Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.17 KB, 27 trang )

Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Các nhân tố của sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế
Bởi:
Học Viện Tài Chính

Các nhân tố kinh tế :
Đây là lượng đầu vào mà sự biến đổi của nó trực tiếp làm thay đổi sản lượng đầu ra. Có
thể biểu hiện mối quan hệ đó bằng hàm số:
Y = F(Xi)
Trong đó: Y là sản lượng, còn Xi (i = 1, 2,..., n) là các biến số đầu vào thể hiện các nhân
tố đều chịu sự điều tiết của mối quan hệ cung - cầu. Một số nhân tố thì ảnh hưởng tới
mức cung, một số nhân tố thì ảnh hưởng tới mức cầu. Sự cân bằng cung - cầu do giá cả
thị trường điều tiết sẽ tác động trở lại các nhân tố trên và dẫn tới kết quả của sự sản xuất,
đó là sản lượng của nền kinh tế.

1/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Trên sơ đồ 1.2, các biến số đóng vai trò của các nhân tố quyết định tổng mức cung (S),
mà sự biến đổi vật chất và giá trị của nó tạo thành tổng sản lượng của nền kinh tế. Đó là
các yếu tố sản xuất. Còn các yếu tố quyết định đến tổng mức cầu (D) thực chất đó là các
nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản lượng thông qua sự cân bằng về cung - cầu (E)
Thực chất của việc tiếp cận đến nguồn gốc của sự tăng trưởng là xác định nhân tố nào là
giới hạn của sự tăng trưởng, giới hạn này do cung hay do cầu?
Các nhà kinh tế đặt nền móng cho các học thuyết kinh tế cổ điển nói riêng và kinh tế học
nói chung như Adam Smith, Jean Baptiste Say, David Ricardo cho đến Alfred Marshall
và ngay cả Karl Marx cũng đều xây dựng các lý thuyết dựa trên quan điểm nghiêng về


cung chứ không phải là cầu. Trong một giai đoạn nhất định (ngắn hạn) sự khan hiếm của
tài nguyên (nguồn đầu vào) hay sự thiếu cung, luôn luôn là giới hạn của sự tăng trưởng,
nhất là khi sức sản xuất còn thấp.
Còn theo trường phái kinh tế học hiện đại, mà xuất phát là Keynes thì mức sản lượng
và việc làm là do cầu quyết định. Điều này được lý giải sản lượng của nền kinh tế luôn
ở dưới mức tiềm năng, tức là nền kinh tế còn các nguồn lực tiềm năng, công nhân thất
nghiệp ở mức tự nhiên, vốn tích luỹ lớn, công suất máy móc chưa tận dụng hết... Đó là
do khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, năng suất luôn được nâng cao. Do đó cung
không phải là vấn đề giới hạn của sự gia tăng sản lượng, mà ở đây nó phụ thuộc vào cầu.
Mặc dù vậy, trên thực tế vẫn còn những nước quá nghèo, chưa đáp ứng được nhu cầu
cơ bản của nhân dân. Song lại có những nước quá giàu đã đáp ứng được nhu cầu của đất
nước và đang mở rộng thị trường ra khỏi biên giới để nhằm đẩy mạnh tăng trưởng. Vì
vậy mỗi quan điểm trên đều có giá trị trong mỗi hoàn cảnh và điều kiện riêng biệt của
mỗi quốc gia .
Xuất phát từ thực tế ở các nước đang phát triển, cung vẫn chưa đáp ứng đựơc cầu, sự
gia tăng sản lượng phải bao gồm sự gia tăng trong đầu vào của các yếu tố sản xuất theo
quan hệ hàm số giữa sản lượng với vốn, lao động, đất đai và nguyên liệu, kĩ thuật và
công nghệ ...
Y = F( K,L,R,T...)
Trong đó:
K: là vốn
L: là lao động
R: là đất đai và tài nguyên
T: là tiến bộ của kĩ thuật và công nghệ
2/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Hàm sản xuất trên nói lên sản lượng tối đa có thể sản xuất được tuỳ thuộc vào sản lượng

các yếu tố đầu vào trong điều kiện trình độ kĩ thuật và công nghệ nhất định. Mỗi yếu tố
có vai trò nhất định, do trình độ phát triển kinh tế ở mỗi nơi, mỗi lúc quyết định:
Nguồn vốn:
Vốn sản xuất và vốn đầu tư
Vốn sản xuất: Là một bộ phận của tài sản quốc dân bao gồm :
- Tài nguyên thiên nhiên
- Tài sản được sản xuất ra
- Nguồn nhân lực
Tài sản được sản xuất ra bao gồm toàn bộ của cải vật chất được tích luỹ lại qua quá trình
phát triển kinh tế của đất nước. Những tài sản này được chia ra làm 9 loại:










1 Công xưởng nhà máy
2 Trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng
3 Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải
4 Cơ sở hạ tầng
5 Tồn kho của tất cả hàng hóa
6 Các công trình công cộng
7 Các công trình kiến trúc quốc gia
8 Nhà ở
9 Các cơ sở quân sự


Theo chức năng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế thì 4 nhóm cuối là: các công
trình công cộng, các công trình kiến trúc quốc gia, nhà ở, các cơ sở quân sự không
tham gia trực tiếp vào các quá trình sản xuất. Nhóm thứ hai bao gồm những tài sản còn
lại: công xưởng nhà máy; trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng; máy móc thiết bị phương tiện vận tải; cơ sở hạ tầng; tồn kho của tất cả hàng hoá là những tài sản được sử
dụng làm phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất được gọi là tài sản sản xuất. Trong
đó 4 loại tái sản đầu được gọi là vốn cố định, loại thứ 5 là tài sản tồn kho
Vốn đầu tư và hình thức đầu tư
Do đặc điểm của việc sử dụng tài sản là hoạt động trong thời gian dài và bị hao mòn
dần, đồng thời do nhu cầu về tài sản ngày càng tăng thêm về tài sản cho nên cần phải
tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn tài sản và tăng thêm khối lượng tài sản
mới. Quá trình này được tiến hành bằng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư.

3/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Vốn đầu tư được chia làm 2 loại: đầu tư cho tái sản sản xuất và đầu tư cho tài sản phi
sản xuất. Vốn đầu tư cho tài sản sản xuất gọi là vốn sản xuất, đó là chi phí để thay thế
tài sản cố định bị thải loại để tăng tài sản cố định mới và để tăng tài sản tồn kho.
Như vậy hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất và
tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hóa vốn thành các tài sản phục vụ
cho quá trình sản xuất. Hoạt động đầu tư thường được tiến hành dưới 2 hình thức:
- Đầu tư trực tiếp :là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào quá trình
hoạt động và quản lí đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như phương thức hoạt
động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư này có thể dưới các hình thức hợp
đồng: Hợp đồng, liên doanh công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Đầu tư gián tiếp: Là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả
cho bản thân người có vốn cũng như xã hội, nhưng ngời có vốn không tham gia trực tiếp
quản lý hoạt động đầu tư, dưới hình thức: cổ phiếu, tín phiếu ...

Trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng có 3 phương thức đầu tư mới được áp dụng ở
Việt Nam:
+ B - T - O: Phương thức Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh
+ B - O - T: Phương thức Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao
+ B - T: phương thức Xây dựng - Chuyển giao
(B - Build, T - Transfer, O - Operate)
Cả 3 phương thức đầu tư trên là những hợp đồng kí giữa Chính phủ với các nhà đầu tư
nhằm áp dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng.
Các nguồn hình thành vốn đầu tư :
Tiết kiệm là nguồn cơ bản hình thành vốn đầu tư
Toàn bộ thu nhập của một nước (GNP) trong quá trình sử dụng được chia làm 3 quĩ lớn:
quĩ bù đắp, quĩ tích luỹ vốn và quĩ tiêu dùng. Quĩ bù đắp và quĩ tích luỹ là nguồn để hình
thành vốn đầu tư, trong đó quĩ đầu tư là bộ phận quan trọng nhất. Toàn bộ quĩ tích luỹ
được hình thành từ các khoản tiết kiệm. Xu hướng chung là khi nền kinh tế càng phát
triển thì tỷ lệ tích luỹ càng tăng. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước
có thu nhập thấp thì qui mô và tỉ lệ tích luỹ đều thấp trong khi yêu cầu của sự phát triển
kinh tế ngày càng đòi hỏi nguồn vốn lớn. Điều đó đặt ra cần thiết phải có nguồn hỗ trợ
vốn từ nước ngoài :

4/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Nguồn vốn đầu tư trong nước .
* Tiết kiệm của Chính phủ (Sg) : Là tiết kiệm của ngân sách nhà nước (Sgh) và tiết kiệm
của các công ty Nhà nước (Sge) .
* Tiết kiệm của các công ty (Se): được xác định trên cơ sở doanh thu và các khoản chi
phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Tiết kiệm của dân cư (Sh): Phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu hộ gia đình .

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
* Viện trợ phát triển kinh tế (ODA):
ODA được gọi là nguồn vốn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền nhà nước
hay địa phương ) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho phát triển kinh tế
và phúc lợi xã hội của các nước này.
Nội dung viện trợ ODA bao gồm
- Viện trợ không hoàn lại : Thường chiếm 25% tổng vốn ODA
- Hợp tác kĩ thuật
- Cho vay ưu đãi, bao gồm:
+ Cho vay không lãi
+ Cho vay với lãi suất ưu đãi từ : 0,5 - 5% /năm, trả vồn sau 3 - 10 năm, hoàn vốn trong
thời gian 10 - 15 năm.
* Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO):
Viện trợ NGO là các viện trợ không hoàn lại, trước đây viện trợ này chủ yếu là vật chất,
đáp ứng những nhu cầu nhân đạo :
Cung cấp thuốc men cho cá trung tâm y tế, chỗ ở và lương thực cho các nạn nhân thiên
tai. Hiện nay, loại viện trợ này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chương trình phát
triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia thường trú và tiền mặt .
* Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI)
Đây là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài đối với các nước đang phát triển, là
nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế. FDI không chỉ cung cấp vốn,
5/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

mà nó còn thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ kĩ thuật và tìm thị
trường tiêu thụ. Mặt khác FDI còn gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Do
đó thu hút và khai thác tốt nguồn vốn này sẽ giảm nợ nước ngoài đối với các nước đang
phát triển .

Tác động của vốn đến tăng trưởng kinh tế :
Đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đối trong chi tiêu, do đó những thay đổi trong đầu
tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc
làm. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho tổng cầu dịch
chuyển: Trên sơ đồ 1.3 mô tả đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD1. Do đó làm
cho mức sản lượng cũng biến động từ P0 đến P1.
Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, có nghĩa là có thêm các nhà máy thiết bị, phương
tiện vận tải... mới được đưa vào sản xuất làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.
Sự thay đối này tác động đến tổng mức cung. Trên sơ đồ 1.4 mô tả vốn sản xuất sẽ làm
tăng tổng cung chuyển dịch từ AS0 đến AS1 làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1
và mức giá giảm từ P0 đến P1

Sơ đồ 1.3 Sơ đồ 1.4
Tác động vốn đầu tư Tác động của vốn sản xuất
xuất đến tăng trưởng đến tăng trưởng
Lao động với phát triển kinh tế :
Nguồn lao động và các nhân tố ảnh hưởng
Nguồn nhân lực và nguồn lao động

6/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo qui định của
pháp luật có khả năng tham gia lao động.
Nguồn lao động là một bộ phận của dân số có khả năng lao động bao gồm dân số trong
độ tuổi lao động có khả năng lao động và dân số ngoài độ tuổi lao động đang làm việc
thường xuyên trong nền kinh tế quốc dân .


Các yếu tố ảnh hưởng đến số lượng lao động:

* Dân số: Được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: qui mô và cơ cấu của
nguồn lao động.
* Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: Đây là số % của dân số trong độ tuổi lao động tham
gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nói lên tình trạng số người trong
độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc vì đang đi học, đang việc nội trợ hoặc đang
trong tình trạng khác .
* Thất nghiệp và tỉ lệ thất nghiệp:
Thất nghiệp gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc
làm, nó sẽ ảnh hưởng đến số người đang làm việc và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
của nền kinh tế .
ở các nước đang phát triển, số ngời làm việc trong khu vực nông thôn hoặc khu vực
thành thị không chính thức tuy có việc làm nhưng với năng suất thấp, thời gian làm việc

7/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

không đầy đủ mà phần lớn mà là chia việc để làm, do vậy để biểu thị loại thất nghiệp
này người ta gọi là thất nghiệp trá hình .
* Thời gian lao động : thường được tính bằng số ngày làm việc trong một năm, số giờ
làm việc trong tuần hoặc số giờ làm việc trong ngày... Xu hướng chung là thời gian làm
việc sẽ giảm đi khi trình độ phát triển kinh tế được nâng cao.
Các yếu tố ảnh hởng đến chất lượng lao động :
Số lượng lao động mới phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động vào phát triển
kinh tế. Mặt khác cần được xem xét đến chất lượng lao động, đó là yếu tố làm cho lao
động có năng suất cao hơn. Chất lượng được nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, nhờ sức

khoẻ của người lao động, nhờ việc bố trí điều kiện lao động tốt hơn.
Vai trò của lao động với việc tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đặc điểm lao động ở các nước đang phát triển .
* Số lượng lao động tăng nhanh.
* Phần lớn lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp.
* Hầu hết người lao động chưa được sử dụng.
Vai trò của lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
* Vai trò hai mặt của lao động trong quá trình phát triển kinh tế: Lao động, một mặt là
một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của quá
trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số những người được hưởng
lợi ích của sự phát triển.
* Lao động với sự tăng trưởng kinh tế:
Một mặt, lao động tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu về số lượng
lao động, trình độ chuyên môn, sức khoẻ. Người lao động và sự kết hợp giữa lao động
với các yếu tố đầu vào khác để làm tăng mức sản lượng đầu ra
Mặt khác, lao động lại thể hiện tập trung qua mức tiền lương của người lao động. Khi
tiền lương của người lao động tăng có nghĩa là chi phí sản xuất tăng phản ánh khả năng
sản xuất tăng lên. Đồng thời khi mức tiền tăng làm cho thu nhập có thể sử dụng của
người lao động cũng tăng, do đó khả năng chi tiêu của người tiêu dùng cũng tăng lên.

8/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Tài nguyên và môi trường với sự tăng trưởng kinh tế
Phân loại tài nguyên
Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố của tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế
biến và sử dụng để tạo ra các sản phẩm vật chất .
* Theo công dụng bao gồm:

- Nguồn năng lượng
- Các loại khoáng sản
- Nguồn tài nguyên rừng
- Nguồn đất đai
- Nguồn nước
- Biển và thuỷ sản
- Khí hậu.
* Theo khả năng tái sinh, bao gồm:
- Tài nguyên có khả năng tái sinh thông qua hoạt động của con người: Nguồn tài nguyên
rừng và các loại động thực vật.
- Tài nguyên có khả năng tái sinh vô tận trong thiên nhiên: Nguồn năng lượng mặt trời,
thuỷ triều, sức gió, thuỷ năng sông ngòi và các nguồn nước, không khí.
- Tài ngyuên không có khả năng tái sinh bao gồm những tài nguyên có qui mô không
đổi như đất đai và những tài nguyên khi sử dụng hết dần như các loại khoáng sản, dầu
khí.
Vai trò của nguồn tài nguyên thiên nhiên với phát triển kinh tế.
* Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Trong giai đoạn đầu của các nước đang phát triển thường quan tâm đến việc xuất khẩu
sản phẩm thô, đó là những sản phẩm có được từ nguồn tài nguyên chưa qua sơ chế hoặc
ở dạng sơ chế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển kinh tế nông nghiệp,
công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến .
9/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

* Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích
luỹ vốn và phát triển ổn định. Việc tích luỹ vốn đối với hầu hết các nước đòi hỏi phải
trải qua một quá trình lâu dài, liên quan chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút

vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên với những nước đã được thiên nhiên ưu đãi nguồn
tài nguyên lớn, đa dạng có thể rút ngắn quá trình tích luỹ vốn bằng cách khai thác các
sản phẩm thô để bán hoặc để đa dạng hoá nền kinh tế tạo nguồn vốn tích ban đầu cho
sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Sự giàu có về tài nguyên, là cơ sở
để phát triển nhiều ngành kinh tế, ít bị phụ thuộc vào nguồn tài nguyên, vốn là một yếu
tố không ổn định trên thị trường thế giới. Điều này cho phép những nước có nguồn tài
nguyên phong phú có thể tăng trưởng trong những điều kiện ổn định.Trong khi những
nước ít may mắn hơn về tài nguyên phải căng thẳng để điều chỉnh sự lên xuống về giá
cả khi phải nhập khẩu các nguồn nguyên liệu.
Khoa học công nghệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
* Cách mạng khoa học kĩ thuật làm thay đổi sâu sắc phương thức lao động của con người.
Loài người đã trải qua hàng nghìn năm trong giai đoạn thứ nhất của nền văn minh, giai
đoạn của nền nông nghiệp thủ công với công cụ lao động chủ yếu công cụ thô sơ sử
dụng nguồn năng lượng của cơ thể và xúc vật.
Giai đoạn thứ hai của nền văn minh nhân loại là giai đoạn của nền sản xuất cơ khí hoá.
Sự phát triển của giai đoạn này gắn liền với những thành tựu khoa học kĩ thuật giúp cho
con người khai thác, sử dụng các nguồn năng lượng to lớn trong thiên nhiên vào các
hoạt động sản xuất (tự động hoá các vận động cơ giới bằng các nguồn năng lượng). Đó
là đặc trưng chủ yếu của công cụ lao động trong giai đoạn văn minh cơ khí hoá
Ngày nay với máy tính điện tử, với các thiết bị điều khiển tự động, với các rô bốt thông
minh, loài người đang tiến tới giai đoạn thứ ba của nền văn minh nhân loại, đó là tự
động hoá quá trình hoạt động kinh tế với sự giúp đỡ của tin học.
* Cách mạng khoa học kĩ thuật đưa văn minh đến cho cuộc sống con người:
Cách mạng công nghệ không ngừng cải thiện lao động của con người từ lao động chân
tay với việc áp dụng ngày càng phổ cập kĩ thuật cơ giới hoá và tự động hoá, đến việc
lao động trí óc với việc thâm nhập ngày càng rộng rãi các máy tính và các phương tiện
thông tin viễn thông vào mọi lĩnh vực hoạt động xã hội .
Cách mạng công nghệ có ảnh hưởng to lớn đến lối sống con người. Các dụng cụ gia
đình dần dần được tự động hoá và điện tử hoá, các dịch vụ gia đình được cung ứng tiện
lợi, đã làm giảm nhẹ rất nhiều công việc nội trợ của phụ nữ, để họ giành nhiều thời gian

cho công việc khác như giáo dục con cái, học tập, giải trí, sinh hoạt xã hội ...

10/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Với các phương tiện nghe nhìn và thông tin hiện đại đang hình thành một kết cấu hạ
tầng văn hoá mới, có thể giao tiếp truyền đạt đi khắp nơi trên thế giới .
* Cách mạng khoa học kĩ thuật tác động đến quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới
cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Những vấn đề như : Năng lượng, môi trường, nguyên liệu
sản xuất, dân số lương thực thực phẩm, các căn bệnh dịch hiểm nghèo không còn là
vấn đề của từng quốc gia mà ngày càng có tính toàn cầu. Để khai thác vũ trụ, nam cực,
đại dượng, chế ngự bầu khí quyển... cần phải có sự nỗ lực chung của nhiều nước. Cách
mạng khoa học kĩ thuật đã mở ra những khả năng to lớn, để khai thác những khả năng
to lớn này các nước cần phải hợp tác với nhau, thể hiện sự gia tăng về phân công lao
động, chuyển giao công nghệ quan hệ xuất - nhập khẩu nhằm phát huy thế mạnh của
từng nước trên thị trường quốc tế.
* Cách mạng khoa học - kĩ thuật với sự phát triển kinh tế theo chiều sâu:
Trước đây tồn tại một thời gian quan điểm sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào
các yếu tố tài nguyên, vốn sản xuất và lao động, đó là quan điểm phát triển kinh tế theo
chiều rộng .
Từ giữa những năm 70 của thế kỉ XX khi bước vào giai đoạn 2 của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ lần thứ 2, đứng trước vấn đề môi trường và sự cạn kiệt tài nguyên
thì những yếu tố khoa học công nghệ trở nên quan trọng. Đặc điểm của yếu tố này là
khó xác định sự đóng góp trực tiếp, nhưng nó thể hiện qua việc sử dụng có hiệu quả
các yếu tố khai thác: tăng lao động, tăng hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao năng suất máy
móc, thiết bị . Đây là quan điểm phát triển kinh tế theo chiều sâu. Quan điểm này được
thể hiện qua hàm sản xuất của Cobb - Douglas:
Y= T.Lanfa .Kbeta.Rgama.

Trong đó:
Y: Kết quả đầu ra của hoạt động kinh tế (GDP)
anfa, beta, gama : Tỉ lệ đóng góp của các yếu tố đầu vào
T: Khoa học - công nghệ; L: Lao động; K : Vốn; R: Tài nguyên
Hàm sản xuất này phân biệt 2 yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế: Thứ nhất là những
yếu tố này tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, bao gồm: K, L, R. Thứ hai là yếu
tố góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của các yếu tố trên, đó là T.

11/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Ngoài các yếu tố sản xuất, ngày nay người ta còn đưa ra một loạt các nhân tố kinh tế
khác tác động tới tổng mức cung, như lợi thế do qui mô sản xuất, chất lượng lao động,
khả năng tổ chức quản lý.

Các nhân tố phi kinh tế :
Khi đề cập đến khái niệm phát triển kinh tế, ngoài những tiêu chuẩn thông thường để
đánh giá sự tiến bộ xã hội, về địa vị của mỗi cá nhân, gia đình, tập thể trong cộng đồng
xã hội. Điều đó đôi khi trở thành mục tiêu của các quốc gia dân tộc, tạo ra một động lực
mạnh hơn cả những thế lực kinh tế thông thường, hoặc chi phối và làm biến dạng những
qui luật của các mối quan hệ kinh tế vốn có. Đương nhiên các tác động đó cùng chiều
thì tạo ra sự thúc đẩy ,ngược lại thì sẽ cản trở, xung đột.
Các nguồn lực không trực tiếp nhằm mục tiêu kinh tế nhưng gián tiếp có ảnh hưởng tới
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gọi là các nhân tố phi kinh tế. Nó có đặc điểm :
- Không thể lượng hoá được các ảnh hưởng của nó.
- Phạm vi ảnh hưởng rộng và phức tạp trong xã hội, không thể đánh giá một cách tách
biệt rõ rệt được và không có ranh giới rõ ràng.
Cơ cấu dân tộc.

Đề cập các tộc người khác nhau cùng sống tạo nên một cộng đồng quốc gia. Cơ cấu
này có thể chia theo chủng tộc (sắc tộc , bộ tộc) theo khu vực sinh sống lâu đời tạo nên
những khác biệt nhất định (miền núi, miền thảo nguyên, miền đồng bằng...) theo tỉ trọng
số lượng trong tổng số dân số (thiểu số, đa số ...).
Do điều kiện sống khác nhau đã tạo nên sự khác biệt về trình độ tiến bộ văn minh, về
mức sống vật chất và về địa lí, vị trí kinh tế - xã hội trong cộng đồng.
Sự phát triển tổng thể kinh tế có thể đem lại những biến đổi kinh tế có lợi cho dân tộc
này nhưng bất lợi cho dân tộc khác. Đó là những nguyên nhân nảy sinh ra xung đột giữa
các dân tộc. Do vậy lấy tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhưng
nó đảm bảo được bản sắc, truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc, khắc phục sự xung đột
và sự mất ổn định chung của cộng đồng. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế
Cơ cấu tôn giáo.
Vấn đề tôn giáo đi đôi với vấn đề dân tộc, mỗi tộc người có thể theo một tôn giáo. Trong
một quốc gia có thể có nhiều tôn giáo. Mỗi đạo giáo có những quan niệm, triết lí tư tưởng riêng, ăn sâu vào cuộc sống dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lí -xã hội

12/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

riêng của dân tộc. Nhưng ý thức tôn giáo thường là cố hữu, ít thay đổi theo sự biến đổi
của sự phát triển của xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung thường có ảnh
hưởng tới sự tiến bộ xã hội tuỳ theo mức độ, song có thể có sự hoà hợp, nên có chính
sách đúng đắn của Chính phủ.
Đặc điểm văn hoá - xã hội.
Đây là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến nhiều quá trình phát triển của đất nước.
Nói đến văn hoá dân tộc là một khái niệm rất rộng, bao hàm nhiều mặt từ các tri thức
phổ thông, đến các tích luỹ tinh hoa của nhân loại về khoa học nghệ thuật văn học, lối
sống và cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp, những tập tục tốt đẹp... đã xây dựng được,

mà mọi người thừa nhận từ lâu đời. Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn
minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia.
Nói chung trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố
về chất lượng của lao động, của kĩ thuật và công nghệ, của trình độ quản lí kinh tế - xã
hội. Vì thế trình độ văn hoá cao là mục tiêu của sự phát triển. Để phát triển lâu dài và
ổn định, đầu tư cho phát triển văn hoá được coi là đầu tư cần thiết nhất và đi trước một
bước so với đầu tư sản xuất .
Các thể chế chính trị - kinh tế - xã hội :
Đây cũng là một nhân tố quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Nó thể hiện như một lực lượng đại diện ý chí của một cộng đồng, nhằm điều chỉnh các
mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội theo lợi ích của cộng đồng đặt ra. Thể chế được
thông qua các mục tiêu phát triển dự kiến, các nguyên tắc quản lí kinh tế -xã hội, các
luật pháp, các chế độ, chính sách, các công cụ và bộ máy tổ chức thực hiện
Một thể chế chính trị xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện đổi mới liên tục cơ cấu
và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và
phát triển nhanh chóng. Ngược lại một thể chế không phù hợp, sẽ gây ra những cản trở,
mất ổn định thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ kinh tế cơ bản làm cho nền kinh
tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra xung đột chính trị, xã
hội. Một thể chế phù hợp với phát triển hiện đại phải thể hiện ở các mặt:
+ Phải có tính năng động, linh hoạt, mềm dẻo luôn thích nghi được với những biến động
phức tạp do tình hình thế giới và trong nước khó lường trước.
+ Phải đảm bảo sự ổn định của đất nước, khắc phục được những mâu thuẫn và xung đột
có thể xảy ra trong quá trình phát triển .

13/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

+ Phải tạo cho nền kinh tế mở một sự hoạt động có hiệu quả, nhằm tranh thủ được vốn

đầu tư và công nghệ tiên tiến của thế giới, là cơ sở của sự tăng tốc trong quá trình phát
triển.
+ Tạo ra một sự kích thích mạnh mẽ mọi tiềm lực vật chất trong nước hướng vào đầu tư
cho sản xuất và xuất khẩu .
+ Tạo được đội ngũ đông đảo những người có năng lực quản lí , có trình độ khoa học kĩ
thuật tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng những thành công các kĩ thuật và công nghệ
tiên tiến vào sản xuất trong nước, cũng như đổi mới cơ chế quản lí kinh tế.
Dù quan trọng đến đâu, thể chế cũng chỉ tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng, tức là
tạo ra những điều kiện thuận lợi để hướng các hoạt động theo hướng có lợi và hạn chế
các mặt bất lợi.
Các mô hình tăng trưởng kinh tế.
Các mô hình tăng trưởng kinh tế là một cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất về sự phát
triển kinh tế thông qua các biến số kinh tế và các mối liên hệ giữa chúng. Mục đích của
các mô hình kinh tế này là mô tả phương thức vận động của nền kinh tế thông qua môi
liên hệ nhân quả giữa các biến số quan trọng trong quá trình phát triển sau khi đã tước
bỏ đi sự phức tạp không cần thiết. Những diễn đạt này có thể dưới dạng lời văn, sơ đồ
hoặc toán học:

Mô hình kinh tế cổ điển về tăng trưởng kinh tế :
Xuất phát điểm của mô hình :
Tác phẩm "Của cải của các nước" của Adam Smith (1723 - 1790) được coi điểm mốc
đánh dấu sự ra đời của khoa học kinh tế và bản thân ông cũng được coi là người sáng
lập ra kinh tế học .
Nội dung cơ bản của tác phẩm này là :
- Học thuyết về "Giá trị lao động", ông cho rằng lao động chứ không phải đất đai, tiên
bạc là nguồn gốc cơ bản để tạo ra mọi của cải cho đất nước.
- Học thuyết "Bàn tay vô hình ", theo ông người lao động biết rõ nhất cái gì có lợi cho
họ, do vậy nếu không bị Chính phủ kiểm soát thì người lao động sẽ được mọi lợi nhuận
thúc đẩy sản xuất hàng hoá và dịch vụ cần thiết, thông qua thị trường tự do này lợi ích
cá nhân sẽ gắn với lợi ích xã hội.


14/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

- Ông đưa ra lí thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc "Ai có gì được nấy", tư
bản có vốn được lợi nhuận, địa chủ có đất đai thì được địa tô, công nhân có sức lao động
thì sẽ được nhận tiền công. Ông cho rằng nguyên tắc này là phân phối công bằng hợp lí.
Các yếu tố tăng trưởng và mối quan hệ giữa chúng:
Nếu Adam Smith được coi là người sáng lập ra kinh tế học thì David Ricardo (1772 1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Theo Ricardo thì nông nghiệp là ngành
kinh tế quan trọng nhất và các yếu tố cơ bản nhất là đất đai, lao động và vốn; trong từng
ngành và phù hợp với một trình độ kĩ thuật nhất định, các yếu tố này kết hợp với nhau
theo một tỉ lệ cố định, không thay đổi. Trong 3 yếu tố kể trên, đất đai là yếu tố quan
trọng nhất. Đất đai chính là giới hạn của sự tăng trưởng. Vì khi sản xuất nông nghiệp
gia tăng trên những đất đai kém màu mỡ hơn thì giá lương thực thực phẩm sẽ tăng lên.
Mà lương thực thực phẩm là bộ phận quan trọng nhất để đảm bảo đời sống của gia đình
công nhân. Do đó tiền lương danh nghĩa của công nhân cũng phải tăng theo tương ứng,
lợi nhuận của các nhà tư bản có xu hướng giảm xuống. Nếu cứ tiếp tục như vậy thì khi
lợi nhuận hạ xuống quá thấp không thể bù đắp được mọi rủi ro trong kinh doanh sẽ làm
nền kinh tế trở nên bế tắc. Điều này chỉ có thể giải quyết bằng cách xuất khẩu hàng hoá
công nghiệp để mua lương thực, thực phẩm từ nước ngoài rẻ hơn, hoặc phát triển công
nghiệp để tác động vào nông nghiệp .
Như vậy lập luận của Ricardo là: Tăng trưởng là kết quả của tích luỹ, tích luỹ là hàm
của lợi nhuận, lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, chi phí này lại phụ
thuộc vào đất đai. Do đó đất đai là giới hạn của sự tăng trưởng.

Sơ đồ1.5 : Đường tăng trưởng của Ricardo:
Đất đai là giới hạn của sự tăng trưởng


15/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Quan hệ cung cầu và vai trò của chính sách kinh tế với sự phát triển:
Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng thị trường tự do được một bàn tay vô hình dẫn dắt để
gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của xã hội .Thị trường với với sự linh hoạt của giá cả và
tiền công có khả năng tự điều tiết những mất cân đối của nền kinh tế để xác lập những
cân đối mới, đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ. Đây là quan niệm "cung tạo nên cầu "
Còn các chính sách kinh tế không có tác động quan trọng đối với sự hoạt động của nền
kinh tế, đôi khi còn hạn chế khả năng phát triển kinh tế. Đối với những khoản chi tiêu
của chính là chi tiêu "không sinh lời ", còn các khoản thu đều làm giảm lợi nhuận, từ đó
làm giảm tích luỹ.

Mô hình của K.Marx về tăng trưởng kinh tế :
Các yếu tố tăng trưởng kinh tế :
Theo K.Marx các yếu tố quá trình tái sản xuất là: đất đai, lao động và tiền vốn, tiến bộ
kĩ thuật. Trong đó ông đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá
trị thặng dư . K.Marx cho rằng sức lao động đối với nhà tư bản là một hàng hoá đặc biệt
và được các nhà tư bản mua bán trên thị trờng và được tiêu thụ trong quá trình sản xuất.
Mục đích của các nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư, cho nên họ tìm mọi cách tăng giờ
làm của công nhân, giảm tiền công của công nhân, hoặc nâng cao năng suất lao động
bằng cải tiến kĩ thuật. Hai phương pháp trên là giới hạn cho nên để tăng giá trị thặng dư
nhà tư bản chủ yếu dựa vào cải tiến kĩ thuật. Vì vậy các nhà tư bản tiết kiệm phần lợi
nhuận để tăng thên vốn đầu tư bằng cách chia lợi nhuận làm 2 phần: một phần giành cho
tiêu dùng nhà tư bản, một phần để tích luỹ phát triển sản xuất .
Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng.
K.Marx chia nền kinh tế ra làm 2 khu vực: khu vực sản xuất vật chất và khu vực sản
xuất phi vật chất. Trong đó chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới sáng tạo ra sản phẩm

xã hội, vì vậy tổng sản phẩm xã hội chỉ toàn bộ sản phẩm sản xuất trong một thời gian
nhất định, về mặt hiện vật bao gồm: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, về giá trị bao
gồm: tư bản bất biến, tư bản khả biến và tư bản thặng dư (C+V+m). Còn thu nhập quốc
dân bao gồm tư bản khả biến và giá trị thặng dư (V+m).
Chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế với phát triển:
Marx bác bỏ lí thuyết cổ điển "cung tạo nên cầu" và dự đoán về tình trạng bế tắc của sự
tăng trởng do sự hạn chế đất đai gây ra . Theo ông nguyên tắc cơ bản của sự vận động
trên và hàng hoá trên thị trường là phải đảm bảo sự thống nhất giữa giá trị và hiện vật
. Lưu thông hàng hoá phải đảm bảo sự phù hợp giữa khối lượng hàng hoá mua và bán.
Nếu khối lượng cần bán và sức mua không phù hợp sẽ dẫn đến khoảng cách, nếu khoảng

16/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

cách này lớn sẽ gây khủng hoảng, mà trong xã hội tư bản thường là xảy ra khủng hoảng
thừa. Do vậy vai trò đặc biệt của chính sách phát triển kinh tế là nâng cao mức cầu hiện
có.

Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế :
Nội dung cơ bản :
Cuối thế kỉ XIX là thời kì đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học - kĩ thuật,
hàng loạt các phát minh và các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ cho quá trình
sản xuất. Điều này đã ảnh hưởng đến trào lưu phát triển kinh tế. Sự phát triển của
trào lưu này hình thành một trường phái kinh tế mới, đứng đầu là Alpred Marshall
(1842-1924) tác phẩm chính của ông là "Các nguyên lí của kinh tế học" xuất bản 1980.
* Những nội dung mới của mô hình tân cổ điển :
- Bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng, nhất định đòi hỏi
những tỉ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng vốn có thể thay thế được công

nhân, và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các
yếu tố đầu vào.
- Tiến bộ khoa học kĩ thuật là yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế .
* Những quan điểm giống cổ điển :
Nền kinh tế có 2 đường tổng cung : AS - LR phản ánh sản lượng tiềm năng của nền kinh
tế, còn AS - SR phản ánh khả năng thực tế. Mặc dù vậy, các nhà kinh tế tân cổ điển vẫn
cho rằng nền kinh tế luôn đạt được sự cân bằng ở mức sản lượng tiềm năng ( Xem sơ đồ
1.6)
Cũng giống như các nhà kinh tế cổ điển, các nhà tân kinh tế cho rằng trong điều kiện
thị trường cạnh tranh, khi nền kinh tế có sự biến động thì sự linh hoạt về giá cả và tiền
công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí sản lượng tiềm năng với việc sử
dụng hết nguồn lao động. Họ cho rằng chính sách kinh tế của Chính phủ không thể dựa
vào sản lượng, nó chỉ có thể ảnh hưởng đến mức giá của nền kinh tế, do đó vai trò của
Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển kinh tế.
Hàm sản xuất Cobb - Douglas:
Các nhà kinh tế tân cổ điển cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng thông qua
hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự gia tăng của đầu ra với sự tăng
lên của các yếu tố đầu vào: Vốn, lao động, tài nguyên và khoa học - công nghệ.

17/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Y = F(K, L, R, T)
Trong đó:
Y: Đầu ra (GDP)
K: Vốn sản xuất
L: Số lượng lao động
R: Nguồn tài nguyên

T: Khoa học công nghệ
Hàm Cobb - Douglas có dạng:
Y = T. Kanfa Lbeta Rgama
ở đây anfa, beta, gama là các số luỹ thừa, phản ánh tỉ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào.
Sau khi biến đổi Cobb - Douglas thiết lập đợc mối quan hệ theo tốc độ tăng trởng của
các biến số
g = t + anfak + anfal + gamar
Trong đó:
g: tốc độ tăng trưởng của GDP
k, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
t: Phần còn lại, phản ánh tác động của khoa học - công nghệ.

18/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Sơ đồ 1.6 : Các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng nền kinh tế luôn đạt sản lượng tiềm
năng (Y0 = Y*).
Như vậy hàm sản xuất của Cobb - Douglas cho biết 4 yếu tố cơ bản tác động đến tăng
trưởng kinh tế và cách thức tác động của 4 yêú tố này là sự khác nhau giữa các yếu tố K,
L, R với yếu tố T. Họ cho rằng khoa học công nghệ là quan trọng nhất với sự phát triển
kinh tế .

Mô hình của Keynes về tăng trưởng kinh tế :
Nội dung cơ bản của mô hình
* Sự cân bằng của nền kinh tế :
* Keynes có thể đạt được và duy trì một sự cân đối ở một mức sản lượng nào đó, dưới
mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi người, tại nơi mà những khoản đầu tư mới cho
chỉ tiêu cho đầu tư được hình thành từ các khoản tiết kiệm đang được đa vào hệ thống.

Keynes cũng cho rằng có hai con đường tổng cung: AS - LR phản ánh mức sản lượng
tiềm năng, mà thông thường sản lượng đạt được ở mức cân bằng nhỏ hơn sản lượng tiềm
năng (Y0 < Y*).
* Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản lượng
Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản lượng. Theo ông thu
nhập của các cá nhân sử dụng để cho tiêu dùng và tích luỹ. Nhưng có xu hướng chung là
khi mức thu nhập tăng thì xu hướng tiêu dùng giảm và xu hướng trung bình tăng . Việc
xu hướng tiêu dùng giảm làm cho cầu giảm và đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến

19/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

sự trì trệ trong hoạt động kinh tế. Vì vậy ông khuyên nên phát triển nhiều hình thức hoạt
động kinh tế để nâng cao tổng cầu và việc làm trong xã hội.
*Vai trò của chính sách kinh tế với phát triển
Ông cho rằng Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng các chính sách kinh tế để làm dịu
khủng hoảng và thất nghiệp, đồng thời nâng cao khả năng tiêu dùng của xã hội . Trước
hết ông đề nghị sử dụng ngân sách Nhà nớc để kích thích đầu tư thông qua đơn đặt hàng
của Nhà nước và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp. Để kích thích đầu tư có hiệu quả
phải giảm lãi suất và tăng lợi nhuận, đồng thời thực hiện lạm phát có mức độ. Ông đánh
giá cao vai trò của hệ thống thuế khoá, công trái Nhà nước, qua đó để bổ xung cho ngân
sách .Ông tán thành đầu tư cho Chính phủ vào công trình công cộng và các biện pháp
khác như một loại bơm trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm .
Mô hình Harrod - Dmar :
Nếu gọi đầu ra là Y, tỉ lệ tăng trưởng của đầu ra là g :
g = deltaY/Yt
Nếu gọi s là tỉ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S:
s = S t/ Y t


Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết, đầu tư luôn bằng tiết kiệm (St
= It).
Đầu tư chính là cơ sở tạo ra vốn sản xuất, do đó It = Kt + n
Nếu gọi k là tỉ số gia tăng giữa vốn và đầu ra, ta sẽ có
k = deltaKt + n / deltaY hay k = It/ deltaY
Do đó ta có: g = s/k
ở đây k = s/g được gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn đầu ra). Hệ số này nói lên rằng
: Vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, tiết kiệm của nhân dân
và của các công ty là nguồn gốc của đầu tư. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kĩ thuật
của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư .

20/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Mô hình Harrod - Domar sự tăng trưởng là do kết quả của sự tương tác giữa tiết kiệm
với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế .Theo Harrod -Domar
chính đầu tư phát sinh ra lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế .

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại:
Dựa vào lí thuyết của Keynes, Chính phủ các nước đã sử dụng chính sách kinh tế của
Nhà nước để hạn chế mức độ lạm phát và thất nghiệp, làm tăng mức sản lượng tiềm
năng. Nhưng sau một thời gian áp dụng lí thuyết này các nước có xu hướng nhấn mạnh
vai trò của chính sách kinh tế, do đó lại hạn chế mức độ tự điều chỉnh của thị trường
và xuất hiện những trở ngại lớn cho quá trình tăng trưởng và phát triển. Trong bối cảnh
đó một trờng phái kinh tế mới ra đời, các nhà kinh tế của trờng phái này ủng hộ xây
dựng nền kinh tế hỗn hợp, trong đó thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản
của tổ chức kinh tế và nhà nước tham gia điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những mặt

tiêu cực của thị trường. Thực chất nền kinh tế hỗn hợp chính là sự xích lại gần nhau của
học thuyết kinh tế tân cổ điển và học thuyết của Keynes, mà đại diện tiêu biểu là P.A
Samuelson trong tác phẩm "Kinh tế học". Nội dung cơ bản của thuyết này là :
Sự cân bằng của nền kinh tế :
Kinh tế học hiện đại quan niệm về sự cân bằng kinh tế dựa theo mô hình của Keynes,
nghĩa là sự cân bằng kinh tế không nhất thiết phải đạt tới sản lượng tiềm năng, mà
thường dưới mức sản lượng tiềm năng, trong điều kiện hoạt động bình thường nền kinh
tế vẫn còn thất nghiệp và lạm phát . Nhà nước cần xác định được tỉ lệ thất nghiệp tự
nhiên và mức độ lạm phát có thể chấp nhận được để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, còn
các tổ chức kinh doanh sẽ cố gắng sản xuất để đạt được mức sản lượng càng gần mức
sản lượng tiềm năng càng tốt .
Các yếu tố tác động đến cân bằng kinh tế
Lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của mô hình kinh
tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất. Họ cho rằng tổng mức cung của nền
kinh tế được xác định bởi yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là nguồn lao động (K), tài
nguyên thiên nhiên (R), và khoa học công nghệ (T)
Y = F(L,K,R,T)
và thống nhất với việc phân tích của hàm sản xuất Cobb - Douglas về sự tác động của
các yếu tố đến sự tăng trưởng :
Y = T. Kanfa.Lbeta.Rgama.
g = t + anfa.k + beta.l + gama.r
21/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

Trong đó g: tốc độ tăng trưởng của yếu tố đầu vào
t : Phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ
k, l, r : Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào.
Lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cũng thống nhất với tân cổ điển về mối quan hệ

giữa các yếu tố. Các nhà sản xuất, kinh doanh có thể lựa chọn kĩ thuật sử dụng nhiều
vốn hoặc kĩ thuật hoặc sử dụng nhiều lao động và do đó lí thuyết này cũng thống nhất
với mô hình kinh tế của Harrod - Domar về vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh
tế. Samuelson coi những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hiện đại là " Kĩ thuật công
nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào sử dụng vốn lớn". Do đó cơ sở để phát huy tác dụng
của các yếu tố khác là vốn, nó là cơ sở để tạo thêm việc làm, để có công nghệ tiên tiến.
Vì vậy trong tính toán kinh tế ngày nay hệ số ICOR vẫn được coi là cơ sở để xác định tỉ
lệ vốn đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
k = It/deltaY = deltaKt + n/deltaY và g = s/k
Trong đó:
k: Hệ số ICOR
s: Tỉ lệ tiết kiệm
g: Tốc độ tăng trưởng
Samuelson cũng đề cập đến các yếu tố tác động đến mức tổng cầu như cách đề cập của
Keynes : Y = F(C,G, I, NX)
Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển kinh tế.
Lí thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trường là yếu tố cơ bản điều tiết hoạt
động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng mức cung và tổng mức cầu tạo ra
mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm tỉ lệ thất nghiệp, mức giá tỉ lệ lạm phát, đó là cơ
sở cơ bản để giải quyết ba vấn đề của nền kinh tế .
Mặt khác, vai trò ngày càng tăng lên của Chính phủ trong đời sống kinh tế không chỉ là
sự đòi hỏi can thiệp vào những khuyết tật củ thị trường, mà còn vì các mục tiêu xã hội
khác .
Theo Samuelson, trong nền kinh tế hỗn hợp hiện đại, Chính phủ có 4 chức năng cơ bản
:
- Thiết lập khuôn khổ luật pháp
22/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế


- Xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô
- Tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế
- Thiết lập các chương trình tác động tới việc phân phối thu nhập
Chính phủ cần tạo ra môi trường ổn định để các doanh nghiệp và các hộ gia đình có thể
tiến hành sản xuất và trao đổi sản phẩm một cách thuận lợi.Chính phủ cũng cầm đưa ra
những định hướng cơ bản về phát triển kinh tế cho từng thời kì và sử dụng các công cụ
như thuế quan, tín dụng, giá để hướng các ngành, các tổ chức kinh doanh có hiệu quả
. Chính phủ thường tìm cách duy trì công ăn,việc làm ở mức cao bằng cách đa ra các
chính sách thuế, chi tiêu hợp lí . Đồng thời khuyến khích một tỉ lệ tăng trưởng kinh tế
vững chắc, chống lạm phát và ô nhiễm môi trường, thực hiện phân phối thu nhập lại của
cải giữa các doanh nghiệp và các hộ gia đình, qua thuế thu nhập, thuế tài sản; thực hiện
các hoạt động phúc lợi công cộng ...

Vai trò của nhà nước với phát triển kinh tế
Sự cần thiết cho lựa chọn con đường phát triển kinh tế .
Đặc trưng của các nước đang phát triển :
- Mức thu nhập bình quân đầu người thấp. Các nhà kinh tế thế giới thường lấy mức thu
nhập bình quân đầu ngời 2000USD làm mốc , đạt được mức này phản ánh sự biến đổi
về chất trong hoạt động kinh tế và đời sống xã hội, phản ánh khả năng giải quyết những
nhu cầu cơ bản của con người .
Hiện nay, hầu hết các nớc đang phát triển chưa đạt được mức thu nhập đến 2000USD,
còn khoảng 50 nước thu nhập dưới 6000 USD /người. Điều này phản ánh khả năng hạn
chế của các nước đang phát triển trong việc giải quyết các nhu cầu cơ bản về vật chất,
văn hoá, giáo dục, y tế ...
- Tỉ lệ tích luỹ thấp để có nguồn vốn tích luỹ thì cần phải hy sinh tiêu dùng, nhưng khó
khăn là ở chỗ các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp , hầu như chỉ đủ đáp ứng
những nhu cầu cơ bản tối thiểu.Vì vậy việc giảm tiêu dùng để tích luỹ là rất khó khăn.
ở các nước phát triển thường giành từ 20 - 30% thu nhập để tích luỹ, trong khi đó ở các
nước nông nghiệp chỉ có khả năng tiết kiệm dới 10 % thu nhập. Nhưng phần lớn phần

tiết kiệm này là dùng để trang trải nhà ở và trang thiết bị khác cho dân số tăng lên. Do
vậy hạn chế qui mô cho tích luỹ phá ttriển kinh tế . Hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên
cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn, kĩ thuật sản xuất thủ công, lạc hậu.
Mà nền kinh tế muốn đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều phải có sự đóng góp rất lớn
của ngành công nghiệp với trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại, trình độ quản lí thành
thạo.

23/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

- Áp lực về dân số và việc làm là rất lớn. Dân số đang phát triển vốn đã đông, sự bùng
nổ về dân số ở các quốc gia này tạo ra một hạn chế lớn cho phát triển kinh tế. Tỉ lệ tăng
dân số thường ở mức cao hơn tỉ lệ tăng trưởng kinh tế nên đã làm cho mức sống của
nhân dân ngày càng giảm. Thu nhập giảm tất yếu dẫn đến sức mua giảm và tỉ lệ tích luỹ
cũng giảm, sự mất cân đối giữa tích luỹ và đầu tư đã làm hạn chế sản xuất và dẫn đến
thất nghiệp trầm trọng gây mất ổn định xã hội, nợ nước ngoài gia tăng
Sự lựa chọn con đường phát triển kinh tế là rất cần thiết.
Những đặc trưng trên đây đã vạch rõ ra những trở ngại rất lớn, đối với sự phát triển kinh
tế của các nớc đang phát triển, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo ra "Vòng luẩn
quẩn" của sự nghèo khổ làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa các nước phát triển và
các nước đang phát triển ngày càng gia tăng:

Sơ đồ 1.8: Vòng luẩn quẩn cho sự nghèo khổ
Đứng trước tình hình này đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để phá vỡ
"vòng luẩn quẩn". Trong khi tìm kiếm con đường phát triển đã dẫn đến những xu hớng
khác nhau .Có những nước vẫn tiếp tiếp tục rơi vào tình trạng trì trệ, thậm chí phát triển
tụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu phi cận Sahara, hay một số nước Nam Á.
Có những nước đạt tăng trưởng khá, đa số đất nước thoát khỏi "vòng luẩn quẩn", nhưng

rồi lại rơi vào vòng luẩn quẩn mới như Philipin. Bên cạnh đó có những nước đã tạo tốc
độ tăng trởng rất nhanh, rút ngắn khoảng cách thậm chí đuổi kịp các nước đang phát
triển, như các nước NICs Châu Á, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc. Gần
đây, Thái Lan, Malaixia,Trung Quốc cũng đang vươn lên trong việc lựa chọn con đường
phát triển đúng đắn .
ở Việt Nam trong quá trìng tìm kiếm con đường phát triển, Chính phủ đã tiến hàng chương trình cải cách toàn diện hệ thống kinh tế vào đầu năm 1986. Thành công bước đầu
là đô giảm được tỷ lệ lạm phát từ 308 % xuống còn 35% trong năm 1989. Ngoài ra, sự
tự tự do hoá thương mại và phá giá đồng tiền đã đem lại kim ngạch xuất khẩu tăng gấp

24/27


Các nhân tố của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế

đôi. Tiếp đó kế hoặch 5 năm (1991-1995) đã đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân khá
cao : 8,2% / năm.
Tuy vậy, đổi mới và đi lên là một quá trình gian khổ và khó khăn, đặc biệt là chúng ta
còn bộc lộ nhiều yếu kém, thêm vào đó là những thách thức lớn đang chờ đợi, đặc biệt
là cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực giữa năm 1997 đã tác động mạnh đến
nền kinh tế Việt Nam, làm cho tốc độ tăng trưỏng kinh tế giảm từ 9,3%(1996) xuống 8,2
%(1997), 5,8%(1998), 4,8%(1999), 6,7%(2000). Đây quả là một thách thức cho các nhà
nghiên cứu và hoạch định kinh tế phải tìm ra một mô hình phù hợp cho quá trình phát
triển kinh tế ở Việt Nam.
Những cơ sở của sự lựa chọn con đường phát triển kinh tế phù hợp
Cơ sở khoa học của việc lựa chọn mô hình kinh tế là phải dựa trên những nguyên lí cơ
bản của sự phát triển kinh tế, nghiên cứu kinh nghiệm lựa chọn mô hình phát triển của
các nước và dựa vào bối cảnh thực tế đang đặt ra ở trong nước và ngoài nước .Trong quá
trình phát triển của các nước trên thế giới cho đến nay đã tồn tại cơ chế hoạt động khác
nhau, đó là : Cơ chế kế hoạch tập trung, cơ chế thị trường tự do. Tuy nhiên, hai cơ chế
kinh tế trong quá trình hoạt động đều dẫn tới những cuộc khủng hoảng khó lường. Do

đó đã xuất hiện cơ chế đứng giữa hai cơ chế đó : Nền kinh tế hỗn hợp hầu hết các nền
kinh tế hiện nay phát triển dưới hai lực tác dụng là cơ chế thị trường và sự điều tiết của
Nhà nước. Để tăng trưởng nhanh, cần mở rộng thị trường và phát huy sức mạnh do cơ
chế thị trường điều tiết; đồng thời luôn luôn có ý thức đối mới và điều tiết từ phía Nhà
nước bằng sự nhận thức khoa học nhằm cho sự phát triển đi đúng mục tiêu đã vạch ra.
Lí thuyết phát triển đã cung cấp nhiều mô hình tăng trưởng được rút ra từ thực tế trong
2 thế kỉ qua, các mô hình đều đưa ra nhiều giả định và những mô hình đều nhấn mạnh
vào một yếu tố như là : lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ. Tuy
nhiên trong bối cảnh hiện nay cần phải biết phát huy lợi thế của từng nhân tố và tạo ra
sức mạnh tổng hợp bằng cách kết hợp các yếu tố đó . Trong chiến lược phát triển có:
Chiến lược phát triển khép kín và chiến lược kinh tế mở. Ngày nay các nước đang thực
hiện phối hợp giữa chúng để chuyển tiếp và hỗ trợ cho nhau trong quá trình phát triển .
Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế
Trong mô hình phát triển kinh tế, Chính phủ (G) cũng là một nhân tố như các tác nhân:
Người tiêu dùng (C), người sản xuất (I) và người nước ngoài (X - M) trong việc tạo ra
giá trị sản lượng.
Y = C + I + G + (X - M)
Tuy nhiên, trong nền kinh tế hỗn hợp, Chính phủ có vai trò quan trọng hơn. Về phương
diện tác nhân kinh tế, Chính phủ vừa là người tiêu dùng vừa là người sản xuất và do đó

25/27


×