Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

chủ trương của đảng nhà nước về ngoại giao văn hóa từ 1986 den nam 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.85 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ DUYÊN

CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC
VIỆT NAM VỀ NGOẠI GIAO VĂN HOÁ
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2011

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 602256

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HàNội – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ DUYÊN

CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC
VIỆT NAM VỀ NGOẠI GIAO VĂN HOÁ
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2011

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 602256

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Võ Kim Cƣơng

HàNội – 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................... 7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 7
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................... 8
6. Đóng góp của luận văn............................................................................ 9
7. Về kết cấu của luận văn .......................................................................... 9
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA VÀ NGOẠI GIAO
VĂN HÓA .................................................................................................. 10
1.1. Văn hóa – giao lƣu văn hóa và văn hóa đối ngoại ....................... 10
1.1.1. Văn hóa ...................................................................................... 10
1.1.2. Giao lưu văn hóa ....................................................................... 14
1.1.3. Văn hóa đối ngoại ..................................................................... 16
1.2. Ngoại giao ........................................................................................ 17
1.2.1. Khái niệm ngoại giao ................................................................ 17
1.2.2. Vai trò của ngoại giao ............................................................... 20
1.3. Ngoại giao văn hóa .......................................................................... 26
1.3.1. Khái niệm ................................................................................... 27
1.3.2. Vai trò của ngoại giao văn hóa ................................................. 28
1.3.3. Vị trí của ngoại giao văn hóa.................................................... 37
Chƣơng 2. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC VỀ NGOẠI
GIAO VĂN HÓATỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2011 ................................ 41
2.1. Bối cảnh quốc tế và trong nƣớc tác động đến sự thay đổi quan

điểm đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam ............................... 41
2.1.1. Bối cảnh quốc tế ........................................................................ 41
2.1.2. Bối cảnh trong nước ................................................................. 43

1


2.2. Đƣờng lối chỉ đạo của Đảng về ngoại giao văn hóa từ năm 1986
đến năm 2011.......................................................................................... 44
2.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về ngoại
giao văn hóa từ năm 1986 đến năm 2011 .......................................... 44
2.1.2. Chủ trương của Bộ ngoại giao về ngoại giao văn hóa ............ 48
2.3. Triển khai trong thực tiễn.............................................................. 56
2.3.1. Công tác thông tin tuyên truyền ............................................... 59
2.3.2. Xây dựng các cơ sở, công trình văn hóa, lịch sử Việt Nam ở
nước ngoài ............................................................................................ 60
2.3.3. Tham gia các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa,
nghệ thuật trong và ngoài nước. ........................................................ 62
2.3.4. Kết hợp các hoạt động ngoại giao văn hóa với các hoạt động đối
ngoại ..................................................................................................... 64
2.3.5. Xây dựng thông điệp và thương hiệu quốc gia ........................ 65
2.3.6. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài .................................. 67
2.3.7. Quan hệ với UNESCO và các thể chế hợp tác quốc tế khác vền
văn hóa ................................................................................................. 74
2.3.8. Quảng bá hình ảnh Việt Nam tới bạn bè quốc tế thông qua các
hoạt động du lịch ................................................................................. 76
Chƣơng 3. ĐÁNH GIÁ KÊT QUẢ CỦA NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1986 - 2011 ................................................... 82
3.1 Một số thành tựu và hạn chế của ngoại giao văn hóa .................. 82
3.1.1. Thành tựu .................................................................................. 82

3.1.2. Hạn chế ...................................................................................... 86
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu và khuyến nghị. ............................. 92
3.2.1. Một số kinh nghiệm chủ yếu..................................................... 92
3.2.2. Một số khuyến nghị ................................................................... 95
KẾT LUẬN .............................................................................................. 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 111

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang đứng trước những thời cơ, hội nhập sâu rộng vào
thị trường khu vực và quốc tế, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên
thế giới. Việt Nam đang được bạn bè khắp năm châu quan tâm và mong
muốn phát triển quan hệ hợp tác. Nhiệm vụ đặt ra cho Ngoại giao Việt
Nam hết sức nặng nề. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ “giữ vững
môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế -xã hội, công nghiệp hóa - hiện đại hoá
đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Quán triệt tinh thần đó, Hội nghị
lần thứ 25 của ngành Ngoại giao năm 2006 đã thống nhất và đi vào triển
khai đồng bộ chính sách ngoại giao dựa trên 3 trụ cột: Ngoại giao Chính trị,
Ngoại giao Kinh tế và Ngoại giao Văn hóa.
Trong thế chân kiềng đó, Ngoại giao Văn hóa có vai trò hết sức quan
trọng, vì nó vừa là nền tảng tinh thần, vừa là biện pháp và mục tiêu của
chính sách đối ngoại Việt Nam, nó bổ trợ rất hữu hiệu cho các trụ cột khác,
tạo thành một chỉnh thể chính sách đối ngoại, phát huy tốt nhất sức mạnh
dân tộc và kết hợp hiệu quả với sức mạnh thời đại. Có thể nói, văn hóa
mang thế mạnh đặc thù, là nhân tố duy nhất có thể thâm nhập vào mọi lĩnh
vực và hiện hình trong sức mạnh tổng hợp của mọi quốc gia. Nhìn rộng ra,

chúng ta thấy một quốc gia muốn trở thành cường quốc khu vực hay thế
giới thì nền văn hoá của quốc gia đó phải có sức hút trên phạm vi khu vực
và thế giới. Còn đối với một nước vừa và nhỏ, muốn tồn tại và phát triển thì
càng phải phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc, qua đó nhân thêm sức
mạnh của mình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giành được sự coi trọng
của các nước và có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Thông qua việc
quảng bá rộng rãi các giá trị văn hoá đặc sắc, độc đáo của Việt Nam, ngoại

3


giao văn hóa muốn chuyển tới bạn bè quốc tế thông điệp về một nước Việt
Nam hòa bình, ổn định, thân thiện, cởi mở, đang thực hiện đổi mới thành
công, phát triển nhanh, bền vững và đóng vai trò ngày càng lớn hơn trong
khu vực và trên thế giới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa, sau Hội nghị
Ngoại giao lần thứ 25, đồng thời với việc đẩy mạnh Ngoại giao chính trị và
Ngoại giao kinh tế lên một tầm cao mới, Bộ Ngoại giao cũng đã triển khai
đồng loạt nhiều biện pháp để đưa Ngoại giao văn hóa thực sự thành một
trong 3 trụ cột của ngành Ngoại giao Việt Nam. Năm 2009 - năm được xem
là bản lề của Ngoại giao văn hóa. Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các Bộ,
ban ngành và nhiều địa phương triển khai nhiều hoạt động văn hóa đối
ngoại đa dạng, phong phú, mang lại những kết quả bước đầu đáng khích lệ.
Vị thế của Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều trong những năm
gần đây. “Việt Nam đất nước an toàn và bình yên nhất” là lời của nhiếp ảnh
gia người Nga Sergei Kovalchuk trong cuốn album ảnh Cửa sổ nhìn vào
Đông Dương gồm 150 bức ảnh được chọn từ hơn 10.000 bức ảnh giới thiệu
về Việt Nam và Campuchia. Việt Nam được lựa chọn là nơi tổ chức nhiều
hội nghị cấp cao của khu vực và thế giới: Hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng
pháp ngữ (1997), Hội nghị cấp cao ASEAN 6 (12/1998), Lễ kết nạp

Campuchia vào ASEAN (4/1999), Hội nghị ASEAN 5 (10/2004), Hội nghị
thượng đỉnh APEC 14 (11/2006), và nhiều hội nghị của ASEAN (2010,
2011) khi Việt Nam đảm nhận trọng trách chủ tịch ASEAN… Qua đó, Việt
Nam đã chứng tỏ cho bạn bè quốc tế biết đến Việt Nam - một đất nước hòa
bình, thân thiện và mến khách. Đây là một thành công không nhỏ của chính
sách đối ngoại, trong đó có những đóng góp của ngoại giao văn hóa. Việt
Nam đang từng bước thiết lập và hoàn thiện các khuôn khổ hợp tác mang
tính chất chiến lược với các nước lớn trên thế giới.

4


Tuy nhiên, có thể thấy rằng ngoại giao văn hóa là một nội dung rất
mới, không chỉ đối với các nhà hoạch định chính sách, mà còn đối với cả
giới nghiên cứu, các nhà hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật và
đông đảo những người quan tâm.
Ngoại giao văn hóa là gì? Hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt
Nam được thực hiện như thế nào trong thời gian qua? Làm gì để phát huy
hơn nữa ngoại giao văn hóa, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế? v.v…Đây là những lý do chính để tôi chọn đề tài “ Chủ
trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về ngoại giao văn hóa từ năm
1986 đến năm 2011” làm đề tài cho Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lịch
sử Đảng cộng sản Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở Việt Nam, nhìn chung những công trình của các nhà nghiên cứu về
ngoại giao Việt Nam có một số lượng không nhỏ, nhưng chủ yếu đề cập
đến ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị.
Số các công trình về ngoại giao văn hóa còn khiêm tốn. Trong số đó
phải kể đến cuốn “Đối thoại liên văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây”
của tác giả Hữu Ngọc đã đề cập đến vấn đề đối thoại dưới góc độ tiếp biến

văn hóa, cho đối thoại chỉ là một hình thức của tiếp biến văn hóa. Một số
bài viết, bài phát biểu của các nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu ngoại giao,
nghiên cứu văn hóa trình bày trong Hội thảo quốc gia:“Ngoại giao văn hóa
vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình, hội nhập
và phát triển bền vững” được tổ chức vào ngày 15 và 16 tháng 10 năm
2008, tại Hà Nội. Bên cạnh đó là một số bài của tác giả Vũ Dương
Huân:“Bàn về ngoại giao nghị viện và thực tiễn Việt Nam”, được đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, đã giới thiệu khái quát về ngoại giao nghị viện
nói chung và hoạt động ngoại giao nghị viện của Quốc hội Việt Nam trong

5


những năm gần đây. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những nghiên cứu bước
đầu, có ý nghĩa gợi mở cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn sau này.
Năm 2009, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành cuốn Ngoại
giao và công tác Ngoại giao của Vũ Dương Huân trình bày những hiểu
biết cụ thể trong công tác ngoại giao, giới thiệu một cách có hệ thống các
nội dung của ngoại giao như: các khái niệm ngoại giao, cơ quan đại diện
ngoại giao, thư tín ngoại giao, tiếp xúc ngoại giao, ngoại giao kinh tế, ngoại
giao văn hoá, đàm phán ngoại giao, văn kiện ngoại giao, lễ tân ngoại giao...
Ở nước ngoài, mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau nhưng trong
thực tiễn, mỗi quốc gia đều đã thực thi những hoạt động mang tính chất
ngoại giao văn hóa dưới nhiều hình thức và nội dung phong phú. Ngoại
giao văn hóa cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều học giả nước ngoài, trong
số đó phải kể đến Ngoại giao văn hóa của CAC (Center for Art and
Culture) thành lập năm 2003 thuộc Central European University. Tổ chức
CAC được thành lập nhằm mục đích khuyến khích các nghiên cứu, phát
triển các môn học thuộc lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa và ngoại giao văn hóa
; ICD (Institute for Cultural Diplomacy) thành lập năm 1999, trụ sở tại

Berlin, đây là một tổ chức quốc tế hoạt động với mục đích góp phần xây
dựng và phát triển hòa bình thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt
động trao đổi văn hóa quốc tế và các vấn đề về ngoại giao văn hóa; hay
cuốn Ngoại giao văn hóa của Lý Trí (Trung Quốc), bài viết có tính chất
tổng kết của một số nhà lý luận Trung Quốc, và nhất là qua mấy chục năm
“làm bạn” với một số người Trung Quốc trong giới ngoại giao, giới học
thuật cũng như ngưòi dân bình thường, ở trung ương cũng như địa phương
qua các thời kỳ .
Tháng 5/2008, Trung Quốc xuất bản cuốn sách “Ngoại giao văn hóa
và sức mạnh mềm của Trung Quốc” do chính người Trung Quốc viết, phản

6


ánh những tư tưởng, quan điểm của Trung Quốc về ngoại giao văn hóa như
một lĩnh vực, một phương thức ngoại giao mới.
Tựu chung, các công trình nghiên cứu cả trong và ngoài nước đã
khẳng định vị trí, vai trò cũng như tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa
trong chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia đặc biệt trong bối cảnh toàn
cầu hóa và khu vực hóa.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích chính của luận văn là đánh giá hoạt động ngoại giao văn
hóa của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn
1986 – 2011, qua đó làm nổi bật tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa
trong sự nghiệp đổi mới, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
* Nhiệm vụ:
1) Làm rõ khái niệm ngoại giao văn hóa thông qua việc giới thiệu các
quan điểm và thực tiễn ngoại giao văn hóa của một số quốc gia trên
thế giới.

2) Trình bày một cách hệ thống đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước về ngoại giao văn hóa từ năm 1986 – 2011 và những hoạt động
tiêu biểu của chủ trương này trong thực tiễn.
3) Đánh giá những thành tựu, hạn chế hoạt động ngoại giao văn hóa từ
năm 1986 – 2011 và đưa ra một kiến nghị nhằm tăng cường hơn nữa
hoạt động ngoại giao văn hóa trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về ngoại giao văn
hóa và các hoạt động của ngoại giao văn hóa trong thực tiễn giai đoạn từ
năm 1986 – 2011.

7


- Thời gian nghiên cứu từ năm 1986 khi đường lối đổi mới được
chính thức thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng và
kết thúc và năm 2011 có ý nghĩa quan trọng đối với đất nước ta vì là năm
đầu tiên chúng ta triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng XI, Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển) xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 và
kế hoạch phát triển 5 năm 2011-2015. Hòa vào dòng chảy chung của thế
giới, hướng đến thời kỳ tăng trưởng bền vững sau khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, Việt Nam cũng bước vào triển khai chiến lược tăng trưởng mới, hướng
tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu: gồm các nhóm sau:
- Nhóm tài liệu thứ nhất: Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12/1986), VII (6/1991), VIII
(6/1996), IX (4/2001), X (4/2006); Văn kiện của Đảng và Nhà nước về

ngoại giao văn hóa, những nghị quyết của các Hội nghị ngành ngoại giao
Việt Nam.
- Nhóm tài liệu thứ hai: Các bài phát biểu, các tuyên bố của các nhà
lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các nhà ngoại giao.
- Nhóm tài liệu thứ ba: Những cuốn hồi ký của các nhà hoạt động
ngoại giao Việt Nam trong các thời kỳ.
- Nhóm tài liệu thứ tư: Các sách chuyên khảo, các bài tạp chí, các bài
báo về ngoại giao văn hóa.
- Nhóm tài liệu thứ năm: Các bài viết trên các Website của chính phủ
như: www.cpv.org.vn, www.mofa.gov.vn , ...
* Phương pháp nghiên cứu:

8


Phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử - logic có kết hợp với
phân tích tổng hợp, đối chiếu, so sánh. Các phương pháp trên được vận
dụng phù hợp với từng nội dung của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Cung cấp những tư liệu, những kiến thức về ngoại giao văn hóa của
Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ từ năm 1986 đến năm 2011.
- Làm sáng tỏ đường lối ngoại giao văn hóa của Đảng cộng sản Việt
Nam qua từng giai đoạn từ 1986 – 2011. Qua đó làm rõ sự thay đổi về quá
trình nhận thức của Đảng trong lĩnh vực ngoại giao văn hóa và vai trò của
ngoại giao văn hóa đối với sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
- Khái quát hoạt động ngoại giao văn hóa của Đảng và Nhà nước,
thông qua việc đánh giá những thành tựu đạt được, hạn chế, những thuận
lợi và khó khăn, rút ra bài học kinh nghiệm của hoạt động đó.
- Những thành tựu và hạn chế, nêu lên một số kinh nghiệm về hoạt
động ngoại giao văn hóa của một số nước trong khu vực và thế giới.

7. Về kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, cấu trúc
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về văn hóa và ngoại giao văn hóa
Chương 2: Đường lối chỉ đạo của Đảng và nhà nước về ngoại giao
văn hóa từ năm 1986 đến năm 2011
Chương 3: Đánh giá kết quả của ngoại giao văn hóa Việt Nam trong
giai đoạn 1986 -2011
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thành luận văn, nhưng
do trình độ và khả năng có hạn. Chắc chắn luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô
và các bạn đồng nghiệp.

9


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA VÀ NGOẠI GIAO VĂN HÓA
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đa phương theo cả bề
rộng và chiều sâu, Ngoại giao Văn hóa giữ một vị trí quan trọng trong
chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, đây còn là 1 trong những phương
tiện góp phần bảo vệ an ninh, phát triển, gây ảnh hưởng đến vị thế quốc gia
trên thế giới.Ngoại giao văn hóa trước hết liên quan tới hai yếu tố ngoại
giao và văn hóa. Vì vậy, để có thể định hình được một khái niệm về ngoại
giao và văn hóa cần tìm hiểu những khái niệm văn hóa, ngoại giao, và các
khái niệm khác có liên quan.
1.1. Văn hóa – giao lƣu văn hóa và văn hóa đối ngoại
1.1.1. Văn hóa
Trên thế giới, khái niệm về văn hóa rất rộng và có hơn 400 định nghĩa
khác nhau về lĩnh vực này. Tuy nhiên, một khái niệm được cho là chung

nhất về văn hoá là định nghĩa được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa của Liên Hiệp Quốc - UNESCO đưa ra vào năm 1982 và điều chỉnh
vào đầu thế kỷ XXI. Theo đó, Văn hóa là “tổng hợp các đặc điểm tinh
thần, thể chất, tri thức và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hoặc một
nhóm xã hội. Những đặc trưng này giúp ta phân biệt được xã hội này với
các xã hội khác” [5, tr.262].
Trong tiếng việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học
thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt, văn hóa để chỉ trình độ phát triển
của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng, thì văn hóa bao gồm tất cả,
từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối
sống... [66, tr.57].

10


+ Theo đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt
Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa
Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: “ Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh
thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”.
+ Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do NXB Đà Nẵng và
Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 đã đưa ra một loạt khái niệm về
văn hóa:
- Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
- Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.
- Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời
sống tinh thần.
- Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học.

- Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh
- Văn hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ
xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm
giống nhau: ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn…
+ Trong cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và
NXB Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: Văn hóa –
Vô sở bất tại: Văn hóa - không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả
những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi
nào có con người nơi đó có văn hóa [43, tr.69].
+ Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO: Văn
hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia.

11


Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do
con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.
Ở phương Đông, văn hóa đã có trong đời sống từ rất sớm với nghĩa
như một phương thức giáo hóa con người. Văn hóa ở đây được dùng để đối
lập với vũ lực.
Ở phương Tây, trong tiếng Anh “văn hóa” là culture, trong tiếng Đức
là kultur, trong tiếng Nga là kultura. Những chữ này có chung gốc Latinh
là chữ cultus animi là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ cultus là văn hóa với hai
khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục,
đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ phát triển những giá trị nhân văn và có
những phẩm chất tốt đẹp [47, tr.134]
Thế kỷ XIX, nhà nhân loại học E.B.Taylor định nghĩa, văn hóa là
toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được
với tư cách là một thành viên của xã hội [28, tr.55].

Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày như ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa”. Văn hóa là sự tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn
[43, tr.431].
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “ Nói tới văn hóa là nói tới một
lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không
phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong quá trình tồn tại,

12


phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… cốt lõi của sức sống dân
tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó [66, tr.21-22].
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn
hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm
hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người
trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống,
phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng [3,
tr.16-17].
Văn hóa còn là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa
lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã
hội. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương
tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và
của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và
hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do

con người tạo ra.
Trong ý nghĩa rộng nhất, “văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể
những nét riêng biệt lẫn cả tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết
định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội… Văn hóa
đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân”. Theo đó, văn hóa
không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể nói chung những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa
của mọi sự phát triển. Đây chính là cách hiểu phổ biến nhất về văn hóa
được nêu ra bởi UNESCO [66, tr.23]
Như vậy, tổng hợp lại tất cả các quan điểm, văn hóa là những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, nói cách khác chủ thể sáng
tạo ra văn hóa là con người. Văn hóa của mỗi vùng miền, mỗi quốc gia,

13


lãnh thổ lại được quy định bởi môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và
điều kiện lịch sử. Bên cạnh đó, các yếu tố cấu thành văn hóa gồm: con
người – chủ thể sáng tạo ra văn hóa, môi trường tự nhiên, môi trường xã
hội và điều kiện lịch sử.
1.1.2. Giao lưu văn hóa
Một trong những đặc điểm của văn hóa là giao lưu. Giao lưu là “quá
trình trao đổi giá trị giữa những cộng đồng người có văn hóa khác nhau gây
ra những biến đổi nhiều hay ít trong quá trình phát triển của các nền văn
hóa. Quá trình này thúc đẩy sự tiếp thu tinh hoa lẫn nhau, nâng cao sự hiểu
biết lẫn nhau và giúp một nền văn hóa có thể khẳng định mình trong môi
trường văn hóa chung” [28, tr.45].
Nguồn gốc: Nguồn gốc của giao lưu văn hóa là sự tiếp xúc về văn hoá.
“Tiếp xúc văn hoá” là hiên tượng nền văn hóa của cộng đồng này gặp gỡ
hoặc ở gần đến mức có thể trực tiếp chịu tác động, gây ra sự biến đổi văn

hoá của cộng đồng khác. Đây là giai đoạn đầu, là điều kiện để dẫn đến sự
giao lưu văn hoá. Tuy nhiên, không phải cuộc tiếp xúc văn hoá nào cũng
dẫn đến quá trình giao lưu văn hoá. Giao lưu văn hoá chỉ có thể xem là hệ
quả tất yếu của sự tiếp xúc văn hoá khi sự tiếp xúc đó phải diễn ra liên tục
trong một thời gian dài gây ra những biến đổi cơ bản về mô thức văn hoá
ban đầu [28,tr.45].
Định nghĩa: Giao lưu văn hoá là sự tiếp xúc trao đổi qua lại những giá
trị giữa các cộng đồng người khác nhau. Qua đó các nền văn hóa được bổ
sung

hem nhiều yếu tố mới làm biến đổi mô thức văn hoá ban đầu [79,

tr.52]
Vai trò: Giao lưu văn hoá là sự vận động thường xuyên của văn hoá.
Nó không chỉ là động lực phát triển của văn hoá mà còn là động lực của sự
tiến hoá của xã hội.

14


Giao lưu văn hóa là một quy luật của thời đại, là hiện tượng phổ biến
của xã hội loài người. Nhờ giao lưu văn hoá đúng hướng mà các nước
chậm phát triển có cơ hội trở thành nước phát triển. Trong mọi hoạt động
văn hóa Ðảng và Nhà nước bao giờ cũng nêu cao tinh thần: “kế thừa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại”. Giao
lưu văn hoá giúp giới thiệu lịch sử, đất nước, con người, văn hóa Việt Nam
với thế giới và giúp ngăn ngừa và đấu tranh chống sự xâm nhập các sản
phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài. Giao lưu văn hóa tạo nên sự dung hợp,
tổng hợp và tích hợp văn hóa ở các cộng đồng, quốc gia, giữa các dân tộc
với nhau. Ở đó có sự kết hợp giữa các yếu tố “nội sinh” với yếu tố “ngoại

sinh” tạo nên sự phát triển văn hóa phong phú, đa dạng và tiến bộ hơn.
Như vậy giao lưu và tiếp biến văn hoá có vai trò hết sức quan trọng
trong tiến trình phát triển văn hoá của một dân tộc. Nhưng giao lưu như thế
nào, tiếp biến như thế nào để vừa giữ gìn, bảo tồn, vừa phát triển văn hoá
dân tộc? [59, tr.69].
Giao lưu văn hóa là một hiện tượng phổ biến của xã hội loài người,
một quy luật vận động và phát triển của các dân tộc và của các nền văn
hóa. Giao lưu văn hóa phản ánh sự học hỏi và tiếp nhận lẫn nhau giữa các
dân tộc, giữa các quốc gia về thế giới quan, hệ tư tưởng, phong tục, tập
quán, tôn giáo, đạo đức, đặc biệt là những thành tựu về trí tuệ, khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, kinh nghiệm quản lý đất nước…
Giao lưu văn hóa nhằm nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc
gia, dân tộc, góp phần vào quá trình hội nhập quốc tế và qua đó thúc đẩy sự
phát triển của đất nước, là yếu tố cơ bản để giữ gìn hòa bình và an ninh thế
giới. Ngoài ra, giao lưu văn hóa còn giúp một nền văn hóa có thể khẳng
định được mình trong môi trường văn hóa chung và tiếp thu những tinh hoa
từ nền văn hóa khác. Do Việt Nam nằm ở vị trí ngã tư đường của sự giao

15


lưu khu vực Đông Nam Á và thế giới vì thế, trong lịch sử dân tộc đã tiếp
xúc và giao lưu với nhiều nền văn hoá khác nhau của nhân loại như: Đông
Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp… [5, tr.269]
Trong quá trình giao lưu văn hoá, một điều tất yếu sẽ xảy ra là, bất
kể văn hoá của cộng đồng người đang ở nấc thang nào của sự tiến hoá nhân
loại thì một số yếu tố văn hoá của cộng đồng người này có thể lan truyền
đến cộng đồng người kia. Các yếu tố văn hoá này có khi là cá biệt, rời rạc,
nhưng cũng có khi lại kết thành hệ thống chặt chẽ, có khi lại kết dính với
những yếu tố văn hoá truyền thống, có khi lại làm đổi mới mạnh mẽ các

yếu tố văn hoá đó là yếu tố ngoại sinh. Vì vậy, giao lưu văn hoá vừa là kết
quả của sự trao đổi, vừa là chính bản thân của sự trao đổi. Có như vậy mới
thấy hết tầm quan trọng của giao lưu văn hoá trong lịch sử nhân loại. Đây
là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Như vậy, giao lưu văn hóa là nhu cầu tự nhiên của loài người, quy
luật tất yếu của đời sống, nhưng cũng là một thách thức trong bối cảnh toàn
cầu hóa. Tuy nhiên giữa hoạt động ngoại giao và bản sắc văn hóa dân tộc
có mối liên quan chặt chẽ. Nói cách khác, ngoại giao cũng là một phần của
văn hóa. Chính sách đối ngoại của mỗi dân tộc, ít nhiều đề chịu ảnh hưởng
và sự chi phối bởi chính nền văn hóa của chính dân tộc đó. Trong quá trình
phát triển, mỗi nền văn hóa đều tiếp xúc, giao lưu và đối thoại với nhiều
nền văn hóa khác nhau. Giao lưu nhằm tăng cường, nâng cao sự hiểu biết
và nhận thức về những giá trị chung của toàn nhân loại và tôn trọng sự
khác biệt của từng dân tộc. Đồng thời tạo cơ hội cho các nền văn hóa hợp
tác cùng chung sống hòa bình vì sự phát triển bền vững. Văn hóa chính là
nền tảng, mục tiêu và nội dung của hoạt động ngoại giao nói riêng hay đời
sống của quan hệ quốc tế nói chung.
1.1.3. Văn hóa đối ngoại

16


Trong sự phát triển của quan hệ quốc tế, việc sử dụng văn hóa để
hướng tới mục tiêu đối ngoại của các quốc gia đã dẫn đến sự xuất hiện của
văn hóa đối ngoại. Văn hóa đối ngoại là tất cả các hoạt động giao lưu văn
hóa của một quốc gia, dân tộc có yếu tố bên ngoài. Cũng như giao lưu văn
hóa, văn hóa đối ngoại đưa văn hóa của quốc gia giới thiệu ra bên ngoài để
nâng cao hình ảnh, sự hiểu biết và cũng để tiếp thu tinh hoa văn hóa bên
ngoài, làm giàu cho nền văn hóa quốc gia [30, tr 55-57].
Văn hoá đối ngoại là tổng thể các hoạt động ứng xử của một dân tộc

này đối với các dân tộc khác nhằm đạt được các mục tiêu chính trị, kinh tế
và văn hoá. Văn hoá đối ngoại thể hiện chiều cao của văn minh, chiều sâu
của lịch sử và văn hoá của mỗi quốc gia, dân tộc…
Chính vì vậy, Đảng ta luôn xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất
trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ, làm
cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành sức mạnh nội sinh quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
1.2. Ngoại giao
1.2.1. Khái niệm ngoại giao
Khái niệm ngoại giao đã xuất hiện từ rất lâu, và trên thế giới cũng
đã có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về ngoại giao. Theo từ điển
Oxford 1965:“ Ngoại giao là việc tiến hành những quan hệ quốc tế bằng
cách đàm phán, đó là công tác, nghệ thuật của các nhà ngoại giao” [51,
tr.33]. Với E.Stow, ông lại cho rằng “ngoại giao là sự sắp đặt trí tuệ và
lịch thiệp vào việc tiến hành những quan hệ chính thức giữa các chính
phủ”. Từ điển Tiếng Việt năm 1996 lại định nghĩa “ngoại giao là sự giao

17


thiệp với nước ngoài để bảo vệ quyền lợi của quốc gia mình và góp phần
giải quyết những vấn đề quốc tế chung”.
Ở Pháp, cho rằng: “Ngoại giao là hoạt động chính trị liên quan đến
mối quan hệ giữa các quốc gia, đại diện quyền lợi của một chính phủ ở
nước ngoài, quản lý công việc quốc tế, hướng dẫn và tiến hành đàm phán
giữa các quốc gia đó”.
Theo những nghiên cứu ở Liên Xô trước đây và Nga hiện nay:
“Ngoại giao là hoạt động chính thức của người đứng đầu nhà nước, chính

phủ và của các cơ quan chuyên trách về quan hệ đối ngoại, nhằm thực hiện
mục tiêu, chính sách đối ngoại của quốc gia, cũng như nhằm bảo vệ quyền
lợi, quốc gia ở nước ngoài. Theo các học giả phương Tây, ngoại giao vừa
là khoa học, vừa là nghệ thuật, tuy nhiên họ chú ý khía cạnh nghệ thuật hơn
là góc độ khoa học. Họ thường nhấn mạnh vai trò, tài năng cá nhân của các
nhà ngoại giao, các nhà đàm phán.
Ở Việt Nam, cuốn từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Ngoại
giao là một ngành khoa học mang tính tổng hợp, một nghệ thuật của các
khả năng, là hoạt động của các cơ quan làm công tác đối ngoại và các đại
diện có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ chính sách đối ngoại của nhà nước
nhằm bảo vệ các quyền lợi và lợi ích của nước mình” [23, tr.75]
Trước kia, ngoại giao là công việc của các Bộ trưởng Ngoại giao
nhưng trong những thập kỉ gần đây, những người đứng đầu quốc gia, đứng
đầu chính phủ cũng làm công việc ngoại giao thông qua những cuộc gặp
thượng đỉnh, những chuyến thăm chính thức, viếng thăm làm việc và đàm
phán cấp cao. Ngoại giao còn được tiến hành trong các hội nghị và cuộc
gặp gỡ ngoại giao, chuẩn bị kí các điều ước quốc tế hoặc các văn kiện
ngoại giao.

18


Như vậy có thể thấy, ngoại giao là một phạm trù rộng, được hình
thành do nhiều yếu tố: ở phạm vi rộng đó là truyền thống văn hóa dân tộc,
hẹp hơn đó là truyền thống văn hóa gia đình, môi trường giáo dục và hoạt
động nhận thức của mỗi người.
Hoạt động ngoại giao của một đất nước là tiếng nói của cả một quốc
gia dân tộc thông qua hoạt động không chỉ của một cá nhân đơn lẻ, mà còn
là hoạt động của chính quốc gia dân tộc ấy. Bởi vậy, để hình thành một
phong cách ngoại giao của một dân tộc thì không thể phủ nhận yếu tố văn

hóa truyền thống của chính dân tộc ấy. Truyền thống văn hóa, bản sắc văn
hóa, những phẩm chất đã thấm nhuần trong mỗi cá nhân, mỗi con người –
những chủ thể của chính nền văn hóa đó.
Như vậy, tuy có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về ngoại
giao, mỗi định nghĩa lại chú trọng nêu bật những khía cạnh mà nó cho là
chủ yếu và quan trọng nhất của khái niệm, nhưng nếu xem xét lại thì tất cả
những định nghĩa này đều có cùng một vài điểm đặc thù cho thấy ngoại
giao là công việc để thực hiện những nhiệm vụ chính trị đối ngoại của các
quốc gia, là công cụ chính sách đối ngoại, là nghệ thuật tiến hành đàm phán
và kí kết giữa các quốc gia…
Tuy vậy, theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, định nghĩa sau có thể
xem là định nghĩa chung nhất và đầy đủ nhất: Ngoại giao là một khoa học
mang tính tổng hợp của chính trị, xã hội; là nghệ thuật của những khả
năng; là hoạt động của các cơ quan đối ngoại nhằm thực hiện chính sách
đối ngoại của Nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi, lợi ích, quyền hạn của
quốc gia, dân tộc trong nước và thế giới, từ đó góp phần giải quyết những vấn
đề chung bằng con đường đàm phán và các hình thức hòa bình [36, tr. 53].
Nếu như coi ngoại giao là một nghệ thuật tiến hành trong việc đàm
phán, dàn xếp, thương lượng giữa những người đại diện cho một nhóm hay

19


một quốc gia. Thuật ngữ này thông thường đề cập đến ngoại giao quốc tế,
việc chỉ đạo, thực hiện các mối quan hệ quốc tế thông qua sự can thiệp hay
hoà giải của các nhà ngoại giao liên quan đến các vấn đề như kinh tế,
thương mại, văn hoá, du lịch, chiến tranh và tạo nền hòa bình, ổn định giữa
các nước. Ngoại giao còn là việc sử dụng các tài xử trí, ứng biến để giành
được sự thuận lợi, là công cụ tạo ra cách diễn đạt các tuyên bố một cách
không đối đầu, như là một cách cử xử lịch thiệp giữa các quốc gia [31,

tr.42].
1.2.2. Vai trò của ngoại giao
1.2.2.1. Vai trò của ngoại giao đối với chính trị
“Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các quốc gia, các dân tộc,
các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền hành nhà
nước”. Như vậy quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia bao hàm một mối
quan hệ chính trị. Trong bối cảnh xã hội ngày càng rộng mở, ngoại giao là
một phương thức nhằm tăng cường các mối quan hệ giữa các quốc gia để
hợp tác cùng phát triển [33, tr.15].
 Xây dựng và phát triển mối quan hệ giữa các quốc gia
Trên chiến trường quốc tế, quan hệ quốc tế luôn thay đổi nên để xây
dựng mối quan hệ chính trị tốt đẹp giữa các quốc gia và duy trì được mối
quan hệ đó là điều không dễ dàng. Các quốc gia phải thể hiện được thiện
chí của mình cũng như mong muốn giải quyết những vấn đề trong quan hệ
chính trị một cách hòa bình. Trên thực tế vấn đề này còn phụ thuộc vào
chính sách đối ngoại của từng quốc gia ở từng giai đoạn khác nhau. Hoạt
động ngoại giao trong đối ngoại cung cấp đầy đủ thông tin, hình ảnh giúp
công chúng và giới chức hữu quan có nhận thức đúng đắn về thiện chí của
các quốc gia trong quan hệ chính trị. Sự nhận thức đúng đắn và hiểu biết
sâu sắc về sự thân thiện giữa các quốc gia sẽ giúp duy trì mối quan hệ tốt

20


đẹp. Từ đó thúc đẩy mối quan hệ nhiều mặt và trong đó có quan hệ về
chính trị. Khi một quốc gia có những mối quan hệ chính trị tốt đẹp với
nhiều quốc gia khác thì đó chính là một lợi thế rất lớn trong quan hệ quốc
tế. Từ đó quốc gia ấy sẽ nhận được nhiều sự đồng tình, ủng hộ trong những
vấn đề quốc tế và được đề cử vào những vị trí quan trọng trong những tổ
chức quốc tế và khu vực…

 Giải quyết khủng hoảng chính trị
Không chỉ giúp xây dựng và duy trì các mối quan hệ chính trị giữa các
quốc gia, ngoại giao còn giúp giải quyết những khủng hoảng chính trị xuất
phát từ sự thiếu hiểu biết hoặc từ sự lệch lạc trong suy nghĩ dẫn đến những
sai lầm. Ngoại giao đóng vai trò rõ rệt trong việc giải thích những tình
huống cụ thể một cách minh bạch, nhờ đó sự thiếu hiểu biết hoặc thậm chí
thái độ thù địch đối với quốc gia sẽ được chuyển thành sự thấu hiểu và
thông cảm.
Như vậy có thể khẳng định rằng ngoại giao đóng vai trò quan trọng
trong việc xây dựng và duy trì mối quan hệ chính trị thân mật giữa các
quốc gia đồng thời cũng giúp giải quyết những khủng hoảng chính trị khi
quốc gia gặp phải.
1.2.2.2. Vai trò của ngoại giao đối với kinh tế
Thu hút đầu tƣ
Không thể phủ nhận rằng nền kinh tế trì trệ, lạc hậu, tốc độ phát triển
kém, không bao giờ là điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Hình ảnh một
đất nước dồi dào lao động, tốc độ phát triển kinh tế cao, thị trường hấp dẫn
sẽ thu hút các nhà đầu tư đến với quốc gia mình. Đặc biệt, các nước đang
phát triển càng phải chú trọng hơn đến vấn đề này. Vấn đề là hình ảnh cuốn
hút các nhà đầu tư đó cần một bệ phóng hoàn hảo - một kế hoạch PR cho
hình ảnh đất nước. Kinh tế của các quốc gia có cùng xuất phát điểm, vào

21


thời gian đầu có thể phát triển tương đồng, nhưng nếu quốc gia nào có một
chiến lược ngoại giao hiệu quả thì quốc gia đó sẽ thu hút ngày càng nhiều
nhà đầu tư và phát triển kinh tế nhanh hơn gấp bội. Từ đó còn có thể giải
quyết thêm nhiều vấn đề khác: việc làm, tệ nạn xã hội… [64: tr.230].
Trên các diễn đàn, tổ chức kinh tế quốc tế cấp chính phủ, vẫn luôn tổ

chức những cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp, các tập đoàn lớn trên thế
giới. Hầu hết các nước, đặt biệt là các nước chủ nhà, đều có cách thức
quảng bá hình ảnh của nước mình để tạo ấn tượng tốt với các doanh
nghiệp, các tập đoàn kinh tế, nhằm thu hút đầu tư. Không phải ngẫu nhiên
mà các tập đoàn lớn thường xuất hiện trong các sự kiện cấp chính phủ, mà
đó là một bài toán kinh tế lớn đã được tính toán kỹ lưỡng để thúc đẩy đầu
tư, hợp tác mang lại lợi ích cho đôi bên.


Mở rộng thị trƣờng
Trong các cuộc gặp gỡ cấp chính phủ, việc tạo ấn tượng tốt đẹp trong

mắt đối tác luôn là vấn đề quan trọng với các quốc gia, bởi những mối quan
hệ tốt đẹp đó không kết thúc ngay sau các cuộc gặp gỡ mà còn mang đến
những lợi ích lâu dài về sau. Một quan chức cao cấp có thể tạo điều kiện
thuận lợi hơn trong nhập khẩu hàng hoá đối với quốc gia mình có ấn tượng
tốt bằng nhiều cách: cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, mở
rộng hạn ngạch… Bên cạnh đó, việc quảng bá thương hiệu quốc gia ra thế
giới sẽ thúc đẩy người tiêu dùng các nước biết đến và tin cậy vào hàng hoá
của nước mình hơn, thị trường tiêu thụ cũng do đó mà được mở rộng.
 Xử lý khủng hoảng kinh tế tầm quốc gia
Trong kinh tế, ngoại giao không chỉ dừng lại ở vai trò xây dựng và phát
triển thương hiệu, mà còn phát huy vai trò quản trị khủng hoảng – dự đoán
rủi ro và xử lý khủng hoảng. Trong ngoại giao cũng vậy, sẽ có những lúc
đất nước gặp phải một sự cố lớn gây tác động đến kinh tế đất nước làm

22


xuất khẩu giảm, đồng tiền mất giá, thương hiệu quốc gia bị ảnh hưởng

xấu… Trong trường hợp đó, ngoại giao luôn phát huy vai trò giải quyết
khủng hoảng, khôi phục hình ảnh đất nước, từ đó khôi phục nền kinh tế,
nhanh chóng đi vào ổn định. Nếu không có một kế hoạch cụ thể, kịp thời và
hiệu quả thì nền kinh tế sẽ rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
1.2.2.3. Vai trò của ngoại giao đối với văn hóa
Trong thời đại ngày nay, hội nhập quốc tế trở thành xu hướng phát
triển bắt buộc, phạm vi quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng thì sự phổ
biến và giao lưu văn hóa ngày càng cần thiết, đi cùng với nó là vai trò của
các hoạt động ngoại giao đối với văn hóa.
 Ngoại giao phổ biến các giá trị văn hóa
Nguyên tổng giám đốc UNESCO, ông Federico Mayor, định nghĩa
"Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc
khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong
tục tập quán, lối sống và lao động" (Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam).
Như vậy, văn hóa của một dân tộc là toàn bộ những gì qua đó một dân tộc
tự biểu hiện mình, tự nhận biết mình và giúp các dân tộc khác nhận biết
mình; có nghĩa là văn hóa chính là nơi thể hiện rõ nhất tinh thần và bản sắc
dân tộc [52, tr.96-97].
Đối với các quốc gia sỡ hữu một nền văn hóa truyền thống lâu đời,
trong hoạt động ngoại giao để giới thiệu và nâng cao hình ảnh đất nước,
những giá trị truyền thống đặc thù luôn là một trong những mối quan tâm
đầu tiên và quan trọng nhất, cũng như luôn được triệt để khai thác. Vì thế
những giá trị độc đáo này chỉ có một hoặc một số ít các quốc gia, dân tộc
mới có nên thu hút được sự chú ý từ những quốc gia, khu vực khác.
Tuy nhiên, phổ biến văn hóa không chỉ gói gọn trong phạm vi các giá
trị văn hóa truyền thống. “Văn hóa là những giá trị, sáng tạo của con người

23



×