MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với nhân loại, Việt Nam đang bước vào những năm đầu của thế
kỷ XXI - thế kỷ của nền văn minh hậu công nghiệp. Xu thế chung của thế giới
hiện nay là chuyển từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên sang
nền kinh tế dựa trên sức mạnh tri thức. Và trong bối cảnh đó, con người ngày
càng khẳng định vai trò quan trọng, quyết định của mình.
Để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại
hóa để phát triển đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi
phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và hợp lý về
cơ cấu. Có thể nói, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang
tiến hành có thành công hay không đều phụ thuộc vào chính bản thân con
người Việt Nam. Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, có khả năng tiếp thu
khoa học - kỹ thuật, cần cù và sáng tạo trong lao động. Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu điểm nổi bật đó, nguồn nhân lực của nước ta vẫn còn một số hạn
chế, bất cập như: chưa được đào tạo phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn công
việc, thiếu tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động chưa cao, nghĩa là chất
lượng nguồn nhân lực còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực có một vai
trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đảng ta đã khẳng định nguồn lực con người là nguồn lực cơ bản, có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
Là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, Hà Nam có một vị trí thuận
lợi để phát triển kinh tế. Là cửa ngõ thủ đô, có quốc lộ 1A và đường cao tốc
Cầu Giẽ - Ninh Bình (con đường huyết mạch Bắc Nam) chạy qua, đây là
những điều kiện thuận lợi để tỉnh phát triển kinh tế. Trước đây, Hà Nam là
một tỉnh thuần nông, thu nhập của người dân chủ yếu từ sản xuất nông
1
nghiệp. Do đó, để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho nhân dân toàn tỉnh
thì phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với sự phát triển của
đất nước, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Nam đang cố gắng từng bước đưa nền
kinh tế của tỉnh đi lên bằng con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện
nay, Hà Nam là một trong những tỉnh trọng điểm phát triển công nghiệp của
cả nước với rất nhiều các khu công nghiệp lớn như: khu công nghiệp Đồng
Văn I và II, khu công nghiệp Châu Sơn… Đây là một thuận lợi để tỉnh phát
triển kinh tế, nâng cao mức sống cho người dân, nhưng cũng đặt ra nhiều
thách thức đối với lãnh đạo và nhân dân tỉnh Hà Nam, đặc biệt là vấn đề làm
thế nào để có được nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng được yêu cầu của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Là người con của Hà Nam đang theo học chuyên ngành Triết học,
thông qua đề tài này, tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu nguồn
nhân lực ở Hà Nam và đề xuất những giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh nhà. Đó là lý do để tôi lựa
chọn vấn đề “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở tỉnh Hà Nam” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa có tầm quan trọng đặc biệt trong đường lối, chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Vì thế, đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của
đông đảo các nhà lý luận. Trong những năm qua, xoay quanh vấn đề "Phát
triển nguồn nhân lực thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã có khá nhiều
công trình khoa học đề cập đến ở những phương diện khác nhau.
* Bàn về công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Những công trình nghiên cứu dưới dạng sách:
- Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Phát triển kinh tế - xã hội các vùng
dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị
2
quốc gia, Hà Nội, 1998. Trong cuốn sách này, các tác giả đã nêu bật lên xu
hướng phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi là phải phát
triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Ngô Đình Giao, Suy nghĩ về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam (một số vấn đề lý luận và thực tiễn), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
1996. Ở cuốn sách này, tác giả đã bàn đến khái niệm công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, tính tất yếu để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cả
về mặt lý luận và thực tiễn.
- Lê Cao Đoàn (chủ biên), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn -
những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
2008. Trong đó, tác giả đã trình bày một số mô hình công nghiệp hóa trên thế
giới, đặc biệt là mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa “thần kỳ” ở các nước
Đông Á (tiêu biểu là Nhật Bản và Trung Quốc). Phần sau, tác giả chủ yếu đề
cập đến vấn đề phát triển và công nghiệp hóa thế hệ thứ nhất ở Việt Nam
cũng như quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa thế hệ thứ hai - công
nghiệp hóa trong quá trình đổi mới kinh tế.
Các bài viết đăng trên Tạp chí chuyên ngành:
- Lê Ngọc Anh, Quan điểm về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức - bước phát triển mới trong đường lối tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng ta, Tạp chí Triết học,
số 12 (2006). Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra những luận chứng để làm
rõ chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về đường lối
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức sẽ một mặt thúc đẩy nền
kinh tế phát triển cao, một mặt thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
3
- Trần Đắc Hiến, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn ở Việt Nam: một số vấn đề đặt ra và hướng giải quyết, Tạp chí Triết học,
số 11 (2007). Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số vấn đề đặt ra từ
thực tiễn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những biện pháp cần thiết để
giải quyết, khắc phục những vấn đề nảy sinh nhằm nâng cao hiệu quả của tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
* Bàn về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực:
Những công trình nghiên cứu dưới dạng sách:
- Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm, Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm
thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Cuốn
sách giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân lực ở một số nước trên thế
giới dưới tác động của giáo dục - đào tạo. Đồng thời, nêu bật vai trò của giáo
dục - đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
- Mai Quốc Chánh, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
Trong đó, tác giả đã trình bày vai trò của nguồn nhân lực - yếu tố động nhất,
cách mạng nhất của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển xã hội. Từ đó chỉ
ra tầm quan trọng của nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đỗ Minh Cương, Bùi Thị Ngọc Loan, Phát triển nguồn nhân lực giáo
dục đại học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Trong đó, cuốn
sách đã làm rõ quan điểm, định hướng chiến lược và giải pháp chủ yếu cho
việc phát triển năng lực giáo dục bậc cao ở nước ta trong thời kỳ mới.
- Bùi Thị Ngọc Lan, Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Cuốn sách đã tập trung làm rõ trí
tuệ, nguồn lực trí tuệ, vai trò, đặc điểm, thực trạng phát huy và xu hướng phát
triển của nguồn lực trí tuệ Việt Nam - bộ phận tinh hoa trong nguồn nhân lực
Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những phương hướng và giải pháp
4
chủ yếu nhằm phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong công cuộc đổi mới
và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đoàn Văn Khái, Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, 2005. Trong công trình
này tác giả đã luận giải khái niệm nguồn lực con người và vai trò quyết định
của nguồn lực con người trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác đối với
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tác giả cũng nêu ra những năng lực,
phẩm chất cần có của người lao động mà quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đòi hỏi, cũng như các giải pháp nhằm phát triển và khai thác, sử dụng có
hiệu quả nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những công trình nghiên cứu dưới dạng (luận án, luận văn, bài báo):
Các luận án:
- Nguyễn Thị Tú Oanh, Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, luận án tiến sĩ, 1999. Trong Luận án này, tác
giả đã làm rõ vai trò của nguồn lực thanh niên trên cơ sở phân tích những yêu
cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, đề xuất
một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát huy và phát triển nguồn nhân
lực thanh niên đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hồ Anh Dũng, Khai thác một yếu tố cụ thể của lực lượng sản xuất là
yếu tố con người trong lực lượng sản xuất và việc phát huy yếu tố đó ở nước
ta hiện nay, luận án tiến sĩ, 1998. Trong đó, tác giả đã trình bày vấn đề con
người trong nội dung của lực lượng sản xuất, phân tích đặc điểm của người
lao động Việt Nam và đề xuất một số giải pháp để phát huy yếu tố con người.
Có thể thấy rằng trong các luận án trên, các tác giả đặc biệt đi sâu khai
thác yếu tố con người - yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất.
Các luận văn:
- Lê Thị Mai, Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre, luận văn thạc sĩ, 2005. Với công
trình này, tác giả đã làm rõ khái niệm nguồn lực con người và vai trò quyết
5
định của nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
tỉnh Bến Tre. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra thực trạng nguồn nhân lực tỉnh
Bến Tre trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như đề xuất những
giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bến Tre thời kỳ mới.
- Hà Thị Lan Phương, Phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, luận văn thạc sĩ Triết học, 2005.
Tác giả đã phân tích thực trạng vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh
Yên Bái thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đó, tác giả đã phát
hiện những vấn đề nảy sinh và đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
tỉnh Yên Bái.
- Trịnh Ngọc Dương, Phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Kon Tum, luận văn thạc
sỹ Triết học, 2006. Trong luận văn, tác giả đã trình bày khái niệm nguồn nhân
lực và vai trò của nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum. Đồng
thời, tác giả phân tích thực trạng nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Kon
Tum. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một số phương hướng và đề xuất một số
giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở tỉnh Kon Tum.
- Đỗ Thị Xuân Kim, Phát huy nguồn lực con người trong lĩnh vực công
nghiệp ở tỉnh Phú Yên hiện nay, luận văn thạc sỹ, 2009. Trong luận văn, tác
giả đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát huy nguồn lực con
người trong lĩnh vực công nghiệp ở tỉnh Phú Yên. Từ đó, tác giả đề xuất một
số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nguồn lực con người để phát triển công
nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Phú Yên.
Các bài viết đăng trên Tạp chí chuyên ngành:
- Nguyễn Văn Sơn, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức,
Tạp chí Triết học, số 9 (2007). Bài viết này đã trình bày một cách khái quát
vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển bền vững. Trên cơ sở phân
6
tích một số mặt tích cực và hạn chế của nguồn nhân lực về mặt số lượng và
chất lượng ở nước ta hiện nay, tác giả đã đề xuất và luận chứng một số giải
pháp cần thiết để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức.
- Nguyễn Thành Trung, Vai trò của con người và vấn đề phát huy
nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, Tạp chí
Triết học, số 7 (2008). Với bài viết này, tác giả đã làm rõ vai trò của con
người đối với sự phát triển xã hội. Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế về mặt
chất lượng cũng như những vấn đề còn tồn tại trong việc khai thác nguồn lực
con người, tác giả đã phân tích một số biện pháp nâng cao chất lượng nguồn
lực con người và cơ chế phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam hiện nay.
- Hoàng Đình Cúc, Vấn đề con người trong học thuyết Mác và phương
hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, số 8 (2008). Trong bài này,
tác giả đã luận giải học thuyết Mác về con người. Trên cơ sở đó, tác giả đã
phân tích, làm rõ phương hướng chung về phát triển con người mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định trong công cuộc đổi mới đất nước và đề xuất
một số giải pháp để phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu trên có giá trị lịch sử nhất định.
Đó là nguồn tài liệu quan trọng để tác giả luận văn nghiên cứu, kế thừa. Tuy
nhiên, thực tiễn luôn vận động, biến đổi và phát triển nên mọi kết luận, tổng
kết vẫn cần được bổ sung, phát triển. Hơn nữa, các công trình, luận án, luận
văn và các bài viết được đề cập ở trên chủ yếu nghiên cứu vai trò của con
người và vấn đề phát huy nguồn lực con người - một yếu tố cấu thành của lực
lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho đến nay
chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn nhân
7
lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Nam dưới dạng
một luận văn khoa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phân tích, làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Hà Nam
hiện nay, luận văn đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Hà Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Thứ nhất, luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn
nhân lực và vai trò của nó trong sự phát triển xã hội nói chung cũng như đối
với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng.
- Thứ hai, phân tích, làm rõ ưu điểm, hạn chế của nguồn nhân lực ở Hà
Nam hiện nay và nguyên nhân của tình hình; chỉ ra những đòi hỏi mà quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đặt ra đối với việc phát triển nguồn
nhân lực ở Hà Nam.
- Thứ ba, nêu và phân tích một số phương hướng cơ bản và giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở tỉnh Hà Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Hà Nam hiện nay
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Hà
Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong mối quan hệ với đặc
điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh và với nguồn nhân lực của cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
8
Luận văn dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin (chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề con người; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
nguồn lực con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống kê,
điều tra, khảo sát, kết hợp lôgíc với lịch sử, với tinh thần lý luận kết hợp với
thực tiễn trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thêm vai trò của yếu tố con người trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; những đòi hỏi của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở Hà Nam hiện nay.
- Đánh giá tổng quát thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Hà Nam hiện nay.
- Nêu ra những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Phát triển nguồn nhân lực với công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Hà Nam.
Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực và những vấn đề đặt ra đối với
phát triển nguồn nhân lực ở Hà Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nam.
9
Chương 1
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VỚI CÔNG CUỘC
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ NAM
1.1. Một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nam
1.1.1. Vài nét khái quát về điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế -
xã hội ở Hà Nam
Trong giai đoạn hiện nay, tỉnh Hà Nam chủ trương phát triển kinh tế
bằng con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhưng để công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công thì tỉnh phải có chiến lược phát triển
nguồn nhân lực một cách hợp lý, bởi nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng có
ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hiện tại, Hà Nam có nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến công tác phát triển
nguồn nhân lực như:
Một là, vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố văn hóa,
truyền thống, lịch sử của Hà Nam.
Hà Nam nằm ở tọa độ địa lý trên 20
0
vĩ độ Bắc và giữa 105
0
- 110
0
kinh
độ Đông, phía Tây - Nam châu thổ sông Hồng, trong vùng trọng điểm phát
triển kinh tế Bắc Bộ.
Tỉnh Hà Nam cách trung tâm Hà Nội hơn 50 km (là cửa ngõ phía Nam
của Thủ đô Hà Nội), phía Bắc giáp với Hà Nội, phía Đông giáp với Hưng Yên
và Thái Bình, phía Nam giáp với Nam Định và Ninh Bình, phía Tây giáp với
Hòa Bình. Vị trí địa lý này tạo rất nhiều thuận lợi cho việc phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh. Tỉnh Hà Nam bao gồm 6 đơn vị hành chính cấp huyện và
thành phố: thành phố Phủ Lý (tỉnh lỵ của tỉnh), huyện Duy Tiên, huyện Kim
Bảng, huyện Lý Nhân, huyện Thanh Liêm, huyện Bình Lục.
Nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc - Nam, trên địa bàn
tỉnh có quốc lộ 1A, đường cao tốc Pháp Vân - Ninh Bình và đường sắt Bắc
10
Nam chạy qua với chiều dài gần 50 km cùng với các tuyến đường giao thông
quan trọng khác như: quốc lộ 21A, 21B, quốc lộ 38. Hơn 4000 km đường bộ
bao gồm các đường quốc lộ, tỉnh lộ cùng các tuyến giao thông liên xã, liên
huyện, thị trấn, thành phố đã được rải nhựa hoặc bê tông hóa. Hơn 200 km
đường thủy có luồng lạch đi lại thuận tiện với 42 cầu đường đã được xây
dựng kiên cố hóa và hàng nghìn km đường giao thông nông thôn tạo thành
một mạng lưới giao thông khép kín tạo điều kiện thuận lợi về đi lại và vận
chuyển hàng hóa cho các phương tiện cơ giới. Từ thành phố Phủ Lý có thể đi
tới các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng một cách nhanh chóng và
thuận tiện.
Vị trí chiến lược quan trọng cùng hệ thống giao thông đường thủy,
đường bộ, đường sắt tạo cho Hà Nam lợi thế rất lớn trong việc giao lưu kinh
tế, văn hóa - xã hội, khoa học - kỹ thuật với các tỉnh trong vùng và cả nước,
đặc biệt là với Thủ đô Hà Nội (trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn
hóa của cả nước) và vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ. Đây chính là thuận lợi
rất lớn cho tỉnh Hà Nam phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực thông qua hợp tác về giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, thu hút mạnh đầu tư vào tỉnh cũng sẽ tạo ra nhu cầu sử dụng lao động
lớn, từ đó thúc đẩy nguồn cung lao động (đặc biệt là lao động có chuyên môn
nghề nghiệp) phát triển mạnh.
Bên cạnh vị trí địa lý, tài nguyên đất đai với địa hình đa dạng cũng là
nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế của tỉnh. Hà Nam có diện tích tự
nhiên 851.000 km
2
nằm trong vùng trũng đồng bằng sông Hồng và giáp với
vùng núi của tỉnh Hòa Bình và vùng Tây Bắc. Phía Tây của tỉnh là vùng đồi
núi bán sơn địa với các dãy núi đá vôi, núi đất và đồi rừng. Đất đai ở vùng
này rất thích hợp với các loại cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả.
Vùng đồng bằng phía Đông của tỉnh được tạo nên bởi phù sa của các sông lớn
như: sông Đáy, sông Châu, sông Hồng. Đất đai màu mỡ, thích hợp cho việc
11
canh tác lúa nước, hoa màu, rau, đậu, thực phẩm. Những dải đất màu ven
sông đặc biệt thích hợp với các loại cây công nghiệp ngắn ngày như: mía,
dâu, lạc, đỗ tương và cây ăn quả. Ngoài ra, đây cũng là vùng thuận lợi cho
việc nuôi trồng, đánh bắt thủy sản và phát triển nghề chăn nuôi gia cầm dưới
nước. Chính điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, đặc
biệt là lịch sử trồng lúa nước lâu đời đã hun đúc, tạo lập nên đức tính cần cù,
chăm chỉ lao động của con người Hà Nam. Thật vậy, Hà Nam là vùng đất
được bồi đắp bởi phù sa của sông Hồng, sông Đáy và thu nhận đất đai bị bào
mòn từ vùng núi cao trôi xuống. Ngoài những ngọn núi, Hà Nam còn được
bao bọc bởi những con sông. Đó là sông Hồng ở phía Đông, sông Đáy ở phía
Tây, sông Nhuệ ở phía Bắc, sông Ninh ở phía Nam và nhiều con sông khác
chảy trong tỉnh. Chính những điều kiện tự nhiên đó đã tạo cho Hà Nam các
đặc trưng về văn hóa, lịch sử của một khu vực giao thoa hay vùng đệm kết nối
văn hóa từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam và chính những đặc điểm này
đã hình thành nên tính cách của người Hà Nam trong suốt chiều dài lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đó là sự cần cù, chịu thương, chịu khó,
sáng tạo trong lao động, hiếu học, kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, người Hà Nam đã biết phát huy các giá trị
truyền thống văn hóa đó vào phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân tỉnh Hà Nam và góp phần vào sự phát triển chung của cả nước.
Đá vôi là nguồn tài nguyên khoáng sản chủ yếu của Hà Nam, có trữ
lượng lớn tới hơn 7 tỷ m
3
. Đây là nguyên liệu quan trọng cho phát triển các
ngành công nghiệp sản xuất xi măng, vôi, sản xuất bột nhẹ, làm vật liệu xây
dựng. Phần lớn các tài nguyên khoáng sản phân bố gần trục đường giao
thông, thuận tiện cho việc khai thác, vận chuyển và chế biến. Sản phẩm xi
măng Bút Sơn của Hà Nam hiện đã có mặt trong hầu hết các công trình xây
dựng lớn của đất nước. Với tiềm năng khoáng sản, trong tương lai Hà Nam có
12
thể trở thành một trong những trung tâm công nghiệp vật liệu xây dựng lớn ở
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đây cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy việc
phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Hà Nam.
Hai là, điều kiện kinh tế - xã hội và con người Hà Nam.
Với những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên và
truyền thống văn hóa kể trên, Hà Nam có thể phát triển một nền kinh tế toàn
diện và trở thành một tỉnh có nền kinh tế phát triển cao trong cả nước. Tuy
nhiên, việc khai thác các nguồn lực đó như thế nào, đạt hiệu quả đến đâu lại
phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố con người Hà Nam.
Con người Hà Nam có truyền thống kiên cường, dũng cảm trong chiến
đấu, cần cù, giàu sức sáng tạo, hăng say, ham mê trong lao động và học tập.
Trong đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa để xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, người Hà Nam
luôn thể hiện được khí phách con người của một vùng quê anh hùng giàu
truyền thống văn hóa. Hà Nam là vùng đất có truyền thống hiếu học, quê
hương của “Tam nguyên Yên Đổ” - Nguyễn Khuyến và nhiều danh sĩ khác, là
quê hương của “tiếng trống Bắc Lý” trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của dân tộc trong thế kỷ XX. Và truyền thống hiếu học của người Hà
Nam ngày càng được phát huy khi Đảng bộ và nhân dân Hà Nam quán triệt
chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam coi giáo dục đào tạo là quốc sách
hàng đầu. Với nỗ lực của mình, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Nam đã đạt
được những kết quả khá toàn diện về quy mô, chất lượng, cơ sở vật chất
trường học trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Cụ thể: Tỉnh Hà Nam đã hoàn thành tốt mục tiêu Chương trình quốc
gia về giáo dục - đào tạo. Phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập
giáo dục trung học cơ sở được giữ vững; phổ cập giáo dục trung học phổ
thông được triển khai tích cực. Chất lượng giáo dục toàn diện có nhiều
chuyển biến, tiến bộ rõ rệt, nhất là chất lượng trí dục. Các kỳ thi tốt nghiệp
13
trung học phổ thông, đại học, cao đẳng, học sinh giỏi quốc gia liên tục đạt kết
quả cao, là một trong 10 tỉnh dẫn đầu toàn quốc. Toàn tỉnh có 207/411 trường
được công nhận trường chuẩn quốc gia, chiếm 50,3% (trong đó có 42/120
trường mầm non; 128/140 trường tiểu học; 35/120 trường trung học cơ sở;
2/25 trường trung học phổ thông); 75% số phòng học được kiên cố hóa. Hệ
thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề được
mở rộng, nâng cấp; tổ chức liên kết đào tạo, từng bước đáp ứng yêu cầu học
tập và nâng cao tay nghề cho người lao động. Đây chính là những điều kiện
tốt để phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của tỉnh.
Bên cạnh đó, Hà Nam là tỉnh có nguồn nhân lực dồi dào, tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cho tăng trưởng nhanh và phát
triển kinh tế - xã hội bền vững. Đến năm 2010, số người trong độ tuổi lao động
của tỉnh là 605.466 người, trong đó số người có khả năng tham gia lao động là
483.557 người. Tuy nhiên, với lực lượng lao động đông như vậy nếu tỉnh
không có chính sách hợp lý để giải quyết việc làm sẽ dẫn đến nạn thất nghiệp,
ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, môi trường sinh thái, mức sống của người
dân cũng như ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Một điều kiện nữa tác động đến quá trình phát triển nguồn nhân lực đó
là đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Nam. Từ năm 2005 đến
nay, kinh tế - xã hội của Hà Nam đã có những bước tiến vượt bậc và đạt được
những thành tựu quan trọng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ; kết cấu hạ tầng giao thông
đô thị, nông thôn được đầu tư phát triển; các lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều
tiến bộ mới; đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt đô thị và nông thôn có
nhiều khởi sắc. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân 13%/năm,
cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của một số tỉnh trong vùng. Tổng sản phẩm
nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4%/năm, công nghiệp và xây dựng tăng
14
23,4%/năm và các ngành dịch vụ tăng 18,6%/năm. Việc chuyển đổi cơ cấu
mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giống mới, trồng cây xuất khẩu, sản xuất
lúa giống và nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi như sản xuất trên vùng
đất trũng, kinh tế trang trại, kinh tế vườn đồi… đang tạo cho kinh tế nông
nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng: tăng tỷ trọng ngành công nghiệp
và xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản.
Bảng 1.1: Cơ cấu kinh tế của tỉnh Hà Nam
Đơn vị tính: %
Năm Tổng số
(%)
Nông, lâm, thủy
sản
Công nghiệp và
xây dựng
Dịch vụ
2009 100 23,39 46,25 30,36
2010 100 21,2 48,2 30,6
Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2010), Báo cáo tình hình thực
hiện kế hoạch năm 2010 và dự kiến kế hoạch năm 2011.
Qua bảng 1.1 ta thấy, cơ cấu kinh tế của tỉnh Hà Nam đã có sự chuyển
dịch tích cực để đạt tới cơ cấu kinh tế hợp lý mà Đảng ta đề ra: công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng.
Quá trình đổi mới theo hướng đa dạng hóa các hình thức sản xuất, kinh
doanh làm cho hoạt động kinh tế trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực trở nên sôi
động, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp,
kinh tế tư nhân, cá thể và các loại hình kinh tế khác trong lĩnh vực công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Công tác xóa đói giảm
nghèo đạt kết quả tốt. Năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm xuống còn 7%
và thực hiện hoàn thành Đề án xóa nhà tranh, vách đất cho hộ nghèo [71,
tr.9]. Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em cũng đạt được kết quả tích cực. “Năm
2010, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 19%” [71, tr.19]. Tính
đến nay, Hà Nam đã quy hoạch và được Chính phủ phê duyệt 8 khu công
15
nghiệp với tổng diện tích 1.780 ha tại các vị trí giao thông thuận lợi. Hiện có
4 khu công nghiệp đã được đầu tư cơ sở hạ tầng thu hút trên 100 dự án đầu tư,
trong đó có 35 dự án đầu tư nước ngoài. Nhiều dự án đã đi vào hoạt động, giải
quyết việc làm cho gần 20 nghìn lao động, nộp ngân sách nhà nước gần 300
tỷ đồng/năm. Đến năm 2010, giá trị sản xuất trong khu công nghiệp chiếm
55% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Việc phát triển mạnh các khu công
nghiệp tất yếu sẽ cần một lượng lớn nguồn nhân lực có chất lượng. Đây chính
là một động lực thúc đẩy nguồn nhân lực của tỉnh Hà Nam phát triển cả về số
lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề đa dạng để đáp ứng nhu cầu lao động
ngay tại địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những nhân tố tích cực kể trên thì tỉnh Hà Nam
vẫn còn tồn tại một số hạn chế ảnh hưởng đến công tác phát triển nguồn nhân
lực như: tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; quy mô
nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người mới đạt khoảng 81% mức
bình quân chung của cả nước. Cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học vẫn còn
thiếu. Công tác đào tạo nghề chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động.
Chất lượng khám, chữa bệnh ở tuyến y tế cơ sở còn thấp… Thực tế trên đã
ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn đổi
mới hiện nay của tỉnh Hà Nam.
Tóm lại, với vị trí địa lý thuận lợi, sự đa dạng về đất đai, địa hình và
thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu thủy văn thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào, có
trình độ văn hóa, chăm chỉ, giàu sức sáng tạo, có khả năng tiếp thu và áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ, hạ tầng kinh tế - xã hội khá phát triển
của Hà Nam là những yếu tố tích cực cần được khai thác, phát huy và khắc
phục, hạn chế những yếu tố tiêu cực để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
1.1.2. Những quan điểm cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Hà Nam
16
Công nghiệp hóa là bước đi tất yếu đối với mọi quốc gia trên thế giới
muốn có một nền kinh tế phát triển cao, tránh nguy cơ tụt hậu so với các quốc
gia khác. Bởi, công nghiệp hóa sẽ tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất, từ đó thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật hùng mạnh cho đất nước.
Vậy, công nghiệp hóa là gì?
Công nghiệp hóa là một quá trình có tính chất lịch sử, quá trình này
luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa
học - công nghệ. Việc nhận thức đúng vấn đề này trong từng giai đoạn phát
triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Vì
vậy, qua các thời kỳ khác nhau, quan niệm về công nghiệp hóa đã có sự thay
đổi phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế, phương thức tiến hành công
nghiệp hóa như thế nào lại phụ thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, để rút ngắn khoảng cách chênh lệch, tránh nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Đảng ta đã
khẳng định phải tiến hành công nghiệp hóa để phát triển đất nước. Tuy nhiên,
do tác động của yếu tố thời đại và do điều kiện cụ thể của đất nước, công
nghiệp hóa ở Việt Nam hiện nay phải gắn liền với hiện đại hóa để tận dụng
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại nhằm rút ngắn
quá trình phát triển.
Vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì?
Xem xét công nghiệp hóa trong mối quan hệ với hiện đại hóa, Hội nghị
lần thứ VII, Ban chấp hành Trung ương khóa VII của Đảng cho rằng: “công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự
17
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất
lao động xã hội cao” [26, tr.42].
Định nghĩa trên về cơ bản đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của quá
trình công nghiệp hóa, chỉ ra được cái cốt lõi là: cải biến lao động thủ công,
lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất
lao động xã hội cao; gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa; xác định được vai
trò của công nghiệp và khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
* Phương hướng, mục tiêu tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta nhằm mục tiêu: “xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với quá trình phát triển
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Phấn đấu để đến năm 2020 đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại” [27, tr.80].
Cụ thể:
- Lực lượng sản xuất sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện
đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy
móc. Về quan hệ sản xuất: chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và chế độ phân phối
gắn kết với nhau, giải phóng sức sản xuất, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội.
- Kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập
thể trở thành nền tảng. Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức khác nhau
tồn tại phổ biến, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể.
- Về đời sống vật chất và văn hóa: nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà
ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức
18
hưởng thụ văn hóa khá. Quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn minh, phát
huy những giá trị cao đẹp và truyền thống vẻ vang của dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định chủ
trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là:
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi
trường. Đồng thời, Đại hội cũng đề ra mục tiêu tổng quát: “đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã
hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được
nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau” [32,
tr.103].
Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nam: “phát triển kinh tế -
xã hội nhanh, hiệu quả, bền vững; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phấn đấu tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP)
tăng bình quân 13,5%/năm trở lên, GDP bình quân đầu người đến năm 2015
đạt 40,2 triệu đồng trở lên, thu ngân sách tăng bình quân 17,8%/năm; nhanh
chóng đưa Hà Nam trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020. Phát triển kinh
tế - xã hội bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Song song với đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội là củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội” [71, tr.5].
* Những quan điểm cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nam:
Một là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với khai thác tối đa tiềm
năng, lợi thế của tỉnh Hà Nam, thu hút triệt để mọi nguồn lực cho sự phát
triển.
Cũng giống như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước,
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nam muốn giành được thắng lợi
19
thì cần phải khai thác, tận dụng mọi nguồn lực của tỉnh. Hà Nam có rất nhiều
tiềm năng và lợi thế để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa (vị trí địa lý,
điều kiện khí hậu, thủy văn thuận lợi, sự đa dạng về đất đai, địa hình và thổ
nhưỡng; nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ văn hóa, có khả năng tiếp thu và
áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ; có chính sách thu hút vốn
đầu tư từ các địa phương khác trong nước và nước ngoài…). Nhận thức rõ
tầm quan trọng của vấn đề trên, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Nam đã tận
dụng, khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh kết hợp với các nguồn
lực bên ngoài để thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
tỉnh giành được nhiều thắng lợi quan trọng.
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa lấy việc phát huy nguồn nhân
lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Việc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi chúng
ta phải nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ những giá trị lớn lao và có ý nghĩa
quyết định của nhân tố con người - chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của
cải vật chất và văn hóa tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc trong cách nhìn,
cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng, phát huy
nhân tố con người trong giai đoạn hiện nay như một cuộc cách mạng. Cũng
cần nhận thức công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và việc phát triển con
người luôn là hai mặt thống nhất không thể tách rời.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vì mục tiêu phát triển toàn diện con
người. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển.
Do đó có thể khẳng định, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
chúng ta phải lấy việc phát triển nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho việc
phát triển nhanh và bền vững. Phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời
sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội.
20
Ba là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển bền vững
Phát triển bền vững là khái niệm được đề cập rộng rãi từ năm 1987
trong Báo cáo Brudtland (báo cáo Tương lai Chung của chúng ta) của Ủy ban
Môi trường và Phát triển thế giới (WCED) nay là Ủy ban Brundtland. Báo
cáo ghi rõ: Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những
nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đây là quá trình phải bảo đảm có sự kết hợp
chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế, phát
triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Ở nước ta, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức
rất sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng. Trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 được thông qua tại Đại hội IX đã
khẳng định: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Đại hội X nêu
bài học về phát triển nhanh và bền vững, trong đó, ngoài các nội dung phát
triển kinh tế, xã hội, môi trường còn bổ sung yêu cầu phát triển toàn diện con
người, thực hiện dân chủ và xác định mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm
2006 - 2010 là: phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng
cao và bền vững hơn gắn với phát triển con người. Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 - 2020 của Đảng ta nêu bài học: Đặc biệt coi trọng chất
lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển…giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Văn kiện Đại hội XI của
Đảng cũng xác định: “Phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững, phát
triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược” [32, tr.45].
Như vậy, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã sớm được Đảng
và Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở thành một
chủ trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển
của đất nước. Và quan điểm này đã được vận dụng vào thực tiễn công cuộc
21
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Nam. Trong phương hướng, mục
tiêu, nhiệm vụ, giải pháp 5 năm 2010 - 2015 của tỉnh Hà Nam đã khẳng định:
“Phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với
văn hóa xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Tập trung phát triển hạ tầng kinh
tế - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; chú trọng bảo vệ môi
trường…” [71, tr.19].
Đối với Hà Nam hiện nay, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển bền vững thì cần phải đảm bảo các mục tiêu cụ thể sau:
+ Cơ cấu kinh tế trong công nghiệp hóa phải đảm bảo mục tiêu lâu dài,
trong đó, đặc biệt chú trọng cơ cấu ngành kinh tế. Trước mắt cần tập trung
xây dựng cơ cấu ngành kinh tế: công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ.
+ Tăng trưởng của công nghiệp hóa phải bền vững (tăng trưởng phải
gắn với phát triển cả về số lượng và chất lượng).
+ Công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa.
+ Công nghiệp hóa phải gắn với việc giải quyết các vấn đề an sinh xã
hội, tiến bộ xã hội, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đảm bảo giữ vững môi trường
sinh thái.
Để đạt được mục tiêu trên phải có nguồn nhân lực đảm bảo, vì thế phát
triển nguồn nhân lực có vai trò đặc biệt quan trọng đối với Hà Nam hiện nay.
1.2. Tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực đối với công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nam
1.2.1. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực
1.2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Ngày nay, trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, vấn đề nguồn
lực để phát triển đất nước được đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Việc xác định
được các nguồn lực và vai trò của các nguồn lực đối với quá trình phát triển
đất nước là điều hết sức quan trọng, đảm bảo khả năng thực thi và sự thành
22
công của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong xu thế hội nhập kinh tế
hiện nay, mỗi quốc gia, dân tộc muốn phát triển đều phải tận dụng hết các
nguồn lực vốn có của mình. Và có một thực tế là hầu hết các quốc gia (cả các
quốc gia đã phát triển cũng như các quốc gia đang phát triển) đều đặt con
người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, đều nhấn mạnh vai trò của nguồn
nhân lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mình.
Vậy, nguồn nhân lực là gì?
Ở Việt Nam, khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng tương đối rộng
rãi kể từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn có rất
nhiều cách tiếp cận ở những góc độ, khía cạnh khác nhau:
Trong lý luận macxit về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực
lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự vận động và
phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó,
quyết định năng suất lao động và tiến bộ xã hội.
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được nhìn nhận như
một phương tiện chủ yếu đảm bảo sự tăng trưởng trong sản xuất và dịch vụ.
Trong lý luận về vốn, con người được đề cập đến như là một loại vốn
(vốn người, “tư bản người”), được xem là một thành tố cơ bản, tất yếu của
quá trình sản xuất, kinh doanh, một phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội
và rồi phát triển kinh tế - xã hội lại là phương tiện nhằm mục đích phát triển
con người. Với cách tiếp cận tương tự như vậy, Liên Hợp Quốc cho rằng:
Nguồn nhân lực là những người có trình độ lao động hành nghề, là tất cả
những kiến thức, kỹ năng và năng lực con người hiện có, cả hiện thực và tiềm
năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng. Quan niệm này xem
xét nguồn nhân lực chủ yếu ở phương diện chất lượng và vai trò, sức mạnh
của nó đối với sự phát triển xã hội.
Ở nước ta trong những năm gần đây xuất hiện khá nhiều các quan niệm
về nguồn nhân lực:
23
Tác giả Lê Thành Nghị cho rằng: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm
năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống
nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã
hội của con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng, quốc gia. Tính
thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn
người đáp ứng yêu cầu phát triển” [61, tr.15-16].
Các nhà khoa học Việt Nam tham gia chương trình khoa học - công
nghệ cấp nhà nước, mã số KX - 07: “Con người Việt Nam - mục tiêu và động
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” do GS.TSKH Phạm Minh Hạc làm chủ
nhiệm cho rằng: “Nguồn nhân lực (nguồn lực con người) được hiểu là số dân
và chất lượng con người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ,
năng lực và phẩm chất” [38, tr.328]. GS.TS Hoàng Chí Bảo quan niệm:
“Nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng
tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con
người” [3, tr.13]. Theo tác giả, ngoài thể lực và trí lực, cái làm nên nguồn lực
con người còn là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm thực tế
của con người, là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh
nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tòi, sáng tạo. Theo đó, nguồn
nhân lực bao hàm trong đó toàn bộ sự phong phú, sâu sắc, đổi mới thường
xuyên các năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức quản lý…
Cũng về vấn đề này, PGS.TS Đoàn Văn Khái cho rằng, trong thực tế
khái niệm “nguồn nhân lực” ngoài nghĩa rộng được hiểu như “nguồn lực con
người” còn được hiểu theo nghĩa hẹp là nguồn lao động, có khi còn được hiểu
là lực lượng lao động. Và trong nghiên cứu của mình, tác giả quan niệm
“Nguồn lực con người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất
lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển
xã hội” [43, tr.62].
24
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội thì: “Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ
xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa
phương, một ngành hay một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát
triển kinh tế - xã hội” [5, tr.13].
Trung tâm nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đã quan
niệm nguồn nhân lực theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: Nguồn nhân lực (Human Resources) “là tổng thể các
tiềm năng (lao động) của con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một
địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó khả năng huy động vào quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hoặc một vùng, một địa phương
cụ thể” [75, tr.22]. Theo cách tiếp cận này, nguồn nhân lực như một bộ phận
cấu thành các nguồn lực của quốc gia và những nguồn lực này có thể được
huy động một cách tối ưu tạo thành động lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Mỗi một nguồn lực đều có vai trò riêng, trong đó, nguồn nhân lực giữ vai trò
quyết định bởi các nguồn lực khác: tài chính, tài nguyên thiên nhiên… mà
không được con người phát hiện, khai thác thì chúng vẫn chỉ tồn tại ở dạng
tiềm tàng mà thôi. Chính con người thông qua hoạt động của mình đã làm
sống, phát triển các nguồn lực khác, sử dụng nó nhằm mục đích phát triển xã
hội. Do đó, nguồn nhân lực được coi là một thứ tài nguyên quý giá nhất, một
nguồn lực quan trọng nhất.
Theo nghĩa hẹp: “Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động trong
nền kinh tế quốc dân (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) nghĩa là bao
gồm những người trong một độ tuổi nhất định nào đó, có khả năng lao động,
thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp” [75, tr.24].
Như vậy, qua một số cách tiếp cận về nguồn lực con người và về nguồn
nhân lực nói trên, dưới dạng tổng quát ta có thể hiểu nguồn nhân lực là phạm
trù dùng để chỉ số dân, cơ cấu dân số, đặc biệt là chất lượng dân số với tất cả
25