Tải bản đầy đủ (.ppt) (27 trang)

Các vị la hán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 27 trang )


HUY CAÄN


I.TèM HIEU CHUNG:
1.Taực giaỷ:
Cuứ Huy Caọn
(1919-2005)


2. Hoàn cảnh sáng tác:
- Chùa Tây Phương (Hà Tây) xây dựng từ thời
Bắc thuộc, cuối thế kỷ XVIII được trùng tu.
Trong chùa có 18 pho tượng gỗ La Hán độc đáo.
- p ủ từ trước cách mạng tháng tám, nhưng đến
năm 1960 bài thơ mới ra đời - In trong tập “Bài
thơ cuộc đời” của Huy Cận.
- Bài thơ là cảm nhận và suy ngẫm của tác giả
về quá khứ lòch sử của dân tộc.


2.Hoàn cảnh sáng tác:

XÂY DỰNG TỪ THỜI BẮC THUỘC.

TRÙNG TU VÀO THẾ KỈ XVIII



II.PHÂN TÍCH:
1.Chân dung các pho tượng La Hán (8 khổ thơ đầu):


Các vò La Hán Chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương
Há chẳng phải đây là xứ phật
Mà sao ai nấy mặt đau thương?
Đây vò xương trần chân vơí tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gày
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.
Có vò mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.
Có vò chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn…

Các vò ngồi đây trông lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vả
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Có thật trên đường tu đến phật

Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vò đau theo lòng chúng nhân?


1.Chân dung các pho tượng La Hán
n tượng chung của tác giả:
Nỗi vấn vương, ám ảnh, day dứt bởi nét
đau thương trên khuôn mặt các pho tượng.


“Thông thường, khi đến chùa chiền con người luôn tìm
được sự nhẹ nhàng, thư thái, bình yên trong tâm hồn. Ở
chương
trình

n
họ
c
lớ
p
11,
chú
n
g
ta
đã
bắ
t
gặ

p

m
trạ
n
g
Có thể nói đây là cuộc họp mặt của một tập đồn "Phật sống" toạ thi ền, với
nàytấtrong
Phong
nihvịCa”
t cả nét đbà
ộc iđáo“Hương
trong tâm tưSơn
và phong
độ củCả
a mỗ
. Mườcủ
i sáuavChu
ị tổ ngMạ
ười nh
đứng kẻ ngồi, pho thì ngước mặt lên trời ch ỉ vào mây khói, pho thì h ững h ờ
Trinh:
với ngoại vật, tì cằm trên đầu gối nhếch mơi cười một mình n ửa tinh
bêvnẻtai
t tiếtnươ
g ichà
nghịch nử“a …Thoả
mỉa mai,ncógpho
mặtmộ
hân hoan

tắn, y
khkình
ổ ng ười đ ầy đ ặn
tròn trĩnh, Khá
pho khácchcótang
vẻ m ặ
t đă
chiêtumình
lạ th ườtrong
ng, lại có
pho
nh ư n
đang
đ ắn
hả
i mgiậ
giấ
c mộ
g…”
đo phân bua hay đang thì thầm trò chuyện cùng ai. Đằng kia là Ph ật Tuy ết
Khi
đế
n
thă
m
chù
a
Hương
trê
n


y

i
Hương
Sơn

Sơn gầy gò mười hai xương sườn nổi bật đang trầm tư mặc tưởng, phía
tỉnhbênHà
y, Ltá
giả
Chu
nhmTrinh
ngtươ
như
trú
bỏvị hết
là PhTâ
ật Di
ặccph
ốp phá
p, bụMạ
ng to,
ắt rộng,dườ
mi ệng
i cườ
i, thai
t đã bi
ểuphiề
lộ rõ hai

loại chúnn,gbụ
sinh:
lớpm
ngcủ
ườiakhtrầ
ổ hnạnh,
th ứ
mọth
i ậưu
tư,
n muộ
i bặ
tụcthao

ncgsuy
đắtưm,
đằng đẵng giữa dương thế, bên cạnh lớp người hể h ả, thoả mãn, sung
chìm
sướvà
ng,ovơcõ
tưi. thư thái, bình yên, thoát tục của chốn Phật.
Còn ở trong bài này, chúng ta lại gặp một tâm trạng hết sức
khác lạ. Một tâm trạng vấn vương, day dứt không yên bởi
nét đau thương hiện rõ trên mặt của các pho tượng phật.”


Nét đặc tả (tả chi tiết):
Pho tượng thứ nhất:
“Đây vò xương trần chân vơí tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gày

Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.”
- Thân hình gầy guộc, khô héo.
- Tư thế bất động.
- Nội tâm nung nấu, sôi sục, đau khổ.

Mãi suy tư quên cả thể xác, hình hài.


“ Từ “xương trần” cho ta thấy cái
gầy guộc đã đạt đến độ tuyệt đối tưởng như tấm thân gầy guộc, khô
héo đó đang bò thiêu đốt. Tư thế bất
động như dồn nén mọi đau khổ. Nhà
tu hành đang mãi suy tư mà quên cả
thân xác hình hài.”


Nét đặc tả (tả chi tiết):
Pho tượng thứ hai:

“Có vò mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.”
- Hàng loạt các động từ mạnh, tính
từ, trạng từ diễn tả trạng thái
Hình thể chuyển động căng thẳng.
Nội tâm đau đớn, quằn qoại, vật vả không
lối thoát.



“Hàng loạt các đôïng từ mạnh, trạng từ, tính từ
diễn tả trạng thái cho chúng ta thấy các đường nét
chuyển động mạnh mẽ của hình thể trong sự căng
thẳng tột độ. Đồng thời cũng thể hiện những suy
nghó nung nấu, trăn trở dữ dội của tư tưởng như
muốn đứt tung, vọt trào ra khỏi thân xác.Nhưng tất
cả đều bế tắc, vô phương giải thoát.
Bốn câu thơ thật độc đáo – vừa giàu chất tạo
hình, vừa sống động như chạm khắc bằng lời. Quả
thực đây là một tác phẩm điêu khắc bằng thơ.”


Nét đặc tả (tả chi tiết):
Pho tượng thứ ba:
“Có vò chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn…”

Tư thế cách biệt –thụ
động, cam chòu, bất lực.

Nhưng đôi tai dài, rộng khác
thường vẫn đón nhận mọi khổ
đau của cuộc đời.

Đau đớn, bất lực



Tả bao quát:
- Các pho tượng ngồi
lặng yên nhưng đau
đớn, vật vả trong một
xã hội tối tăm đầy
biến động.
Hội tụ về đây
như những chứng
nhân của thời đại.

Các vò ngồi đây trông lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vả
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.

- Các pho tượng quay cuồng,sục sôi tìm lối thoát.Nhưng
càng vật vả,càng đau đớn,bất lực,tuyệt vọng.


“Hình ảnh “giông bão nổ trăm miền”, “vực thẳm
đời nhân loại”,“bóng tối đùn ra trận gió đen”,“cuộc
họp lạ lùng trăm vật vả” tượng trưng cho một thời đại
tăm tối đầy biến động. Những giông bão dữ dội đã đưa
nhân loại xuống vực thẳm tăm tối, tận cùng của nỗi
thống khổ. Vậy mà vẫn chưa đủ! chữ “đùn” đầy ghê sợ
như đùn lên từ âm ti đòa ngục những trận gió đen tăm

tối dữ dội khác, gây nên cảm giác sợ hãi, kinh hoàng.
Với cách tả bao quát kết hợp với suy tưởng, tác giả
cho ta cảm giác không phải một cá nhân mà cả một
nhân loại, một thời đại đang chòu chung số phận đau
khổ.Và các pho tượng La Hán hội tụ về đây như những
chứng nhân của một thời đại.”


“Một câu hỏi lớn. Câu thơ bỏ lửng! câu hỏi vang lên
trong không trung,vũ trụ bao la,vượt qua cả thời gian
nhưng cuối cùng vẫn không lời đáp. Một cảm giác hụt
hẫng,chới với,tuyệt vọng đến khôn cùng! Đại thi hào
Nguyễn Du trong bài “ Độc Tiểu Thanh Ký” đã từng nói
“ cổ kim hận sự thiên nan vấn” có nghóa là những mối
hận từ xưa đến nay không thể hỏi trời được. Chính vì
vậy, cho nên các vò La Hán với tấm lòng từ bi vô lượng,
muốn giải thoát cho hết thảy chúng sinh cũng đành bất
lực tuyệt vọng “cho đến bây giờ mặt vẫn chau”.Từ
“chau” được dùng ở đây rất đắt, rất đời và cũng rất người
– vừa thể hiện được vẻ đẹp thẩm mỹ của nghệ thuật điêu
khắc dân gian,vừa nêu bật lên sự nhức nhối, trăn trở, suy
tư của bao lớp người xưa.”


Chân dung các pho tượng La Hán là
một công trình điêu khắc bằng thơ đoạn thơ thể hiện cảm hứng mãnh
liệt, óc quan sát sắc sảo và trí tưởng
tượng phong phú của tác giả.



2.Suy ngẫm của tác giả (5 khổ tiếp):
Nào đâu bác thợ cả xưa đâu?
Sống lại cho tôi hỏi một câu
Bác tạc bấy nhiêu hình khổ hạnh
Phải chăng chuyện phật kể cho nhau?
Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão
Bấy nhiêu tâm sự bấy nhiêu đời
Làcha ông đó bằng xương máu
Đã khổ, không yên cả đứng ngồi.
Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can, vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu.


Đứt ruột cha ông trong cái thû
Cuộc sống dậm chân hoài một chỗ
Bao nhiêu hy vọng thúc bên sườn
Héo tựa mầm non chiếu ánh dương.
Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ám nửa sương tà.


2.Suy ngẫm của tác giả (5 khổ tiếp):
- Người nghệ só xưa đã mượn chuyện
Phật để nói chuyện đời, các pho tượng
đã phản ánh hiện thực thời đại.
- Tác giả cảm thông, trân trọng và

đồng cảm với người xưa trong nỗi khổ
đau, bế tắc của sự tìm đường.
Giàu chất triết ly,ùsuy tưởng.


3.Cảm nhận của tác giả về sự
thay đổi diện mạo của các pho
tượng trong thời đại mới:
- Thời đại mới sẽ xua đi mọi khổ đau,
bế tắc–giải tỏa câu hỏi đau đời của cha
ông ta.
Cảm hứng chủ quan - thể hiện tinh
thần lạc quan,tin tưởng vào cuộc sống
mới.


III.TỔNG KẾT:
1.Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ điêu khắc, giàu chất tạo hình.
- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc
và suy tưởng.

2.Nội dung:

- Phản ánh hiện thực của thời đại.
- Chia sẻ, cảm thông với nỗi niềm
của cha ông.
- Niềm tin yêu cuộc đời mới.





Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×