác –
Lênin, thực chất tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người,
vì sự phát triển của con người. “Con người cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội
của chính mình thì cũng do đó làm chủ tự nhiên, làm chủ của cả bản thân, trở
thành người tự do”. [8, tr.333]. Đó chính là quá trình mà nhân loại tự tạo
những điều kiện, khả năng cho chính mình nhằm đem lại sự phát triển cho
mỗi con người trong cộng đồng nhân loại, là sự đúng đắn của triết học Mác về
con người, cũng là hạt nhân cơ bản để chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành khoa
học vì con người.
Nói về vai trò của con người trong sự phát triển xã hội, các nhà sáng lập
ra chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: Xu hướng chung của tiến trình phát triển
lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, bao
gồm con người và những công cụ lao động do con người sáng tạo ra. Dù ở
thời đại nào, hay hình thái kinh tế xã hội nào thì con người cũng luôn giữ vai
trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lực lượng sản
xuất xã hội. Mác đã khẳng định: Con người là yếu tố số một của lực lượng

sản xuất. Đặc biệt ngày nay, vấn đề con người có vị trí cao nhất và bao trùm,
là chiến lược của mọi chiến lược, là yếu tố đặt ra động lực để tiến hành đổi

14


mới xã hội. Phát huy nhân tố con người, phát triển con người, nguồn nhân lực
chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy
đủ đến con người là yếu tố đảm bảo chắc chắn nhất trong sự phồn vinh, thịnh
vượng của mỗi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là
cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.
Kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng đã có những nhận định độc đáo về con người. Con
người không phải là cá nhân biệt lập mà là những con người xã hội, là thành
viên của một cộng đồng nhất định. Cộng đồng đó chính là gia đình, họ tộc,
làng xóm, đất nước và đến cả nhân loại. “Con người là một chỉnh thể thống
nhất về thể lực, tâm lực, trí lực và hoạt động, mang bản chất xã hội - lịch sử,
là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất, tinh thần trong xã hội”
[33, tr.24-25].
Với quan điểm rất giản dị và sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa
những tư tưởng của nhân loại, kế thừa sáng tạo lý luận Mác - Lênin về con
người. Từ đó Người đã có những căn dặn xây dựng con người gắn liền với
xây dựng đất nước. Khi nói đến con người với tư cách là “người chủ xã hội”,
là cái “vốn quý nhất”, là lực lượng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
Người không chỉ nói đến trí tuệ, tài năng, sức khỏe của con người, mà nói đến
các yếu tố khác trong con người, trong đó có những giá trị xã hội được kết
tinh trong bản thân từng con người thông qua hoạt động thực tiễn. Người chỉ
ra rằng: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ
nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa,
muốn có tư tưởng XHCN thì phải gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa [31,

tr.303]. Người luôn luôn quan tâm, chú trọng xây dựng nhân tố con người.
Con người chính là chủ thể của xã hội, chủ thể của lịch sử. Vì vậy việc phát

15


huy nhân tố con người cũng chính là phát huy NNL, nhân tố con người phải
trở thành NNL, nguồn lực sinh ra các nguồn lực khác.
Kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta có đưa ra định hướng phát triển trong giai đoạn cách mạng
mới, giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh
vững chắc, “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” [15,
tr.163]. Về thực chất đó là sự phát triển vì con người, vì cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho quần chúng nhân dân. Mọi sự phát triển của xã hội trong các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều do con người quyết định và đều
vì sự phát triển của con người. CNH, HĐH vì mục tiêu phát triển con người,
Đảng ta cũng đã khẳng định: Chỉ có thể thắng lợi với việc phát huy cao độ
nguồn nhân lực. Để phát triển nguồn nhân lực ấy, làm nó trở thành yếu tố cơ
bản của sự phát triển nhanh và bền vững, trước hết chúng ta phải nhận thức
đúng đắn và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người.
Phát huy nhân tố con người có thể hiểu đó là quá trình phát hiện, sử dụng
những tiềm năng sáng tạo của con người vào quá trình biến đổi và phát triển
xã hội, tạo ra các động lực, môi trường thuận lợi nhằm kích thích tính độc lập,
tự chủ, sáng tạo của mỗi cá nhân để nhận được sự cống hiến tối đa nhất. Đặc
biệt trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phát huy nhân tố con người phải
biểu hiện ở chất lượng cao của NNL. “Sức mạnh con người Việt Nam phải

thể hiện thành sức mạnh đội ngũ nhân lực, trong đó các bộ phận nhân tài, trên
nền sức mạnh dân trí với cốt lõi nhân cách, nhân phẩm đậm đà bản sắc dân
tộc” [20]. Việc phát huy nhân tố con người là một quá trình gồm hai mặt tích

16


cực hóa nhân tố con người trên cơ sở không ngừng nâng cao chất lượng nhân
tố con người. Tích cực hóa nhân tố con người là quá trình phát hiện, bồi
dưỡng, sử dụng có hiệu quả tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người.
Còn nâng cao nhân tố con người là hướng vào gia tăng giá trị về phẩm chất xã
hội. Đây chính là nguồn lực để phát sinh ra các nguồn lực khác.
Từ những quan niệm trên, NNL có rất nhiều đặc trưng cơ bản và được
phân thành nhiều loại. Như NNL sẵn có, NNL tham gia vào hoạt động kinh tế
và NNL dự trữ. Việc phân loại nguồn nhân lực đã chỉ rõ cho thấy lực lượng
nào tham gia lao động, lực lượng nào trong độ tuổi lao động nhưng không
tham gia lao động. Điều này cho thấy NNL có vai trò quan trọng trong việc
góp phần vào dựng xây đất nước. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, thời đại
CNH, HĐH đất nước phải đặt trong mối quan hệ tổng thể với khoản đầu tư
cho sự phát triển con người, cho sự phát triển về nhân cách, trí lực, tình cảm,
niềm vui và hạnh phúc của mỗi thành viên và cộng đồng. Chính việc đầu tư
cho phát triển con người sẽ làm tăng tính tích cực, tự giác, năng lực làm chủ
và khả năng sáng tạo của mỗi người, khơi dậy và phát huy sức mạnh bên
trong của mỗi cá nhân tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
NNL không phải chỉ trong thời đại CNH, HĐH mới có vai trò mà nó có
từ trong quá trình kháng chiến, dựng xây đất nước. Con người chính là chủ
thể sáng tạo ra lịch sử. Ở Việt Nam, con người là nhân tố sáng tạo ra đất nước
Việt Nam, là chủ thể quan trọng có thể giành thắng lợi trong sự nghiệp cách
mạng dân tộc, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh thắng đế quốc
Pháp, Mỹ. Đặc biệt trong quá trình CNH, HĐH ngày nay ở nước ta, chúng ta

phải nhận thực một cách sâu sắc giá trị to lớn và những ý nghĩa quyết định
của nhân tố con người, thấy rõ được vai trò của con người trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội. Trên thực tế, con người ngày càng thể hiện rõ hơn
vai trò “Chủ thể trong mọi sáng tạo, mọi nguồn của vật chất và văn hóa, mọi
17


nền văn minh của các quốc gia” [12, tr.5]. Con người là điểm khởi đầu cũng
là cái đích của sự phát triển.
Con người Việt Nam với tư cách là động lực, là nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội được hiểu theo nghĩa con người
không chỉ là kết quả của sự nghiệp CNH, HĐH mà còn là chủ thể tích cực của
quá trình đó, bản thân con người là động lực, là nội lực của sự phát triển ấy.
Hoạt động của con người trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” (1991), Đảng ta đã khẳng định: Việc phát triển toàn diện con người Việt
Nam không chỉ là mục tiêu của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng
XHCN, mà con người là động lực mạnh mẽ nhất đưa sự nghiệp cách mạng
đến thắng lợi. Con người là chủ thể của xã hội, chủ thể của mọi hoạt động làm
biến đổi xã hội. Do vậy, con người đã được coi là động lực của mọi sự phát
triển. Trong “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”,
Đảng ta xác định: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển vì con người,
do con người. Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm”
[16, tr.337]. Cần phải có những con người phát triển toàn diện làm nền tảng
cho nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quá trình phát triển đất nước. Vai
trò quyết định của nhân tố con người, nguồn nhân lực đến tiến trình đẩy mạnh
CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế được biểu hiện cụ thể, cơ bản trong quá
trình phát kinh tế và sự biến đổi về chất lượng của đời sống tinh thần xã hội.
Để đảm bảo vai trò NNL, chúng ta cần phải phát huy nhân tố con người,
phát triển NNL. Đây là quá trình biến đổi của NNL nhằm phát huy, khơi dậy

những tiềm năng con người, là sự phát triển tiến bộ nhân cách và từng bộ
phận trong cấu trúc nhân cách; phát triển cả năng lực thể chất và năng lực tinh
thần, tạo dựng và ngày càng nâng cao hoàn thiện cả về đạo đức, tay nghề, cả

18


về tâm hồn và hành vi, từ trình độ chất lượng này lên trình độ chất lượng khác
cao hơn, toàn diện hơn. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH, công cuộc này đòi hỏi chúng ta phải có nhận thức một
cách sâu sắc, đầy đủ những giá trị to lớn và ý nghĩa quyết định của nhân tố
con người, chủ thể của mọi sáng tạo, nguồn “tài nguyên vô giá”, vô tận của
đất nước, phải đổi mới cách nhìn, cách nghĩ về vai trò, động lực, mục tiêu của
con người trong CNH, HĐH. Thực hiện chiến lược phát triển con người, xây
dựng phát triển NNL phải coi việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người
Việt Nam hiện đại như một công cuộc cách mạng - cách mạng về con người.
Chính cuộc cách mạng con người sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát
triển bền vững, đẩy nhanh tiến độ CNH, HĐH, thúc đẩy quá trình đổi mới
toàn diện đất nước. Kinh tế - xã hội ổn định và phát triển sẽ tạo ra những tiền
đề thắng lợi để nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người, tạo ra những
điều kiện để quyết định một cách vững chắc những nhu cầu và lợi ích của
từng cá nhân trong cộng đồng. Kinh tế càng phát triển, các giá trị nhân văn
càng có cơ sở đề cao. Với ý nghĩa đó, con người Việt Nam không chỉ là mục
tiêu mà còn là động lực của quá trình CNH, HĐH đất nước. Con người là yếu
tố của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết
định quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để con người thực hiện
được những nhiệm vụ trên, đáp ứng ngày càng tốt hơn những đòi hỏi ngày
càng mới của sự nghiệp CNH, HĐH, con người Việt Nam phải có những
phẩm chất cần thiết. Họ cần được giáo dục, đào tạo chu đáo cả về trình độ
khoa học – kỹ thuật, cả về nhân cách và đạo lý làm người. Đây là vấn đề

không chỉ mang tính cấp bách trước mắt, mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài
- chiến lược xây dựng phát triển NNL.

19


1.1.2 Tình kinh tế - xã hội ở Vĩnh Phúc tác động tới xây dựng
nguồn nhân lực
Tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập ngày 01-01-1997, nằm trong vùng đồng
bằng châu thổ sông Hồng, là một trong

tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm

Bắc Bộ - Việt Nam. Theo tổng điều tra dân số tháng 4-2009, Vĩnh Phúc có
dân số 1.000, triệu người, diện tích hơn 1.231 km2. Có ví trí địa lý thuận lợi,
phía Đông và phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ,
phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang… Vĩnh Phúc có hệ thống
giao thông thuận lợi cho giao thương phát triển kinh tế - xã hội với tổng chiều
dài đường bộ khoảng 1500km, cùng với con đường xuyên Á chạy qua; có
đường sắt Hà Nội – Lào Cai đi tỉnh Vân Nam (Trung Quốc ; đường thuỷ phát
triển mạnh trên các tuyến Sông Hồng, Sông Lô và sông Phó Đáy.
Tỉnh Vĩnh Phúc có 9 đơn vị hành chính bao gồm: Thành phố Vĩnh
Yên, thị xã Phúc Yên và bảy huyện: Lập Thạch, Tam Dương, Tam Đảo, Bình
Xuyên, Vĩnh Tường, Yên Lạc và Sông Lô. Trong đó thành phố Vĩnh Yên là
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của tỉnh, cách trung tâm thủ đô Hà Nội
50km, cách sân bay Quốc tế Nội Bài 25km. Là tỉnh đồng bằng, là miền
chuyển tiếp, cầu nối giữa các tỉnh miền núi phía Bắc với thủ đô Hà Nội và các
tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Với vị trí như vậy, Vĩnh Phúc có ba loại hình chính:
Địa hình miền núi, địa hình vùng đồi và địa hình vùng đồng bằng. Điều này
khá thuận lợi cho phát triển cây nông nghiệp và cây công nghiệp. Với hệ

thống sông ngòi dày đặc tạo điều kiện cho phát triển nghề nuôi cá nước ngọt
và tạo ra môi trường cảnh quan thiên nhiên. Nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc của đất nước, Vĩnh Phúc đã thu hút được nhiều vốn đầu tư của
nước ngoài nên rất nhiều khu công nghiệp mọc lên, như khu công nghiệp
Khai Quang, khu công nghiệp Bình Xuyên, khu công nghiệp Bá Thiện…

20


Bên cạnh những tiềm năng về nông nghiệp và công nghiệp, Vĩnh Phúc
là vùng đất cổ với nhiều di tích lịch sử văn hóa, lại được thiên nhiên ưu đãi
với nhiều cảnh quan kỳ thú, đó là những tiềm năng to lớn về phát triển ngành
du lịch và dịch vụ. Tỉnh có 967 di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng quốc
gia, nhiều di tích có giá trị về lịch sử, mỹ thuật như tháp Bình Sơn, đền thờ
Trần Nguyên Hãn, cụm đình Hương Canh, đình Thổ Tang, di chỉ Đồng
Đậu,… và nhiều lễ hội truyền thống như chọi trâu, cướp phết… Là tỉnh có đội
ngũ lao động dồi dào chiếm 67% trong tổng số dân của tỉnh, chủ yếu là lao
động trẻ có trình độ đáp ứng nhu cầu phát triển CNH, HĐH của tỉnh. Do
những điều kiện thuận lợi về phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua,
kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc phát triển nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng DP trung
bình năm trong thời kỳ 199 - 2000 khá cao, đạt 1 ,12%.
Vĩnh Phúc nổi tiếng là vùng quê văn hiến có truyền thống lịch sử vẻ
vang, rất giàu tiềm năng và đang vươn lên mạnh mẽ, hòa nhịp cùng với sự
thay đổi của cả nước, nơi đây được xem là vùng đất có nhiều anh hùng, những
danh nhân tiêu biểu cho truyền thống văn hóa lịch sử dân tộc, đặc biệt là vùng
có truyền thống về đấu tranh chống giặc ngoại xâm với những tên tuổi như
Hai Bà Trưng, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Thái Học... Con người Vĩnh Phúc
luôn luôn tự hào về những truyền thống của quê hương mình, truyền thống đó
đã được phát huy mạnh mẽ khi Đảng ra đời lãnh đạo cuộc chiến đấu chống đế
quốc, phong kiến giành độc lập cho dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân

dân. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc tự hào là một Đảng bộ ra đời khá sớm. Liền sau
đó, Đảng bộ Vĩnh Phúc đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành nhiều chiến
công hiển hách trong việc giành và giữ chính quyền trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Thời kỳ đổi mới, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã nhận thức rõ đặc điểm
kinh tế - xã hội, những thuận lợi, khó khăn của tỉnh trên cơ sở vận dụng năng

21


động, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa
phương nhằm phát huy nguồn lực con người tạo nhân tố tích cực cho xây
dựng, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Sau hơn 10 năm tiến hành đổi mới đến ngày tái lập tỉnh Vĩnh Phúc, kinh
tế - xã hội của tỉnh đã đi vào ổn định và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng
được đầu tư tốt hơn; đời sống nhân dân được cải thiện, nâng cao; văn hóa,
giáo dục được quan tâm, chăm lo và đạt những tiến bộ đáng kể. Vận dụng và
quán triệt chủ trương đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ
thực hiện CNH, HĐH đất nước, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc ngay từ khi được tái
lập đã luôn quan tâm lãnh đạo sâu sát sự nghiệp chăm lo đời sống cho nhân
dân, phát triển kinh tế - xã hội.
Vượt qua những khó khăn, thách thức ban đầu sau ngày tái lập, được sự
quan tâm và lãnh đạo của Trung ương Đảng, sự giúp đỡ của các bộ, ngành
Trung ương, đặc biệt là dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, nền
kinh tế xã hội của Tỉnh sau gần một năm tái lập thực sự có những chuyển
biến rõ rệt và thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Sự ổn định và từng bước
phát triển về kinh tế đã tác động không nhỏ về mặt xã hội. Các lĩnh vực như
văn hóa, giáo dục cũng có những chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt, sự nghiệp giáo dục phát triển cả về chất lượng chuyên
môn cũng như cơ sở vật chất, các chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng

được triển khai có hiệu quả, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình có nhiều
tiến bộ. Đồng thời cũng đòi hỏi một lực lượng lao động không ngừng phát
triển về chất lượng và hợp lý về số lượng để đáp ứng cho nhu cầu phát triển
của Tỉnh.
Với những kết quả đã đạt được trong những năm qua, kết hợp với
những quyết sách đúng đắn trong việc phát triển kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc, đây
cũng là điều thuận lợi cho Vĩnh Phúc có nhiều điều kiện và cơ hội phát triển

22


kinh tế xã hội, thu hút đầu tư và sử dụng một lực lượng lớn lao động. Điều
này tác động mạnh tới việc xây dựng NNL của tỉnh, đồng thời hoàn thành
mục tiêu, định hướng phát triển đến năm 2020 và xây dựng nền kinh tế phát
triển theo hướng phát triển bền vững.
1.1.3 Tình hình nguồn nhân lực ở Vĩnh Phúc khi Tỉnh mới tái lập
Về q y mô và ố độ ă

NNL: Số lượng nhân lực là một điều kiện

thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH ở nước ta nói chung và Vĩnh Phúc nói
riêng. Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh có lực lượng lao động khá dồi dào,
thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Năm 1996, dân số của Tỉnh là 1.054. 99 người, năm 1997 dân số tăng
lên là 1.06 . 30 người với mật độ gần 7 6 người/km2. Vĩnh Phúc là tỉnh có
mức độ tăng dân số tự nhiên ở mức trung bình 1,4% (1996 và 1,32% (1997 .
Với điều kiện đó, hàng năm Vĩnh Phúc có một số lượng lớn người đến độ tuổi
lao động. Nếu như năm 1996, Tỉnh có 599.190 lao động thì đến năm 1997, số
lao động đã là 621. 50 người, chiếm 5 ,1% dân số trong Tỉnh. Số người có
nhu cầu làm việc tăng khoảng 2% mỗi năm. Tỷ lệ này tương đương với mức

bình quân chung của cả nước. Trung bình một năm Tỉnh được bổ sung trên 15
nghìn lao động. Ngoài ra phải kể đến những người ngoài độ tuổi lao động
nhưng thực tế có làm việc cũng tăng lên. Như vậy, số lượng lao động của
Vĩnh Phúc khá dồi dào. Đây là một trong những nhân tố thuận lợi nếu Tỉnh
biết sử dụng một cách hợp lí, triệt để và có hiệu quả. Ngược lại, nếu không
giải quyết tốt số lượng lao động dồi dào này thì đây là một nhân tố kìm hãm
quá trình phát triển của Tỉnh.
Th c trạng chấ ượng NNL: Là tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi, là
trung tâm kinh tế vùng đồng bằng phía Bắc, là nơi giao lưu thông thương giữa
Thủ đô với các tỉnh miền núi phía Bắc. Là một tỉnh đất rộng, người đông

23


×